Quyển năm Quỷ dữ cũng có thiện chí I Tìm thấy con mà như mất con-
Khi Michelle Fléchard nhìn thấy tòa tháp đỏ chói dưới ánh mặt trời thì chị còn cách đó hơn một dặm đường. Lúc đó, tưởng chừng như chị không thể bước thêm một bước nữa. Vậy mà chị không ngần ngại trước dặm đường cuối cùng ấy. Đàn bà yếu đuối nhưng các bà mẹ lại rất khỏe. Chị ta đã đi tiếp.
Mặt trời đã lặn; hoàng hôn xuống rồi tối sẫm; vừa đi chị vừa nghe từ một gác chuông bị che khuất vọng lại tiếng chuông điểm tám giờ rồi chín giờ. Có thể đó là gác chuông nhà thờ Parigné. Chốc chốc, chị dừng chân lắng nghe những tiếng nổ bùng bục lắng chìm trong đêm khuya.
Chị ta nhằm thẳng phía trước mà đi, đôi bàn chân đẫm máu dẫm nát gai nhọn. Chị hướng theo luồng ánh sáng yếu ớt tỏa ra từ vọng lầu xa xa, như một tia sáng huyền bí phát ra từ ngôi tháp chìm trong bóng tối. Khi những tiếng nổ nghe rõ hơn thì luồng ánh sáng lóe sáng rồi tắt ngấm.
Michelle Fléchard đang đi trên một cao nguyên mênh mông không có nhà cửa, cây cối, chỉ có cỏ và bụi dại; cao nguyên cao dần lên và ở tận chân trời in lên nền đầy sao một vệt dài. Trên con đường dốc ấy tòa tháp trông thấy trước mắt giúp cho chị rảo bước.
Chị thấy tòa tháp đó to dần lên.
Những tiếng nổ văng vẳng và đứt quãng, những luồng ánh sáng mờ nhạt từ tòa tháp phát ra, khi ẩn khi hiện, làm cho người mẹ khốn khổ, tuyệt vọng càng thấy có cái gì thật là bí ẩn xót xa. Đột nhiên, tất cả đều ngừng hẳn; tiếng nổ và ánh sáng cùng tắt; hoàn toàn im lặng, im lặng đến ghê rợn.
Vừa lúc đó Michelle Fléchard đặt chân tới rìa cao nguyên.
Dưới chân chị là một cái khe, không trông thấy đáy trong bóng đêm dày đặc; gần đó, trên cao nguyên nhấp nhô những ụ đất, bánh xe, thùng xe; đó là một khẩu đội pháo, và trước mặt chị những mồi lửa chuẩn bị để bắn đại bác soi sáng lờ mờ một dinh cơ đồ sộ in hình thù đen ngòm lên bóng tối chung quanh.
Dinh cơ ấy gồm mấy nhịp cầu chìm dưới khe, và một tòa nhà xây ngay trên cầu đó, nhà và cầu tựa vào ngôi tháp đen ngòm mà người đàn bà này từ xa nhắm bước tới.
Ánh sáng lấp lóe sau các cửa tò vò trên tháp và qua tiếng ồn ào vọng ra ngoài người ta đoán là có một đám đông trong tháp; mấy bóng người nhấp nhô trên sân thượng.
Gần khẩu đội pháo là một chỗ trú, chị Fléchard nhìn rõ cả lính đứng gác; nhưng không ai nhìn thấy chị vì chị lẫn trong bụi rậm và bóng tối.
Chị đến rìa cao nguyên: sát cầu, tưởng chừng đưa tay ra là có thể với tới. Nhưng khe sâu đã ngăn chị lại. Trong bóng tối, chị nhận thấy tòa nhà trên cầu gồm ba tầng. Chị đứng lại một lúc, quên cả thời gian, đăm đăm và im lặng trước cái khe sâu há hoác và ngôi nhà tối tăm. Đây là đâu? Cái gì đã xảy ra? Có phải tháp Tourgue không? Chị thấy choáng váng giống như cảm giác của một người lúc ra đi và lúc tới đích. Chị tự hỏi vì sao lại đến đây.
Chị nhìn, chị nghe ngóng.
Đột nhiên, chị chẳng thấy gì nữa.
