← Quay lại trang sách

Quyển tư Người mẹ I Tử thần đi qua

Cho đến chiều hôm ấy, người mẹ lang thang suốt cả ngày. Kể ra thì ngày nào chị ta cũng thế: cứ đi mãi, không bao giờ dừng. Giấc ngủ nặng trĩu của chị ta ở một xó nào đấy cũng chẳng phải là dịp nghỉ ngơi, cũng như ăn, gặp đâu ăn đấy chả khác loài chim. Chị ta chỉ ăn và ngủ vừa đủ để khỏi ngã gục.

Đêm qua chị ta nằm ngủ trong một cái nhà kho bỏ hoang, nội chiến đã tạo nên những ngôi nhà đổ nát ấy; giữa cánh đồng vắng vẻ, chị ta thấy bốn bức tường, một cái cửa mở toang, một ít rơm dưới một mái nhà xơ xác, và chị nằm trên ổ rơm ấy, dưới mái nhà ấy, nghe chuột rúc dưới rơm, và nhìn sao mọc qua mái nhà. Chị ta ngủ một giấc; rồi nửa đêm thức dậy chị ta lại đi, cố gắng đi cho được một quãng khá dài trước khi nắng gắt. Đối với những người đi bộ đường xa về mùa hè, đi ban đêm dễ chịu hơn đi ban ngày.

Chị ta cố đi theo đúng con đường ang áng do người dân quê ở Ventortes chỉ cho; chị ta đi mãi về phía mặt trời lặn. Ai gần chị lúc ấy chắc cũng nghe tiếng chị lẩm bẩm luôn miệng: La Tourgue. Cùng với tên ba đứa con, chị ta chỉ còn biết tiếng ấy nữa mà thôi.

Vừa đi, chị vừa nghĩ ngợi. Chị nghĩ đến những biến cố đã qua; chị nghĩ đến tất cả những đau khổ, những điều đã chịu đựng, những cuộc gặp gỡ, những cái ô nhục, những điều kiện, để có chỗ nghỉ chân, để lấy một miếng bánh, có khi chỉ để người ta chỉ đường cho. Một người đàn bà khốn khổ còn đau thương hơn một người đàn ông khốn khổ, vì họ còn là một thứ đồ chơi. Bước đường lưu lạc quả là ghê rợn. Dầu sao, chị cũng coi thường tất cả, miễn là tìm được con.

Hôm ấy chị ta tới một thôn cạnh đường; trời mới tờ mờ sáng, cảnh vật còn chìm trong đêm tối; tuy vậy, vài cánh cửa đã hé mở và có những người tò mò thò đầu ra ngoài cửa sổ. Dân chúng xôn xao như ong vỡ tổ. Đó là do họ vừa nghe thấy tiếng bánh xe lăn và tiếng xích sắt loảng xoảng.

Trên quảng trường, trước nhà thờ, một đám đông hốt hoảng, mắt nghếch lên trời đang nhìn một cái gì từ đỉnh đồi kéo xuống theo con đường đi vào thôn. Đó là một chiếc xe bốn bánh có năm con ngựa buộc xích kéo. Trên chiếc xe chồng chất những thứ giống như những rường nhà dài, ở giữa có cái gì hình dạng khác thường; tất cả được che dưới một chiếc vải bạt nom như một tấm vải liệm. Mười người cưỡi ngựa đi trước, mười người cưỡi ngựa đi sau. Họ đội mũ chào mào, và phía trên vai họ ló lên những mũi nhọn như là gươm tuốt trần. Cả đoàn ấy tiến chậm chạp, vạch một nét đen đâm lên nền chân trời. Tưởng như xe, ngựa, người cùng một màu đen. Phía sau là cảnh ban mai tái nhợt.

Cả đoàn tiến vào thôn và đi vào quảng trường.

Trong lúc chiếc xe đi xuống, trời đã hửng sáng và người ta đã có thể nhìn rõ đoàn người đi lặng lẽ như những cái bóng.

Giữa lúc cỗ xe và lính cảnh sát ấy vào quảng trường, người mẹ khốn khổ lang thang từ phía khác cũng vừa tới và lại gần đám đông. Trong đám đông đã có những tiếng thì thầm hỏi và đáp:

- Cái gì đấy?

- Cái máy chém đấy.

- Ở đâu đến?

- Từ Fougères.

- Đi về đâu?

- Không rõ. Nghe nói đi tới một lâu đài ở phía Parigné.

- Ở Parigné!

- Nó muốn đi đâu thì đi, đừng dừng ở đây là được!

Cỗ xe đồ sộ ấy, đồ đạc bọc kín trong một thứ vải liệm, đoàn ngựa kéo, lính cảnh sát, tiếng xích loảng xoảng, bọn người ngậm tăm, vào lúc mờ mờ sáng, tất cả cảnh ấy như là cảnh ma.

Đoàn người ngựa kéo qua khỏi thôn; thôn nằm trong lòng chảo, con đường vắt qua, một bên dốc xuống, một bên dốc lên; khoảng mười lăm phút sau, dân quê vẫn đứng ngẩn ra như phỗng đã lại thấy cái đoàn kinh tởm kia hiện lên ở trên đỉnh quả đồi ở phía tây. Bánh xe to lộc cộc trên đường ổ gà, giây xích kêu leng keng trong gió sớm, lưỡi gươm lấp lánh; mặt trời đã lên, con đường ngoặt sang phía khác, và tất cả mất hút.

Chính lúc ấy, Georgette trong thư viện, tỉnh dậy bên cạnh hai đứa anh đang còn ngủ, và cất tiếng chào hai bàn chân đỏ hồng của nó.

II

Tử thần lên tiếng

Người mẹ đã nhìn thấy cái vật đen tối ấy đi qua, nhưng không hiểu gì, mà cũng chẳng tìm để hiểu. Trước mắt chị ta chỉ có một mộng ảnh: mấy đứa con của chị mịt mù trong bóng tối.

Rồi chị ta cũng đi ra khỏi thôn, sau đoàn kia một chút và cùng đi một đường, cách một quãng sau tốp lính cảnh sát thứ hai. Bỗng dưng hai tiếng “máy chém” trở lại trong óc chị; “máy chém”, chị ta nghĩ. Michelle Fléchard con người mông muội ấy chẳng biết cái đó là cái gì; nhưng bản năng báo trước, chẳng biết sao chị ta rùng mình một cái, như thấy đi sau cái ấy ghê tởm quá, thế là chị rẽ qua trái, bỏ con đường cái và luồn vào dưới rừng cây khu Fougères.

Dò dẫm một lúc, chị ta thấy một gác chuông và mấy mái nhà, đó là một thôn ở ven rừng, chị ta đi tới đó. Chị ta đói.

Đó là một trong những thôn có đồn bốt của phe cộng hòa.

Chị ta đi tới trước trụ sở thôn.

Dân trong thôn cũng đang xôn xao lo lắng. Một đám người tụ tập chen chúc trước tam cấp trụ sở. Một người đang đứng trên tam cấp, tay cầm một tờ giấy lớn mở rộng, sau lưng có lính hộ vệ bên phải có một tay trống, bên trái có một người cầm lọ hồ và một cái bút quết hồ.