Giữa chỗ chị đứng và ngôi tháp một màn khói bốc lên. Một cảm giác cay sè làm chị nhắm nghiền mắt lại. Vừa nhắm mắt thì mi mắt chị đỏ rực lên. Chị lại mở mắt ra.
Trước mắt chị, không còn là đêm tối nữa mà sáng như ban ngày; nhưng đây là một thứ ánh sáng bi đát, ánh sáng phát ra từ lửa. Một đám cháy vừa bắt đầu bùng lên trước mắt chị.
Đám khói đang từ màu đen chuyển sang màu đỏ tươi, giữa đám khói ấy là một ngọn lửa lớn, khi ẩn, khi hiện, ngoằn ngoèo, hung hãn như ánh chớp và rắn bò.
Ngọn lửa ấy như một cái lưỡi thè ra từ một cái gì giống như một cái mõm, đó chính là cái cửa sổ rực lửa có chấn song sắt đã nung đỏ là một trong những cửa sổ ở tầng dưới tòa lầu xây trên cầu. Trên dinh cơ ấy, chỉ còn nhìn thấy cái cửa sổ này. Khói đen bao phủ tất cả, cả cao nguyên, mắt chỉ nhìn thấy bờ khe màu đen nổi lên trên nền lửa đỏ rực.
Michelle Fléchard nhìn, ngơ ngác. Khói là mây, mây là mộng; chị không biết mình đang nhìn cái gì. Nên chạy đi hay ở lại? Chị cảm thấy gần như thoát ra khỏi thực tại.
Một ngọn lửa thổi qua, rạch tấm màn khói, và lúc ấy, ngôi nhà ngục bi thảm bỗng phơi trần ra, rõ mồn một, vọng lâu, cầu, tòa nhà, chói lọi, kinh khủng giữa đám lửa vàng tươi lộng lẫy, phản chiếu suốt từ trên xuống dưới. Qua ánh lửa bi thảm. Fléchard thấy rõ cả.
Tầng dưới lâu đài xây trên cầu bốc cháy.
Lửa chưa bén tới hai tầng trên, nhưng nom như đặt vào một cái lẵng lửa. Từ mép cao nguyên qua lửa và khói quyện vào nhau người ta có thể nhìn thấp thoáng vào bên trong. Tất cả các cửa sổ đều mở toang.
Qua các cửa sổ lớn ở tầng thứ nhì, Michelle Fléchard nhìn thấy những chiếc tủ hình như đựng đầy sách kê dọc tường và trước một khung cửa sổ, ở dưới đất, trong bóng tối chập chờn, có một đám lộn xộn trông không rõ như một tổ chim hoặc một ổ trứng đang ấp, chốc chốc lại cựa quậy.
Chị dán mắt vào cái đó.
Đám bóng đen lộn xộn ấy là gì vậy?
Có lúc trong óc chị lại nảy ra ý nghĩ rằng những bóng đen đó giống hình người; chị đang lên cơn sốt, từ sáng chị chưa ăn, đi miết không nghỉ, mệt lả, chị cảm thấy như đang trong cơn mê sảng; tuy thế mắt chị như dán chặt không thể rời khỏi cái đống đen ngòm có vẻ không cử động, nằm sóng soài trên sàn gian phòng trên đám cháy.
Bỗng nhiên, lửa bén vào cây dây leo đã chết khô phủ kín bức tường mà chị Fléchard đang nhìn. Có thể nói rằng ngọn lửa vừa mới phát hiện ra cái cành khô đó. Một tia lửa vồ vập chiếm lấy rồi leo dọc đám dây khô, nhanh nhẹn, đáng sợ như một dây thuốc súng. Trong nháy mắt lửa bắt lên tầng thứ nhì và từ đấy soi sáng phía trong gác một. Một tia chớp chói lọi soi rõ ba đứa bé đang ngủ, một đống nhỏ nhoi đáng yêu, chân tay quấn lấy nhau, mi mắt nhắm lại, đầu tóc vàng hoe, nét mặt tươi cười.
Người mẹ nhận ra các con mình.
Chị thét lên một tiếng hãi hùng.
Chỉ có các bà mẹ mới có tiếng thét kinh hoàng khó tả đó. Không còn gì ghê sợ và xúc động hơn. Khi một người đàn bà thét lên, người ta liên tưởng như tiếng kêu của sói cái; sói cái thét lên người ta tưởng như tiếng một người đàn bà.
Tiếng kêu của chị Fléchard là một tiếng rú. Như là Homère viết: Hecube rú lên [1].
Chính lão hầu tước De Lantenac vừa nghe tiếng rú đó.
Lão đã dừng chân lại.
Lão đang đứng ở quãng giữa lối ra của con đường hầm mà Halmalo đã chỉ cho lão và cái khe. Qua những bụi rậm trên đầu lão, lão thấy cái cầu bốc cháy, tháp Tourgue phản chiếu ánh sáng đỏ rực, và qua một kẽ giữa hai cành cây lão nhìn thấy phía trên đầu lão, ở mé bên kia, dưới chân cao nguyên, đối diện với lâu đài đang rực cháy, và trong ánh lửa sáng lóe một bộ mặt rã rời và thảm thương, một người đàn bà đang nhoài xuống khe sâu.
Chính tiếng rú của người này đã khiến cho Lantenac dừng lại.
Bộ mặt đó không còn là của Michelle Fléchard nữa mà là của Gorgone [2]. Những kẻ cùng cực là những kẻ đáng sợ. Người đàn bà quê mùa bỗng biến thành một nữ hung thần. Người đàn bà thôn quê, tầm thường, dốt nát, vô ý thức ấy bỗng nhiên có tầm vóc hùng tráng của cơn tuyệt vọng. Những nỗi đau khổ to lớn làm cho tâm hồn lớn lên phi thường; người mẹ ấy là hiện thân của tình mẫu tử; tất cả cái gì kết tinh của nhân loại đều là siêu phàm; người mẹ đứng đó, trên bờ khe, trước đám cháy, trước tội ác, như một sức mạnh rùng rợn; tiếng thét của chị là tiếng rú của con thú nhưng dáng điệu là dáng điệu của một nữ thần; trong khi chị nguyền rủa, mặt chị như một chiếc mặt nạ rực lửa. Không gì oai nghi bằng cặp mắt đẫm lệ của chị, cái nhìn của chị trút sấm sét vào đám cháy.
Lão hầu tước lắng tai nghe. Tiếng thét ấy trút lên đầu lão. Lão nghe như cái gì không thành tiếng mà xé ruột, không phải là tiếng nói mà là những tiếng nức nở.
- A! Trời ơi! Các con tôi! Các con tôi đó! Cứu! Cháy! Cháy! Cháy! Các người là kẻ cướp hẳn! Không có ai đấy à? Các con tôi sắp chết cháy rồi! A! Lạ chưa kìa! Georgette! Các con ơi! Gros-Alain! René-Jean! Thế này là thế nào? Ai bỏ con tôi vào đó? Chúng còn ngủ. Tôi điên lên mất! Không thể thế được. Cứu chúng nó!
Lúc ấy trong tháp và trên cao nguyên đang nhốn nháo. Mọi người lao đến quanh đám lửa mới bùng lên. Quân bao vây sau khi bận rộn với súng đạn, lại phải đối phó với đám cháy. Gauvain, Cimourdain, Guéchamp liên tiếp ra lệnh. Làm gì bây giờ? Trong con suối dưới khe không đủ múc vài gầu nước. Nỗi lo âu càng tăng lên. Ở ven cao nguyên, những bộ mặt hốt hoảng ngây ra nhìn.
Cảnh trước mặt thật là kinh khủng.