Trưởng thôn đứng ở bao lơn phía trên cửa trụ sở, băng tam tài đeo chéo trên người lẫn trong bộ quần áo dân quê.

Người cầm tờ giấy là người rao tin.

Anh ta đeo đai da chéo trước ngựa với một cái túi, mắc vào đấy điều này chứng tỏ anh ta đã đi từ thôn này qua thôn khác để loan báo khắp nơi.

Vừa lúc Michelle Fléchard tới gần, anh ta căng tờ giấy ra, và bắt đầu lớn tiếng đọc:

- “Nước Cộng hòa Pháp, thống nhất và không thể chia cắt”.

Một hồi trống nổi lên. Cả đám đông lại nhấp nhô. Mấy người đội mũ nồi cất mũ lên; mấy người đội mũ có vành thì ấn mũ xuống. Hồi ấy, trong vùng đó người ta có thể biết chính kiến theo kiểu mũ; mũ có vành là bảo hoàng, mũ nồi là cộng hòa. Tiếng xôn xao tắt đi và người ta nghe đọc:

- “Chiếu theo các mệnh lệnh đã tiếp nhận và quyền hạn được Ủy ban cứu quốc giao cho chúng tôi...”

Lại một hồi trống nữa. Người rao tin tiếp:

- “Và thi hành sắc luật của Viện Quốc ước đặt ra ngoài vòng pháp luật tất cả những tên phiến loạn bắt được quả tang có khí giới trong tay, và kết án tử hình tất cả những ai cho những tên phiến loạn này trú ẩn hoặc để cho chúng thoát ngục...”

Một người dân quê hỏi nhỏ người bên cạnh:

- Này, tử hình là cái gì?

Người đứng bên trả lời:

- Tôi không biết.

Người rao tin vẩy vẩy tờ giấy:

- “Chiếu theo khoản 17, luật ngày 30 tháng 4, ủy thác quyền hành cho các vị đại diện và cấp bộ kế cận giải quyết tội trạng bọn phiến loạn...”

- “Đặt ra ngoài vòng pháp luật...”

Anh ta ngừng một lát và tiếp:

- “Tất cả những kẻ có tên và bí danh sau đây...”

Mọi người lắng tai nghe.

Giọng người rao tin vang to lên:

- “Lantenac, tên cướp...”

- Đức ông đấy.

Một người dân quê lẩm bẩm. Và trong đám đông có tiếng xì xào:

- Đức ông đấy.

Người rao tin lại tiếp:

- “Lantenac, tên cướp, trước đây là hầu tước. Imânus, tên cướp...”

Hai người dân quê đưa mắt nhìn nhau.

- Gouge-le-Bruant đấy.

- Đúng, chính là ông Tiêu-Diệt-Bọn-Xanh đấy.

Người rao tin đọc tiếp danh sách.

- “Grand-Francoeur, tên cướp...”

Đám đông lầm rầm:

- Thầy tu đấy.

- Phải, tu viện trưởng Turmeau.

- Phải, làm linh mục đâu ở phía bên kia rừng La Chapelle.

- Và là kẻ cướp. - Một người đội mũ nồi nói chen vào.

Người rao tin đọc:

- “Boisnouveau, tên cướp. Hai anh em Gậy-Nhọn, hai tên cướp. Houzard, tên cướp...”

- Ông De Quélen đấy - Một người dân quê nói.

- “Panier, tên cướp...”

- Ông Sepher đấy.

- “Place-nette, tên cướp...”

- Ông Jamois đấy.

Người rao tin tiếp tục đọc, không chú ý đến những câu bàn tán ấy:

- “Guinoiseau, tên cướp. Chatenay, tức Robi, tên cướp...”

Một người dân quê nói nhỏ:

- Guinoiseau chính là Le Blond, Chatenay là De Saint-Ouen.

Người rao tin tiếp:

- “Hoisnard, tên cướp...”

Và người ta nghe trong đám đông xì xào:

- Ông De Ruillé đấy.

- Phải, ông Cành-Vàng đấy.

- Ông ấy có người anh chết trận ở Pontorson.

- Vâng, tên là Hoisnard-Malonnière.

- Một thanh niên mười chín tuổi, đẹp trai.

- Xin chú ý - Người rao tin lại tiếp - Đây là phần cuối của bản danh sách. “Belle-Vigne, tên cướp. La Musette, tên cướp. Sabre-tout, tên cướp. Brin-d’Amour, tên cướp...”

Một anh con trai hích tay một cô gái. Cô con gái cười. Người rao tin vẫn tiếp tục:

- “Chante-en-hiver, tên cướp. Le Chat, tên cướp...”

Một người dân quê nói:

- Moulard đấy.

- “Tabouze, tên cướp...”

Một người dân quê nói:

- Gauffre đấy.

- Hai anh em Gauffre - Một người đàn bà chêm vào.

- Người tử tế cả. - Một người lẩm bẩm.

Người rao tin vẩy vẩy tờ giấy và trống lại rung lên.

Người rao tin đọc tiếp:

- “Những tên nói trên đây, bất kỳ bất được ở đâu, sau khi thẩm tra lý lịch, đều đem xử tử hình ngay”.

Mọi người xôn xao.

Người rao tin tiếp:

- “Ai cho những tên này ẩn nấp và giúp chúng trốn thoát sẽ bị đưa ra tòa án quân sự và xử tử hình. Ký tên...”

Bỗng lặng phắc cả.

- “Ký tên: Đại diện Ủy ban Cứu quốc, Cimourdain”

- Một ông thầy tu. - Một người dân quê nói.

- Cha xứ Parigné đấy.

Một thị dân thêm:

- Turmeau và Cimourdain. Một thầy tu trắng và một thầy tu xanh.

- Cả hai đều đen ngòm. - Một thị dân khác nói tiếp.

Thôn trưởng đứng trên bao lơn giơ mũ lên và hô:

- Cộng hòa muôn năm!

Một hồi trống nữa báo rằng người rao tin chưa đọc xong. Quả nhiên anh ta vẫy tay:

- Chú ý! Tờ cáo thị còn bốn hàng cuối cùng đây. Do cấp chỉ huy đạo quân chinh phạt vùng Bờ-Biển-Bắc là tư lệnh Gauvain ký tên.

- Nghe kìa! - Trong đám đông có tiếng nói.

Và người rao tin đọc:

- “Xử tội tử hình...”

Mọi người im lặng.

- “Kẻ nào vi phạm lệnh cấm mọi sự cứu giúp mười chín tên phản nghịch nói trên hiện đang bị bao vây trong tháp Tourgue”.

- Sao? - Có người hỏi.

Tiếng đàn bà. Tiếng một người mẹ.

III

Dân quê xì xào

Michelle Fléchard đứng lẫn vào đám đông. Chị ta không nghe được gì cả, nhưng điều không lắng nghe lại lọt vào tai. Tiếng La Tourgue đã lọt tai chị ta. Chị ta ngẩng đầu lên và lặp lại: “Sao? La Tourgue à?”

Người ta nhìn chị. Chị có vẻ ngơ ngác, rách rưới. Có tiếng rì rầm: “Trông có vẻ một mụ kẻ cướp”.

Một người đàn bà dân quê bưng một thúng bánh mì đen đến gần và nói nhỏ với chị ta:

- Im đi.

Michelle Fléchard đờ đẫn nhìn bà kia. Chị ta lại chẳng hiểu gì nữa. Cái tên La Tourgue này lướt qua như một ánh chớp rồi lại mù mịt. Sao, chị ta không có quyền hỏi thăm à? Có gì mà người ta nhìn chị như vậy?

Trong khi ấy, trống đã rung lên hồi cuối cùng, tờ cáo thị đã được dán lên, trưởng thôn đã trở vào trụ sở người giao tin đã đi qua thôn khác và đám đông đã giải tán.

Một nhóm còn đứng lại trước tờ cáo thị. Michelle Fléchard đi tới đó.

Người ta đang bàn tán về những tên người bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Ở đó có cả dân quê và thị dân, nghĩa là có cả phe Trắng và phe Xanh.

Một người dân quê nói:

- Chẳng hề gì, họ chẳng bắt được hết cả đâu. Mười chín, chỉ là mười chín thôi. Họ chẳng bắt được Priou, chẳng bắt được Benjamin Moulins, chẳng bắt được Goupil ở giáo khu Andouillé.

- Cũng không bắt được Lorieul ở Monjean. - Người khác nói.

Những người khác thêm vào:

- Cả Brice-Denys.

- Cả François Dudouet.

- Đúng, người ở Laval.

- Cả Huet ở Launay-Villiers.

- Cả Grégis.

- Cả Pilon.

- Cả Filleul.

- Cả Ménicent.

- Cả Guéharrée.

- Cả ba anh em nhà Logerais.

- Cả ông Lechandelier De Pierreville.

- Đồ ngốc - Một ông cụ già tóc bạc nghiêm khắc lên tiếng - Họ bắt được hết nếu họ bắt được Lantenac.

- Đã bắt được đâu. - Một anh còn trẻ lẩm bẩm.

Người kia đáp:

- Mất Lantenac là mất linh hồn. Lantenac chết thì Vendée cũng bị tiêu diệt.

- Cái ông Lantenac ấy là ai thế? - Một thị dân hỏi.

Một thị dân khác trả lời:

- Trước là quý tộc đấy.

Một người khác thêm:

- Một trong những tên bắn giết đàn bà.

Michelle Fléchard nghe được nói luôn:

- Đúng đấy.

Mọi người quay lại.

Chị ta nói thêm:

- Vì người ta đã bắn tôi mà.

Câu nói lạ thật. Y như người còn sống mà tự xưng là chết rồi. Mọi người liếc nhìn chị ta.

Quả nhiên nom chị ta thật đáng ngờ. Cái gì cũng động lòng, cũng hoảng hốt, cũng run rẩy như loài vật và quá khiếp đảm đến nỗi chị ta trở nên đáng sợ. Trong nỗi thất vọng của người đàn bà có cái vẻ yếu hèn thật ghê rợn. Người ta tưởng như thấy một con người bị treo ở đầu sợi dây số mệnh. Nhưng người dân quê lại nhìn sự việc một cách đại khái hơn. Một người lẩm bẩm:

- Rất có thể là một con gián điệp.

Bà già hồi nãy nói nhỏ với chị:

- Đừng nói nữa, và đi đi.

Michelle Fléchard trả lời:

- Tôi không làm gì hại cả. Tôi tìm con tôi.

Bà già nhìn những người đang nhìn Michelle Fléchard, vừa lấy ngón tay chỉ vào trán vừa nháy mắt và nói:

- Chị ta ngớ ngẩn đấy.

Rồi người ấy kéo Michelle ra một chỗ và đưa cho một chiếc bánh mì đen.

Michelle Fléchard chẳng cám ơn, nhai ngấu nghiến chiếc bánh.

- Ừ - Mấy người dân quê nói - Chị ta ăn như một con vật, đúng là một người ngớ ngẩn.

Rồi đám người giải tán, kẻ trước người sau.

Ăn xong, Michelle Fléchard nói với bà kia:

- Xong rồi, no rồi! La Tourgue ở đâu?

- Đấy, lại lên cơn rồi! - Người đàn bà kia thốt lên.

- Tôi phải đi đến La Tourgue. Bà chỉ đường cho tôi đi La Tourgue.

- Không bao giờ! Để cho người ta giết chị đi sao? Vả chăng, tôi có biết gì đâu! Ái chà, vậy chị điên thật ư? Này, tội nghiệp, chị có vẻ mệt mỏi lắm. Chị có muốn về nhà tôi nghỉ không?

- Tôi không nghỉ ngơi gì cả đâu.

- Chân chị ta sây sát cả. - Bà kia lẩm bẩm.

Michelle Fléchard tiếp:

- Tôi đã nói với bà là người ta cướp mất lũ con tôi. Một đứa con gái và hai đứa con trai. Tôi ở đằng phía rừng đi lại đây. Hỏi lão Tellmarch về tôi thì rõ. Và hỏi cả người đàn ông mà tôi đã gặp trên cánh đồng phía ấy. Chính cụ ăn xin đã chữa cho tôi khỏi. Hình như tôi đã bị gãy cái gì ấy. Việc đã xảy ra như thế đấy. Còn có ông đội Radoub nữa. Cứ hỏi ông ta, ông ta sẽ bảo. Vì chính ông ta đã gặp chúng tôi trong rừng. Ba đứa. Tôi nói với bà là tôi có ba đứa con. Đứa đầu tiên là René-Jean. Tôi nói có bằng chứng mà. Đứa kia là Gros-Alain, và con bé nữa là Georgette. Chồng tôi chết rồi. Bị người ta giết. Chồng tôi cày rẽ ở ấp Siscoignard. Trông bà phúc hậu. Bà chỉ đường cho tôi. Tôi không điên đâu, tôi chỉ là một người mẹ. Tôi mất con. Tôi đi tìm con. Có thế thôi. Tôi chẳng biết đích xác tôi đi từ đâu đến. Đêm qua tôi nằm ngủ trên ổ rơm, trong một nhà kho. Tôi đi tới La Tourgue đây. Tôi không phải là kẻ trộm. Bà cũng thấy là tôi nói thật. Cần giúp tôi tìm con tôi. Tôi không phải là người ở đây. Tôi đã bị bắn. Nhưng cũng không biết rõ đã bị bắn ở đâu nữa.

Người đàn bà kia gật đầu nói:

- Này, chị nghe tôi. Trong thời buổi cách mạng không nên nói những điều mà người ta không hiểu được. Có khi bị bắt đó.

- Nhưng còn La Tourgue! Bà ơi, vì Chúa Hài đồng, vì Đức mẹ Đồng trinh trên trời, tôi xin bà, tôi cầu khẩn bà, bà chỉ cho tôi đường đi tới La Tourgue.

Người đàn bà kia nổi giận:

- Tôi có biết đâu! Mà có biết tôi cũng không nói! Đó là những nơi nguy hiểm. Đừng đi đến làm gì!

- Tôi cứ đi - Người mẹ ấy nói.