Ngọn lửa theo dây leo đã bén lên tầng thượng. Trên đó, nó lao vào cái vực đầy rơm khô. Bây giờ thì cả vựa rơm bùng cháy. Ngọn lửa nhảy múa, vui đùa một cách ghê rợn. Hình như có một hơi thở tàn ác đang thổi vào đống củi ấy. Có thể nói rằng toàn thân tên Imânus kinh khủng đã biến thành cơn bão lửa, nó sống lại trong ngọn lửa tàn khốc và kinh hồn; con quỷ ấy đã biến thành đám cháy. Tầng gác thư viện chưa bắt lửa vì có trần cao và tường dày, những cái phút định mệnh đang đến dần; lửa tầng dưới đã bén lên, lửa tầng trên sà xuống. Thần chết như sắp đặt lên tầng giữa một cái hôn ghê tởm. Ở dưới là một cái hầm lửa, ở trên là một vòm than hồng; sàn và trần đều có thể thiêu ra tro với tất cả những cái gì ở tầng giữa. Ba đứa bé vẫn chưa thức giấc; chúng ngủ say sưa và bình dị; qua các cửa sổ mở toang, người ta có thể nhìn thấy chúng nằm trong cái hang lửa, bình thản, duyên dáng, im lặng, như ba đứa con của Chúa yên tâm nằm ngủ dưới địa ngục; đến một con hổ khi thấy những bông hoa hồng kia vứt vào cái lò lửa ấy, và những chiếc nôi bỏ trong mồ như vậy cũng phải rơi nước mắt.
Trong lúc đó người mẹ vật vã, kêu lên:
- Cháy! Tôi kêu cháy mà! Điếc cả hay sao mà không ai tới thế này! Người ta thiêu con tôi! Tới đi, những ông đứng kia kìa. Đã bao ngày tôi đi tìm, bây giờ tôi gặp con tôi như thế này. Cháy! Cứu chúng nó với! Chúng nó là những thiên thần! Bọn trẻ thơ ấy, đã làm gì? Tôi, thì họ đã đem bắn, còn chúng nó, họ lại thiêu! Kẻ nào làm điều đó? Cứu với! Cứu con tôi với! Các ông không nghe tôi kêu ư? Cái thân khốn khổ này, các ông rủ lòng thương với! Các con tôi kia! Chúng vẫn ngủ! A! Georgette, tôi nhìn thấy cái bụng đáng yêu của nó kia! René-Jean! Gros-Alain! Tên chúng như thế đấy. Các ông thấy rõ chính tôi là mẹ chúng. Việc xảy ra lúc này đến là kinh tởm. Tôi đã đi bao ngày đêm rồi. Cả sáng nay, tôi còn nói chuyện với một người đàn bà. Cứu với! Cứu với! Cháy! Các người là bọn quỷ chăng! Thật là kinh khủng! Đứa lớn chưa được năm tuổi, đứa bé chưa được hai tuổi. Tôi trông rõ chân chúng trần trụi kia! Chúng đang ngủ, lạy Đức mẹ Đồng trinh! Bàn tay Chúa đem chúng lại cho tôi, bàn tay quỷ lại cướp chúng đi mất. Tôi đi mất bao nhiêu ngày rồi! Con tôi đó. Tôi đã nuôi nấng chúng bằng sữa của tôi! Tôi khổ sở bao nhiêu, cứ tưởng là không được thấy chúng! Hãy thương tôi! Tôi cần con tôi, phải trả con cho tôi! Thật rõ ràng là chúng đang nằm trong lò lửa kia! Xem đôi chân tôi đầy máu đây này! Cứu với! Không có người trên mặt đất nữa sao! Mà lại để con trẻ chết như vậy ư? Cứu với! Bắt lấy kẻ giết người! Thật không thấy chuyện thế này bao giờ. A! Đồ kẻ cướp! Cái nhà ghê tởm này là nhà nào? Họ cướp con tôi để đem đi giết! Lạy Chúa! Tôi muốn đòi lại các con tôi. Ôi! Tôi đến điên mất! Tôi không muốn các con tôi chết! Cứu với! Cứu với! Cứu với! Ôi! Nếu chúng phải chết như thế này thì tôi sẽ giết cả Chúa!
Trong lúc người mẹ cất lên tiếng van lơn đáng sợ, thì trên cao nguyên và dưới khe tiếng người vang lên.
- Cho một cái thang!
- Không có thang!
- Nước!
- Không có nước!
- Ở tầng hai, có cái cửa!
- Cửa bằng sắt.
- Phá đổ nó đi!
- Không thể được!
Và người mẹ lại càng gào lên tuyệt vọng:
- Cháy! Cứu với! Nhanh lên các ông ơi! Này giết tôi đi! Các con ơi! Các con ơi! A! Ngọn lửa ghê tởm kia! Có ai dập tắt nó đi, không thì nốt tôi vào đó!
Trong khoảng cách những tiếng kêu la ấy, đám cháy lặng lẽ nổ tí tách.
Lão hầu tước lần túi và sờ thấy chiếc chìa khóa tấm cửa sắt. Thế rồi, lão lại lom khom chui qua vòm cây để trở lại con đường lão vừa đi ra.
Chú thích:
[1] Bà Hecube, vợ của vua Priam, có 19 con; chồng con bà đều chết trong cuộc chiến tranh chiếm thành Troie, dưới mắt bà. Thi hào Homère đã kể chuyện này trong truyện thơ của ông.
[2] Quái vật hoang đường; trong văn học, tượng trưng cho một sức mạnh đáng sợ, một thứ hỗn hợp ám muội, độc ác tàn bạo, ghê tởm.
II
Từ cánh cửa đá đến cánh cửa sắt
Cả một đoàn quân bất lực, cuống cuồng quanh một trường hợp cấp cứu không thể thực hiện được, bốn nghìn con người mà không cứu được ba đứa trẻ; tình hình là như vậy.
Bởi vì họ không có thang; cái thang lấy ở Javené không về đến nơi; đám cháy lan rộng như một cái miệng núi lửa mở ra; tính chuyện dập tắt với rãnh nước dưới khe hầu như cạn khô thật là mơ hồ; khác nào đổ một cốc nước lên một hỏa diệm sơn.
Cimourdain, Guéchamp và Radoub đều đã xuống dưới khe; Gauvain đã đi lên tầng lầu thứ hai nơi có cánh cửa đá xoay, lối thoát bí mật, và có cánh cửa sắt của thư viện. Đó là chỗ đặt cái mồi diêm sinh do Imânus đốt; đám cháy bốc lên từ chỗ đó.
Gauvain đã dẫn theo hai chục công binh. Chỉ còn cách phá đổ tấm cửa sắt bị đóng chặt một cách kinh khủng.
Họ bắt đầu bổ những nhát rìu. Rìu gãy hết. Một công binh nói:
- Đối với thứ sắt này, rìu thép dòn như thủy tinh.
Cánh cửa đúng là loại sắt nện, làm bằng hai tấm bắt đinh ốc chặt vào nhau, mỗi tấm dày tới tám phân mét.
Họ lấy mấy thanh sắt thử bẩy tấm cửa lên. Mấy thanh sắt gãy hết.
- Giòn như que diêm. - Anh công binh nói.
Gauvain cau mặt, lẩm bẩm:
- Chỉ có bắn một phát đại bác mới phá được cái cửa này. Khéo phải chuyển một khẩu đại bác lên đây.
- Cũng chưa chắc. - Anh công binh nói.
Giây phút căng thẳng. Tất cả những cánh tay bất lực ấy cùng ngừng lại. Im lặng, thất bại, ngán ngẩm, họ ngắm nhìn tấm cửa sắt ghê rợn, không tài nào lay chuyển được. Ánh lửa đỏ rực từ bên trong hắt ra qua kẽ hở dưới chân cửa. Đằng sau cửa đám cháy to dần.
Xác chết ghê tởm của tên Imânus vẫn nằm đó. Nó đã thắng một cách độc ác.
Có lẽ chỉ vài phút nữa là tất cả sẽ sụp đổ.
Làm gì bây giờ? Không còn mảy may hy vọng nào nữa.
Gauvain mắt dán vào cái cửa đá xoay ở tường và con đường bọn giặc trốn thoát ra, tức giận kêu lên:
- Đúng là lão hầu tước De Lantenac đã đi ra lối này!
- Và lão đã trở lại - Một giọng nói cất lên.
Rồi một cái đầu bạc hiện lên trong khung cửa đá, cửa lối đi bí mật.
Đó là lão hầu tước.
Đã bao nhiêu năm rồi Gauvain không giáp mặt lão gần sát như lúc này. Gauvain lùi lại.
Mọi người có mặt ở đó đứng ngây cả ra.