Rồi chị ta bước đi thật.

Người đàn bà kia nhìn theo và lẩm bẩm:

- Phải cho chị ta ăn.

Rồi bà ta chạy theo và đặt một chiếc bánh mì vào trong tay chị ta:

- Này, để ăn bữa tối đấy.

Michelle Fléchard cầm chiếc bánh mì, chẳng đáp gì cả, chẳng ngoảnh đầu lại, và cứ bước tràn.

Chị đi ra khỏi thôn. Qua những nhà cuối cùng, chị ta gặp ba đứa trẻ rách rưới, chân không, đi qua. Chị ta đi lại gần chúng rồi nói:

- Lũ này, lại là hai gái, một trai.

Thấy chúng nhìn tấm bánh, chị ta liền cho chúng.

Lũ trẻ cầm bánh, vẻ sợ hãi.

Chị ta thì đi miết vào trong rừng.

IV

Một sự lầm lẫn

Cũng ngày hôm ấy, trước lúc rạng đông, trong bóng tối mờ mờ trong rừng, trên quãng đường từ Javené đến Lécousse đã xảy ra chuyện này.

Trong miền Bocages toàn là đường trũng, nhất là đường từ Javené đến Parigné đi qua Lécousse, rất khó đi. Lại ngoằn ngoèo nữa. Một cái rãnh thì đúng hơn. Con đường này từ Vitré tới và đã có hân hạnh làm cho cỗ xe của bà De Sévigné nhảy khấp khểnh khi qua đây. Bờ dậu chắn hai bên đường như hai bờ tường. Phục kích thì chẳng còn đâu hơn nữa.

Sáng hôm ấy, một giờ trước khi Michelle Fléchard từ một góc rừng đi tới thôn đầu tiên và gặp cỗ xe ma có cảnh sát hộ tống, thì trong bụi rậm hai bên đường từ Javené đến, sau chiếc cầu trên sông Couesnon, có một đám người lố nhố. Cành lá che kín cả. Họ là dân quê, bận kiểu áo lông mà các vua chúa xứ Bretagne mặc hồi thế kỷ thứ sáu và nay dân quê thế kỷ thứ mười tám mặc kẻ súng, người rìu. Bọn có rìu vừa chặt xong một đống củi khô chỉ còn châm lửa vào nữa thôi. Những người có súng thì nấp hai bên đường chờ đợi. Qua kẽ lá, có thể thấy ngón tay họ đặt sẵn lên cò súng. Họ đang rình. Tất cả các mũi súng chĩa ra ngoài con đường đang sáng dần.

Trong bóng tối lờ mờ ấy, nghe có tiếng người đối đáp nhau.

- Có chắc không?

- Chắc, người ta nói thế mà.

- Nó sẽ qua đây?

- Người ta nói nó đang ở trong vùng này.

- Không cho nó ra thoát khỏi nơi đây.

- Phải đốt nó đi.

- Bọn ta, ba thôn đến làm việc đó.

- Ừ, nhưng có toán quân hộ vệ.

- Tiêu diệt cả quân hộ vệ.

- Nhưng liệu chúng có qua đường này không?

- Người ta bảo thế.

- Vậy thì chúng từ Vitré đến à?

- Sao lại không?

- Ấy thế mà lại nghe nói chúng từ Fougères tới.

- Từ Vitré hay từ Fougères tới cũng đều là từ chỗ bọn quỷ tới cả.

- Đúng.

- Và nhất định nó phải trở về với quỷ.

- Đúng.

- Có phải chúng đi tới Parigné không?

- Hình như vậy.

- Chúng sẽ không tới nơi được.

- Không.

- Không, không, không!

- Chú ý!

Quả thật bây giờ cần im lặng, vì trời đã bắt đầu sáng rõ.

Bỗng bọn người phục kích cùng nín thở: đã nghe có tiếng xe, tiếng ngựa. Họ nhìn qua kẽ lá và nhận ra thấp thoáng trên đường hẻm một chiếc xe dài, một toán quân hộ vệ cưỡi ngựa, và một cái gì trên xe, đang đi về phía họ.

- Nó đấy! - Người nói hình như là đội trưởng.

- Vâng, cả toán hộ vệ nữa - Một người khác nói.

- Bao nhiêu lính hộ vệ?

- Mười hai.

- Hai mươi.

- Mười hai hay hai mươi, cứ giết sạch.

- Chờ cho chúng đến ngang tầm súng đã.

Một lát sau, ở một khúc ngoặt, chiếc xe và toán lính hiện ra.

- Đức vua muôn năm! - Viên chỉ huy đám dân quê hô to.

Trăm phát súng cùng nổ một loạt.

Khi khói đã tan, toán lính hộ vệ cũng tan rã. Bảy người chết, năm người chạy trốn. Đám dân quê chạy tới chiếc xe.

Viên chỉ huy nói:

- Lạ chưa! Không phải máy chém. Một chiếc thang.

Đúng là xe chỉ chở có một cái thang.

Hai con ngựa bị thương đã gục xuống; anh đánh xe không bị họ cố ý bắn, cũng chết.

- Chẳng sao. - Viên chỉ huy nói, một cái thang mà có lính hộ tống là khả nghi rồi. Nó đi về phía Parigné. Chắc là để chúng leo lên tháp Tourgue.

Đám dân quê kêu lên:

- Đốt thang đi.

Rồi họ đốt thang.

Còn chiếc xe ma mà họ chờ đợi thì đã theo một con đường khác và đã cách xa nơi họ tới hai dặm, trong cái thôn mà Michelle Fléchard gặp nó đi qua lúc mặt trời mọc.

V

Tiếng nói giữa cõi hoang vu

Michelle Fléchard sau khi cho ba đứa trẻ chiếc bánh của mình, bèn đi liều qua khu rừng.

Chẳng ai muốn chỉ đường cho, chị ta phải tự lần lấy đường đi vậy. Thỉnh thoảng chị ta ngồi xuống, rồi lại đứng lên, rồi lại ngồi xuống. Chị ta thấy ê ẩm trong bắp thịt rồi đến cả trong xương tủy; cái mệt mỏi của người nô lệ. Quả thật chị ta là kẻ nô lệ. Nô lệ mấy đứa con biệt tin. Phải tìm thấy chúng; mỗi phút trôi qua có thể làm chúng thiệt mạng. Ai đã có một nhiệm vụ như vậy thì chẳng còn có quyền gì nữa; nghỉ lấy hơi cũng chẳng được. Nhưng chị ta đã mệt nhừ. Kiệt sức đến mức ấy rồi bước lên một bước là cả một vấn đề. Còn bước được nữa không? Chị ta đi từ sáng chẳng còn gặp thôn xóm, nhà cửa gì nữa. Lúc đầu chị ta đi đúng đường, rồi đi sai đường, và cuối cùng lạc vào giữa đám cây chỗ nào cũng giống chỗ nào. Đã gần tới đích chưa? Đã đến gần nơi chị ước chưa? Có thể nói rằng chị đang đi trên con đường đau khổ và cảm thấy rã rời ở chặng đường cuối cùng. Liệu ta có ngã xuống và thở hơi thở cuối cùng ở đây không? Đôi khi, chị thấy khó lòng mà bước thêm được một bước nữa; mặt trời đã xế, cảnh rừng tối om, đường mòn xóa nhòa trong cỏ, và chị chẳng biết tính sao. Chị kêu lên, chẳng ai trả lời.