Lão hầu tước cầm một chiếc thìa khóa lớn, lão đưa mắt nhìn mấy công binh đứng phía trước với dáng kẻ cả, khiến họ dạt sang một bên, rồi lão bước thẳng tới chỗ cửa sắt, khom lưng dưới vòm cửa và tra khóa vào ổ. Ổ khóa rít lên, cửa mở ra, mọi người nhìn thấy một vực thẳm đầy lửa, lão hầu tước bước vào trong đó.
Lão đi vào, bước vững chắc, đầu ngẩng cao.
Mọi người nhìn theo lão, rùng mình.
Lão vừa đi được vài bước trong phòng thì cả cái sàn nhà đã bị lửa đốt lại bị bước chân lão làm rung chuyển bỗng sụt xuống đằng sau lão, làm thành một vực sâu giữa lão và tấm cửa sắt. Lão không quay đầu lại, vẫn tiếp tục bước đi. Lão biến mất trong làn khói.
Không ai trông thấy gì nữa.
Lão có đi xa được hơn không? Liệu có mảnh sàn nào lại sụt ngay dưới chân lão và ném lão vào lửa hồng không? Liệu lão có làm được gì hay chỉ dấn thân vào chỗ chết? Không ai có thể biết được. Trước mặt mọi người, chỉ có một bức thành khói và lửa. Lão hầu tước ở bên kia bức thành chết hoặc sống. III
Thấy các con thức giấc
Vừa lúc đó bọn trẻ đã mở choàng mắt.
Đám cháy chưa lan vào trong thư viện, mới hắt ánh sáng hồng lên trần nhà. Bọn trẻ chưa từng thấy cái rạng đông như thế bao giờ. Chúng nhìn, Georgette ngắm nghía.
Tất cả vẻ lộng lẫy của đám cháy đều phơi bày ra; con mãng xà đen cùng con rồng đỏ tươi hiện ra trong đám khói dị hình đen ngòm và đỏ tía một cách lộng lẫy, những tàn lửa dài bay ra xa, rạch màn đêm như những ngôi sao chổi đuổi theo nhau. Lửa thật là phong phú; những đốm than hồng như những nắm châu báu vãi trong gió; than đá cùng loại với kim cương, đúng thế. Lửa làm nứt rạn bức tường thứ ba qua các kẽ nứt than hồng đổ xuống khe những thác ngọc thạch; rơm và lúa mạch cháy trong vựa bắt đầu đổ qua cửa sổ từng trận mưa bụi vàng, lúa mạch biến thành ngọc tím, và cọng rơm cháy khác nào ngọc đỏ.
- Đẹp quá! - Georgette kêu lên.
Cả ba đứa bé cùng nhỏm dậy.
- A! - Người mẹ kêu lên - Chúng thức dậy rồi kia!
René-Jean đứng dậy, rồi Gros-Alain và Georgette vùng đứng dậy.
René-Jean vươn vai, đi tới bên cửa sổ và nói:
- Nóng quá.
- Óng - Georgette lặp lại.
Bà mẹ lên tiếng gọi chúng:
- Các con ơi! René, Alain, Georgette!
Bọn trẻ nhìn xung quanh chúng. Chúng đang tìm hiểu xem có chuyện gì. Chỗ nào người lớn hốt hoảng thì trẻ con lại tò mò. Ai dễ ngạc nhiên thì không hay sợ. Điếc thì dạn súng. Trẻ thơ chẳng đáng được xuống âm phủ, mà nếu chúng có xuống đấy, chúng lại thích thú không biết chừng.
Bà mẹ lặp lại:
- René! Alain! Georgette!
René-Jean quay đầu lại; tiếng nói đó làm cho nó chú ý; trẻ thơ có trí nhớ ngắn ngủi nhưng hồi ức lại nhạy bén; tất cả quá khứ đối với chúng như mới xảy ra hôm qua; René-Jean nhìn thấy mẹ nó, coi như một điều rất đơn giản, và với bao nhiêu sự lạ kỳ chung quanh nó, nó cảm thấy cần được che chở, nó kêu lên:
- Mẹ!
- Mẹ! - Gros-Alain gọi.
- M...ẹ! - Georgette gọi.
Rồi con bé chìa hai cánh tay nhỏ nhắn ra.
Thế là người mẹ lại gào lên:
- Các con ơi!
Cả ba đứa tới bên cửa sổ; may sao, đám cháy chưa lan tới chỗ đó.