Nhìn quanh mình, chị ta thấy một vùng quang đãng, liền đi về phía đó, và bỗng nhiên thấy mình ra khỏi cánh rừng.

Trước mắt chị là một cái thung lũng hẹp như một con đường hầm, dưới đáy có một giòng nước chảy trong veo giữa các tảng đá. Chị ta bấy giờ mới thấy khát đến rát cổ. Chị chạy tới, quỳ xuống và uống nước.

Nhân khi quỳ xuống, chị đọc kinh.

Và khi đứng dậy, chị tìm phương hướng.

Chị ta bước qua con suối.

Cuối thung lũng là một cao nguyên rộng bao la, cây cối thấp lè tè, chạy xa tắp từ con suối lên đến tận chân trời. Cánh rừng thì cô tịch, cao nguyên thì hoang vu. Trong rừng, sau mỗi bụi cây có thể gặp một người; trên cao nguyên này, mắt nhìn thấu đến đâu cũng chẳng thấy một ai. Vài con chim liệng trên cánh đồng thạch cỏ như muốn tìm chỗ trốn.

Thế rồi, đứng trước cảnh đơn chiếc mênh mông ấy, chị thấy đầu gối chùn lại. Và, như điên như dại, chị hoảng hốt cất tiếng hỏi cảnh hoang vu:

- Có ai đó không?

Và chị chờ tiếng đáp lại.

Có tiếng trả lời.

Một thứ tiếng trầm trầm đục đục nổi lên, từ chân trời xa vọng lại, từ tiếng vang này dội qua tiếng vang khác, giống như tiếng sấm nếu không phải là tiếng súng đại bác; và như tiếng ấy đáp lại tiếng gọi của người mẹ:

- Có.

Rồi lại im lặng như tờ.

Người mẹ đứng lên, như tỉnh lại; có người đấy; hình như bây giờ chị ta đã có người để nói chuyện. Chị vừa uống nước và đọc kinh xong; sức khỏe đã trở lại, chị liền leo lên cao nguyên hướng về phía có tiếng xa xăm, to lớn vừa dội lại.

Bỗng nhiên chị ta thấy tận chân trời ở cách xa một dặm đường nổi lên một tháp cao, trơ trọi giữa cảnh hoang dại, nhuộm đỏ ánh chiều tà sau tòa tháp ấy một giải rừng xanh thấp thoáng trong sương: đó là rừng Fougères.

Tháp hiện ra phía chân trời, ở cùng một điểm đã phát ra tiếng âm vang ban nãy, mà Michelle Fléchard tưởng như tiếng người. Có phải chính tòa tháp đã phát ra tiếng động ấy không?

Michelle Fléchard đã bước lên đỉnh cao nguyên; trước mặt chị bấy giờ chỉ là một cánh đồng bằng phẳng.

Chị đi về phía tháp.

VI

Tình thế lúc ấy

Giờ phút đã đến.

Con người khắc nghiệt đã chộp được kẻ tàn nhẫn.

Cimourdain đã nắm Lantenac trong tay.

Tên bảo hoàng phiến loạn già đã bị giữ tại sào huyệt; dĩ nhiên nó không thể nào thoát được nữa; và Cimourdain muốn rằng tên hầu tước phải bị chặt đầu ngay tại lâu đài của nó, trên đất đai của nó, nói cách khác là trong nhà nó, để cho cái dinh cơ phong kiến trông thấy rơi xuống cái đầu của tên phong kiến, và để nêu gương cho muôn đời sau.

Bởi vậy, ông ta đã sai người đi lấy máy chém ở Fougères về. Người ta vừa thấy nó ở trên đường.

Giết Lantenac là tiêu diệt được cuộc phiến loạn Vendée; tiêu diệt cuộc phiến loạn Vendée là cứu được nước Pháp. Cimourdain không ngần ngại gì cả. Ông ta thấy thoải mái trước sự hung dữ phải làm.

Đời tên hầu tước coi như là kết liễu; về mặt này, Cimourdain rất yên tâm, nhưng ông ta lo về phía khác. Cuộc chiến đấu nhất định sẽ khốc liệt; Gauvain sẽ chỉ huy cuộc chiến đấu và còn muốn lao mình vào đó; trong người chỉ huy trẻ ấy có máu con nhà lính; Gauvain sẽ lăn vào cuộc vật lộn này; miễn là không bị thiệt mạng, Cimourdain cầu mong như thế, Gauvain! Con của ông! Tình thương duy nhất của ông trên quả đất này! Gauvain từ trước đến nay vẫn có hồng phúc, nhưng có hồng phúc nào là bền lâu mãi mãi! Cimourdain run sợ. Cuộc đời ông ta có điều này kỳ lạ là giữa hai Gauvain một người ông muốn cho chết đi, còn một người ông muốn cho sống.

Tiếng súng đại bác vừa thức tỉnh Georgette trong nôi và lên tiếng gọi bà mẹ từ nơi cô tịch xa xôi, không phải chỉ có tác dụng như thế. Có lẽ do người nhắm bắn vô tình hoặc cố ý viên đạn được bắn ra để báo hiệu đã đánh trúng, phá vỡ và giật đi một nửa cái lưới song sắt chấn lỗ châu mai lớn ở tầng thứ nhất tòa tháp. Những người bị vây không còn đủ thì giờ để chữa lại nữa.

Bọn bị vây đã khoác lác. Chúng chỉ có rất ít đạn dược, tình thế của chúng, xin nhắc lại, còn nguy kịch hơn là quân đội bao vây bên ngoài dự đoán. Nếu chúng có đủ thuốc súng thì chúng sẽ cho nổ tháp Tourgue, cả chúng và đối phương ở trong đó là điều chúng mơ ước; nhưng tất cả dự trữ của chúng đã cạn. Chúng chỉ còn chưa đầy ba mươi phát đạn mỗi đầu người. Chúng có nhiều súng dài, súng ngắn, và súng lục, nhưng ít đạn. Chúng đã đem lắp đạn vào tất cả các thứ súng để bắn được liên tục; nhưng bắn như thế thì phỏng kéo dài được bao lâu? Thành ra phải vừa bắn đều tay vừa phải dè sẻn. Cái khó khăn của chúng là ở đó. May sao - một thứ may mắn ghê rợn - cuộc chiến đấu phần lớn diễn ra theo lối đánh giáp lá cà, và dùng gươm dáo. Người ta vật lộn hơn là bắn nhau. Người ta đâm, chém nhau; đó là hy vọng của chúng.

Phía trong tháp có vẻ kiên cố. Trong cái phòng thấp ăn ra lỗ tường bị phá là góc cố thủ, thứ chiến lũy do Lantenac dựng lên một cách tài tình đó chặn đường từ ngoài vào. Phía sau góc cố thủ này để một cái bàn dài đầy các loại súng nạp đạn sẵn có các thứ gươm, búa, dao găm. Không thể lấy thuốc nổ phá tung hầm kín thông với phòng thấp này, tên hầu tước đã bịt kín cửa hầm này lại. Phía trên phòng tháp này là cái phòng tròn của tầng gác thứ nhất, lên đó bằng một cầu thang trôn ốc rất hẹp; trong phòng này cũng đặt một cái bàn đầy vũ khí lắp đạn sẵn, ánh sáng bên ngoài lọt vào theo chỗ lưới sắt đã bị đạn chọc thủng; trên phòng này chiếc cầu thang xoắn ốc dẫn đến một phòng tròn của tầng thứ hai, nơi đây có chiếc cửa sắt nhìn ra tòa nhà xây trên cầu. Gian phòng tầng hai ngày gọi là phòng cửa sắt hay là phòng gương vì ở đấy có treo rất nhiều gương nhỏ vào đầu những chiếc đinh gỉ đóng trên tường đá, một cách trang trí cầu kỳ và man rợ. Các phòng ở phía trên không thể phòng ngự có hiệu quả, nên cái phòng gương này là “vị trí cuối cùng để cho kẻ bị bao vây đầu hàng” như lời nhà kiến trúc Mannesson-Mallet. Vì thế phải chặn không cho kẻ địch lọt vào tới chỗ này.

Gian phòng ở tầng hai đó được soi sáng nhờ các lỗ châu mai; nhưng ở đây còn có một bó đuốc rực lửa cắm vào cái giá bằng sắt giống như cái giá đặt dưới phòng thấp, do Imânus đốt và đặt bên cạnh mồi lửa tẩm lưu huỳnh. Một sự chuẩn bị thật ghê rợn!

Cuối cùng gian phòng tháp, trên một tấm phản dài, có bày thức ăn như trong hang núi thời thần thoại; những dĩa cơm lớn, cháo mì đen, thịt bê băm nhỏ, bánh làm bằng trái cây bọc bột và những bình rượu táo. Ai muốn ăn thì ăn, muốn uống thì uống.

Phát súng đại bác làm chúng ngừng tay. Trước mắt chỉ còn có nửa giờ thôi.

Imânus đứng trên lầu cao, kiểm soát bước tiến của đối phương. Lantenac đã ra lệnh không được bắn và để cho địch đi tới. Lão đã nói:

- Chúng có tất cả bốn ngàn rưỡi người. Chúng còn ở ngoài, có giết cũng vô ích thôi. Cho vào trong rồi sẽ giết. Bên trong chúng với ta sẽ bình đẳng.

Và lão ta vừa cười vừa nói thêm:

- Bình đẳng. Bác ái.

Đã quy ước với nhau là khi nào đối phương bắt đầu hoạt động thì Imânus sẽ thổi tù và báo động.

Tất cả đều im lặng, phục trong góc cố thủ, hoặc trên các bậc thang, chờ đợi, một tay đặt trên súng, một tay lần tràng hạt.

Tình thế mỗi lúc mỗi rõ ràng như sau:

Quân bao vây phải trèo qua lỗ tường thủng phá chiến lũy, đánh chiếm từng gian ba phòng ở ba tầng, giành từng bậc trên cầu thang dưới làn mưa đạn. Bên bị bao vây chỉ có một con đường: chết.

VII

Trận đánh mở màn

Gauvain cũng đang bố trí cuộc tấn công. Ông ta đã căn dặn Cimourdain lần cuối cùng - chúng ta nhớ là ông này phải bảo vệ cao nguyên, không tham gia cuộc tiến công - và ra lệnh cho Guéchamp cùng với đại quân canh phòng trong rừng. Pháo ở khu cao nguyên cũng như pháo trong rừng đều không được bắn nếu đối phương không xông ra ngoài hoặc chạy trốn. Gauvain giành cho mình quyền chỉ huy mũi xung kích vào đột phá khẩu. Chính việc đó làm cho Cimourdain lo lắng.

Mặt trời vừa lặn.

Một tòa tháp đứng ở giữa cánh đồng bằng phẳng cũng giống như một con tàu giữa biển. Tấn công một tòa tháp cũng như tấn công một chiến thuyền. Một cuộc giáp chiến đúng hơn là một cuộc đột kích: không cần đại bác. Chẳng nên làm cái gì vô ích. Bắn đại bác vào những bức tường dày năm thước phỏng có ích gì. Chọc thủng mạn tàu, rồi một bên xông vào, một bên chặn lại, sử dụng búa dao, súng ngắn, nắm tay và răng. Cuộc chiến đấu sẽ diễn ra như thế.

Gauvain cảm thấy không còn cách nào khác đánh chiếm tháp Tourgue. Một cuộc chạm trán ác liệt. Ông ta biết rõ bên trong tháp rất đáng sợ, vì đã từng ở trong ấy khi còn nhỏ.

Ông ta suy nghĩ kỹ lưỡng.

Trong khi ấy, cách ông mấy bước, phụ tá của ông là Guéchamp, tay cầm ống nhòm đang quan sát chân trời phía Parigné. Bỗng Guéchamp kêu to:

- A! Kia rồi.

Câu nói ấy kéo Gauvain ra khỏi cơn mơ mộng.

- Cái gì thế? Guéchamp?

- Báo cáo, có thang rồi đấy.

- Thang cấp cứu à?

- Vâng.

- Kỳ thật! Đến bây giờ mà chưa có thang à?

- Chưa. Tôi đang lo. Liên lạc hỏa tốc cử đi Javené đã trở về.

- Tôi biết.

- Anh ta báo tin đã tìm được ở xưởng mộc Javené chiếc thang đúng kích thước cần thiết, đã trưng dụng và đặt thang lên xe, có mười hai kỵ binh áp tải, và đã chứng kiến cả xe, cả lính, cả chiếc thang đã khởi hành về phía Parigné. Sau đó anh ta mới phóng ngựa về đây.

- Và đã báo cáo như vậy. Anh ta có nói thêm rằng chiếc xe đã thắng cẩn thận và ra đi từ hai giờ sáng, có thể về đây trước khi mặt trời lặn. Tôi biết tất cả những điều đó. Còn gì nữa.

- Thưa tư lệnh, mặt trời đã lặn, và chiếc xe chở thang chưa về.

- Có thể thế không? Nhưng ta phải tấn công. Đến giờ rồi. Nếu chậm, lũ bị vây sẽ tưởng ta tháo lui.

- Thưa tư lệnh, ta có thể tấn công.

- Nhưng chiếc thang rất cần.

- Hẳn thế.

- Nhưng ta chưa có thang.

- Có rồi.

- Thế nào?

- Chính vì vậy mà tôi nói: A! Đây rồi. Xe chưa tới; tôi lấy ống nhòm quan sát con đường từ Parigné đến Tourgue và, thưa tư lệnh, tôi hài lòng lắm. Chiếc xe đang ở kia với đoàn áp tải; xe đang xuống một cái dốc. Tư lệnh có thể xem qua.

Gauvain cầm ống nhòm và nhìn.

- Đúng rồi. Nó đây rồi. Chiều rồi, không nhìn được rõ tất cả. Nhưng nhìn rõ đoàn áp tải, đúng như vậy. Có điều là đoàn áp tải đông hơn chứ không như anh nói, Guéchamp ạ.