- Nóng quá! - René-Jean nói.
Rồi nó nói thêm:
- Nóng rát quá.
Nó đưa mắt tìm mẹ nó.
- Mẹ ơi, lại đây.
- Mẹ, đây. - Georgette lặp lại.
Người mẹ tóc xõa rối bù, áo quần rách bươm, thân thể rớm máu, lăn nhào xuống dưới hào, từ bụi này qua bụi khác. Cimourdain đứng dưới hào với Guéchamp, cũng bất lực như Gauvain đứng ở trên lầu. Binh lính nhộn nhạo xung quanh, đều tuyệt vọng vì thấy không làm được gì. Nóng không thể chịu được nhưng chẳng ai để ý. Họ quan sát chiếc cầu chiều cao của các nhịp cầu, chiều cao của các tầng lầu, chiều cao cửa sổ không thể với tới được. Phải hành động mau lẹ. Phải vượt ba tầng lầu. Không có cách nào lên tới trên cao. Viên đội Radoub bị thương, một nhát kiếm chém vào vai, một tai cụt, máu và mồ hôi lênh láng, chạy tới; Anh ta nhìn thấy chị Fléchard.
- Kìa! Cái chị bị bắn chết! Sống lại ư?
- Các con tôi! - Người mẹ nói.
- Đúng rồi - Radoub trả lời - Thôi, không có thì giờ nói chuyện với ma nữa.
Rồi, anh cố leo lên cầu, nhưng vô ích, anh bấu móng tay vào đá, nhưng các lớp đá xây rất nhẵn, không có chỗ nứt nẻ, không có chỗ lồi ra, bức thành cũng đã được trét lại như mới, và Radoub lăn xuống. Đám cháy vẫn tiếp tục, ghê rợn; qua khung cửa sổ đỏ rực, người ta nhìn rõ ba cái đầu tóc vàng hoe. Radoub chĩa nắm đấm lên trời, hình như anh ta tìm ai trên đó, và nói: Xử sự như thế hở Chúa! Còn người mẹ thì quỳ xuống ôm trụ cầu, kêu lên:
- Lạy Chúa!
Những tiếng nổ răng rắc âm ỉ xen lẫn tiếng than hồng tí tách. Mặt kính ở các tủ sách của thư viện rạn nứt ra, rơi xuống loảng xoảng. Tường nhà sắp sập. Sức người không còn làm gì được. Chỉ giây lát nữa tất cả sẽ sụp đổ. Người ta chỉ còn chờ đợi tai họa. Người ta nghe thấy những tiếng nói bé bỏng lặp lại: Mẹ! Mẹ! Sự hãi hùng đã đến cực độ.
Đột nhiên, giữa cảnh lửa cháy đỏ rực, một người cao lớn hiện ta ở khung cửa sổ bên cạnh cửa sổ có bọn trẻ đứng. Mọi người ngẩng lên, mọi con mắt nhìn chăm chắm. Có một người trên đó, một người đang ở trong thư viện, đang ở trong lò lửa. Bộ mặt ấy in hình đen trên nền lửa đỏ, tóc bạc phơ. Người ta nhận ra lão hầu tước De Lantenac.
Lão biến mất, rồi lại hiện ra.
Lão già rùng rợn đó đứng lên cửa sổ, chuyển một cái thang lớn. Đó là cái thang cấp cứu vẫn đặt trong thư viện, lão đã nhìn thấy bên chân tường, và lão lôi ra tận cửa sổ. Lão cầm một đầu thang, rồi với vẻ lanh lẹ tuyệt vời của một lực sĩ, lão luồn cái thang qua cửa sổ, ghếch vào cái gờ tường bên ngoài, xuống tận dưới khe. Ở dưới đó viên đội Radoub cuống quít chìa tay đón chiếc thang, ôm chặt lấy nó và hô to:
- Cộng hòa muôn năm!
Lão hầu tước đáp lại:
- Đức vua muôn năm!
Radoub làu bàu:
- Lão muốn hô gì thì hô, nói bậy cũng được, lão là Chúa nhân từ đấy.