- Tôi cũng thấy thế.

- Họ còn cách đây một phần tư dặm.

- Thưa tư lệnh, chiếc thang cấp cứu sẽ tới đây trong vòng mười lăm phút nữa.

- Có thể tấn công được rồi.

Đúng là có một chiếc xe đi tới, nhưng không phải là chiếc xe chở thang như họ tưởng.

Gauvain quay lại, thấy viên đội Radoub, đứng nghiêm hai mắt nhìn xuống, trong tư thế chào nhà binh.

- Cái gì thế? Đội Radoub?

- Thưa công dân tư lệnh, chúng tôi, tất cả anh em trong tiểu đoàn Mũ Đỏ, chúng tôi xin tư lệnh làm ơn...

- Gì thế?

- Cho chúng tôi được chết.

- À! - Gauvain nói.

- Tư lệnh có chiếu cố cho không?

- Nhưng, còn tùy...

- Thế này, thưa tư lệnh. Từ sau trận đánh ở Dol, tư lệnh nuông chúng tôi quá. Chúng tôi còn tất cả mười hai người.

- Thì sao?

- Điều đó làm nhục chúng tôi.

- Các anh là lực lượng dự trữ.

- Chúng tôi muốn là đội tiền đạo.

- Nhưng tôi cần các anh để quyết định thắng lợi cho một cuộc tấn công. Tôi bảo toàn các anh.

- Quá đáng.

- Thôi được. Các anh cùng tiến với đoàn xung kích.

- Tiến sau cùng. Quân đội Paris có quyền đi tiền phong.

- Đội Radoub, tôi sẽ tính đến điều đó.

- Xin tư lệnh tính ngay cho hôm nay. Đây là một dịp. Sắp có ở đó một cuộc ẩu đả quyết liệt. Ai sờ đến tháp Tourgue sẽ bị bỏng tay. Xin cho chúng tôi cái ân huệ ấy.

Viên đội dừng lại, vân vê râu mép, và nói tiếp với một giọng tha thiết:

- Vả lại, trong chiếc lầu này có mấy cháu bé. Đó là những đứa con của chúng tôi, của đơn vị chúng tôi, ba đứa con của chúng tôi. Bộ mặt gớm ghiếc của tên Gribouille-mon-culte-baise, tên Diệt-Xanh, tên Imânus, tên Gouge-le-Bruant, tên Bouge-le-Gruyand, tên Fouge-le-Truand, cái lũ quỷ trời đánh ấy đang dọa dẫm các cháu. Các cháu của chúng tôi. Dù cho trời rung đất chuyển, chúng tôi không muốn sẽ xảy ra điều gì nguy hại cho chúng. Vừa rồi, nhân lúc chưa khởi sự, tôi trèo lên cao nguyên và nhìn thấy chúng ở phía sau chiếc cửa sổ. Vâng, các cháu còn ở đó, đứng trên bờ hào có thể thấy chúng, tôi đã nhìn chúng và đã làm chúng sợ, các cháu thân yêu của chúng tôi. Thưa tư lệnh, nếu một sợi tóc trên đầu bé bỏng của chúng rơi xuống thì tôi, đội trưởng Radoub, tôi sẽ oán cả Chúa. Toàn đơn vị cũng đã nói: một là cứu được các cháu, hai là chết sạch. Đó là quyền của chúng tôi, vâng, chết sạch! Và giờ đây, xin kính chào tư lệnh.

Gauvain bắt tay Radoub và nói:

- Các anh thật dũng cảm. Các anh sẽ tham gia đội xung kích. Tôi chia các anh làm hai. Sáu người đi đầu để mọi người tiến theo, sáu người đi sau để không một ai lùi bước.

- Tôi vẫn chỉ huy mười hai anh em này?

- Tất nhiên.

- Vậy thì xin cám ơn tư lệnh. Vì tôi đi đầu đội xung kích.

Radoub chào theo kiểu nhà binh rồi trở về hàng ngũ.

Gauvain rút đồng hồ ra, ghé tai Guéchamp nói vài lời và đơn vị xung kích bắt đầu được phiên chế.

VIII

Đạo nghĩa và tiếng gầm thét

Cimourdain vẫn chưa trở về vị trí ở trên cao nguyên mà còn đứng bên cạnh Gauvain, ông ta tới gần một người lính kèn và bảo:

- Nổi hiệu kèn gọi tù và đi.

Kèn vang lên, tiếng tù và trả lời.

Một tiếng kèn và một tiếng tù và nữa đối đáp nhau.

- Cái gì thế? - Gauvain hỏi Guéchamp - Cimourdain muốn gì thế?

Cimourdain đã tiến đến gần tháp, một chiếc mùi xoa trắng cầm tay.

Ông cất tiếng:

- Hỡi những người trong tháp, các người biết ta không?

Tiếng nói của Imânus từ trên lầu vọng xuống:

- Có.

Hai bên đối đáp, và người ta nghe thấy như thế này:

- Ta là đặc phái viên của chính phủ cộng hòa.

- Là cựu linh mục của xứ Parigné.

- Ta là đại diện của Ủy ban cứu quốc.

- Là một thầy tu.

- Ta là đại diện của pháp luật.

- Là tên bỏ đạo.

- Ta là đặc sứ của cách mạng.

- Là tên phản đạo.

- Ta là Cimourdain.

- Là quỷ sứ.

- Các người biết ta?

- Chúng ta căm thù ngươi.

- Các người có muốn bắt giữ ta không?

- Chúng ta tất cả mười tám người ở đây sẵn sàng mất đầu để đổi lấy đầu ngươi.

- Thế thì ta đến nộp mình cho các người.

Người ta nghe từ trên lầu cao một tiếng cười man rợ và một tiếng thét:

- Tới đây!

Trại quân im lặng chờ đợi.

Cimourdain nói tiếp:

- Với một điều kiện.

- Gì?

- Nghe đây.

- Nói đi.

- Các người oán ghét ta?

- Đúng.

- Ta thì ta lại yêu mến các người. Ta với các người là anh em.

- Đúng. Caïn.

Cimourdain lại nói tiếp, với một giọng khác thường, vừa cao siêu vừa dịu dàng:

- Các người cứ việc nguyền rủa, nhưng các người hãy nghe. Ta đến đây với nhiệm vụ thương thuyết. Phải, các người là anh em với ta. Các người là những kẻ lầm đường lạc lối đáng thương. Ta là bạn các người. Ta là ánh sáng và ta nói chuyện với sự mê muội. Ánh sáng bao giờ cũng đầy tình nhân ái. Vả chăng, chúng ta đều chẳng là cùng một mẹ, một tổ quốc đó sao? Các người hãy nghe ta. Sau này các người sẽ biết, hoặc con cháu các người sẽ biết rằng những việc đang tiến hành hiện nay đều là do mệnh lệnh từ trên xuống, tất cả mọi việc của Cách mạng đều do Chúa. Trong khi chờ đợi cho tất cả mọi lương tâm, kể cả lương tâm của các người, đều hiểu thấu, cho tất cả mọi cuồng tín, kể cả cuồng tín của chúng ta, đều tiêu tan, trong khi chờ đợi nguồn ánh sáng ấy, có ai thương đến cảnh tối tăm của các người không? Ta tới với các người, nộp đầu ta cho các người; hơn nữa ta giơ tay đón các người. Ta xin các người giết ta đi để cứu các người. Ta có toàn quyền, và ta nói gì, ta làm nấy. Đây là giây phút nghiêm trọng; ta cố gắng lần cuối cùng. Phải, kẻ đang nói chuyện với các người là một công dân và trong công dân ấy có một tu sĩ. Người công dân đánh nhau với các người và tu sĩ kêu van các người. Hãy nghe ta. Số đông các người đều có vợ con. Ta che chở cho vợ con các người. Ta đứng về phía vợ con các người mà chống lại các người. Hỡi những người anh em!