Thang đã đặt; gian phòng đang cháy đã được nối liền với dưới đất, hai chục người chạy lại, Radoub dẫn đầu; nhanh như cắt họ leo lên thang sắp thành hàng dọc như thợ nề chuyển đá. Như vậy là liền với chiếc thang gỗ là một chiếc thang người. Đầu thang, Radoub đứng sát cửa sổ. Anh ta quay mặt vào đám cháy.
Đám quân tản mác trong bụi rậm và các bờ dốc, xúc động, cụm lại trên cao nguyên, dưới khe, trên mái bằng tòa tháp.
Lão hầu tước lại biến đi, rồi hiện ra, bế theo một đứa bé.
Tiếng vỗ tay vang cả lên.
Đó là đứa thứ nhất, mà lão hầu tước vớ được. Gros-Alain.
Gros-Alain kêu lên:
- Sợ quá!
Lão hầu tước đưa thằng bé cho Radoub, anh chuyền xuống phía dưới cho một người lính, người này lại chuyền tiếp xuống nữa, thế rồi trong khi thằng bé này sợ sệt kêu lên và được chuyền tay xuống đất thì lão hầu tước lại biến đi một lát rồi lại trở lại cửa sổ với René-Jean, chú này cứ khóc vang lên và cưỡng lại, đánh cả Radoub lúc lão hầu tước trao chú cho viên đội.
Lão hầu tước trở lại trong phòng rực lửa. Còn lại một mình Georgette. Lão đi lại phía em. Em cười. Con người bằng đá kia bỗng thấy mắt mình có cái gì ươn ướt. Lão hỏi:
- Tên cháu là gì?
- Orgette. - Em bé nói.
Lão bế em lên tay, em bé vẫn cười, và lúc lão đưa em cho Radoub, thì cái lương tâm rất cao thượng và đen tối ấy bỗng xúc động trước sự thơ ngây, lão già hôn đứa trẻ.
- Con bé đấy! - Binh lính đồng thanh nói.
Và Georgette lại được chuyền xuống qua tay từng người giữa những tiếng reo quý mến. Họ vỗ tay, họ dẫm chân; những người lính già nức nở khóc, em bé mỉm cười với họ.
Người mẹ đứng ở chân thang, hổn hển, mê man, ngây ngất vì cái chuyện bất ngờ ấy như nhảy thẳng từ địa ngục lên thiên đường. Nỗi vui thái quá thường làm tê tái lòng. Chị giơ tay ra, đón Gros-Alain trước, rồi René-Jean, rồi Georgette, hôn lấy hôn để, rồi chị ta phá ra cười và ngã lăn bất tỉnh.
Một tiếng kêu lớn cất lên:
- Thoát cả rồi!
Thoát cả rồi thật, trừ lão già.
Nhưng không ai nghĩ đến chuyện đó, có lẽ cả lão nữa.
Lão đứng lại bên cửa sổ một lát mơ màng như muốn dành thì giờ cho cái vực lửa kia định đoạt. Rồi, ung dung, từ từ, kiêu hãnh, lão bước qua bực cửa sổ, và không ngoảnh lại, ngay ngắn, đứng thẳng, tựa vào bậc thang, sau lưng là đám cháy, đối diện là vực sâu, lão lặng lẽ bước xuống thang đường hoàng như một bóng ma. Những người còn đứng trên thang vội nhào xuống, mọi người rùng mình, chung quanh cái con người từ trên cao bước xuống, người ta phải dãn ra kinh sợ như trước một ảo ảnh linh thiêng nào đó. Còn lão vẫn đĩnh đạc giấu vào bóng tối trước mặt; họ càng lùi, lão càng tiến lại gần họ; sắc mặt lão xanh xao lạnh lùng không một nếp nhăn, đôi mắt ma của lão không một ánh chớp; mỗi bước lão tới gần những người đang nhớn nhác nhìn lão trong bóng tối, lão như to lớn thêm lên, chiếc thang rung lên cót két dưới bàn chân ghê rợn của lão tựa như tượng của hiệp sĩ trở xuống mồ.
Khi lão hầu tước xuống đến bậc thang cuối cùng và đặt chân xuống đất, một bàn tay chít lấy cổ lão. Lão quay lại.
- Ta bắt ngươi. - Cimourdain nói.
Lantenac nói.
- Tán thành.