- Cứ thuyết pháp đi! - Imânus cười gằn.

Cimourdain tiếp tục:

- Hỡi anh em, đừng để giờ phút ghê tởm phải đến. Sắp sửa đến lúc chém giết nhau. Số đông chúng ta ở đây sẽ không còn thấy mặt trời ngày mai nữa; phải số đông chúng ta sẽ chết, và tất cả các người sẽ chết. Các người hãy tự cứu mình. Tại sao lại đổ máu vô ích thế? Tại sao lại giết nhiều người khi chỉ cần hai người là đủ?

- Hai? - Imânus hỏi.

- Phải, hai.

- Ai thế?

- Lantenac và ta.

Và Cimourdain cất tiếng:

- Hai người thừa, Lantenac đối với chúng ta, là thừa, ta đối với các người là thừa. Đấy, ta đề nghị như thế này, và các người sẽ thoát chết cả: trao Lantenac cho chúng ta và bắt lấy ta. Lantenac sẽ bị đưa lên máy chém, còn ta, các người muốn làm gì thì làm.

- Thầy tu ơi - Imânus gào lên - Bắt được ngươi, chúng ta sẽ thui nhỏ lửa.

- Được - Cimourdain nói.

Vẫn tiếp:

- Các người sẽ bị tiêu diệt trong tháp này, chỉ trong một giờ nữa các người có thể được sống và tự do. Ta mang lại cho các người một lối thoát các người có chấp nhận không?

Imânus hét vang lên:

- Nhà ngươi không những khốn nạn mà còn điên nữa. Táo bạo thật! Đến quấy rầy người ta, đến để thương thuyết, nhân danh ai. Nộp đức ông cho các người? Như thế là nghĩa thế nào?

- Là đổi lấy đầu của Lantenac, và ta trao ta cho các người...

- Bộ da nhà ngươi. Chúng ta sẽ lột xác ngươi như lột xác một con chó. Không, bộ da ngươi làm gì bằng cái đầu đức ông được. Cút đi.

- Việc xảy ra sẽ ghê rợn. Lần cuối cùng, các người nghĩ kỹ đi.

Trong tháp cũng như bên ngoài ai nấy đều nghe rõ những lời nói ảm đạm ấy, trời đã tối. Lantenac lặng thinh và mặc kệ. Đấy là một đặc tính xấu của bọn chỉ huy và cũng là một trong những quyền hành của người có trách nhiệm.

Imânus thét to:

- Chúng ta đã nói hết ý của chúng ta, không có gì thay đổi cả. Hãy nhận đi, nếu không tai họa sẽ trút lên đầu các người! Thỏa thuận chưa? Chúng ta trao trả cho các người ba đứa trẻ và các người để tất cả chúng ta đi ra tự do, yên ổn.

- Được, cho tất cả, trừ một - Cimourdain nói.

- Ai?

- Lantenac.

- Đức ông! Nộp đức ông! Không bao giờ.

- Chúng ta cần Lantenac.

- Không bao giờ.

- Chỉ có điều kiện ấy mới thương lượng được.

- Thế thì đánh đi.

Im lặng.

Imânus sau khi thổi tù và hiệu, lại trở xuống; Lantenac cầm kiếm trong tay; mười chín người bị vây tụ lại trong căn phòng thấp phía sau góc cố thủ và quỳ cả xuống. Họ nghe tiếng bước chân nhịp nhàng của đội xung kích đang tiến dần về phía tháp trong đêm tối. Tiếng chân cứ mỗi lúc mỗi gần; bỗng chúng thấy như họ đến sát cạnh, sát lỗ tường thủng. Thế là tất cả quỳ xuống, đưa súng lên vai nhằm vào các kẽ hở ở góc cố thủ, và một người, Grand-Francoeur, tức thầy tu Turmeau, đứng lên; thanh kiếm tuốt trần trong tay phải, cây thập ác trong tay trái, trịnh trọng hô:

- Nhân danh Cha, và Con, và Thánh thần!

Họ bắn cùng một lúc, và cuộc chiến đấu mở màn.

IX

Khổng lồ chọi nhau

Cuộc chiến đấu quả là ác liệt.

Trận giáp lá cà này vượt quá sức tưởng tượng của người ta.

Muốn tìm những cảnh tương tự, có lẽ phải trở lại những cuộc đấu kiếm mà Eschyle [1] đã miêu tả, hoặc những cuộc chiến tranh thời phong kiến; những cuộc “tấn công bằng vũ khí ngắn” ấy đến tận thế kỷ mười bảy còn tồn tại, khi bên tấn công vượt thành bằng thang dây; theo lời viên đội già ở tỉnh Alentejo thì đó là những cuộc tấn công ác liệt: “Sau khi bắn đạn cháy vào thành có hiệu quả rồi, quân bao vây nhảy vào, mang theo những tấm ván đóng đầy lưỡi dao bằng sắt cùng những chiếc khiên, lá chắn, rất nhiều lựu đạn, họ xô đẩy quân bị vây và chiếm lĩnh tất cả những nơi cố thủ của họ”.

Điểm tấn công thật là kinh khủng. Đó là một loại lỗ thủng mà tiếng nhà nghề gọi là hang ngầm, nghĩa là một đường thủng xuyên qua một bức tường dày chứ không phải là một kẽ nứt rộng miệng và lộ thiên. Thuốc súng đã phá tường như khoan vào đá. Mìn nổ mạnh, đến nỗi ngôi tháp bị nứt một đường cao trên mười thước, nhưng lỗ thủng ăn thông vào căn phòng thấp chỉ giống như một nhát dao đâm chứ không giống một nhát búa bổ.

Đó là một nhát đâm vào sườn tháp, một vết thương dài, như một cái giếng đặt nằm ngang, một đường hẻm nằm ngoằn ngoèo, như một khúc ruột xuyên qua một bức tường dày bốn thước, hoặc một đường ống ngổn ngang những chướng ngại vật, cạm bẫy, mìn nổ, xông vào đó thì trán đập phải đá, chân dẫm lên vôi vữa và sỏi, mắt tối như bưng.

Quân tấn công đứng trước cái cửa ngõ đen ngòm ấy, như cái miệng vực mà hàm răng trên hàm răng dưới là những tảng đá của bức tường bị xé ra; miệng cá mập cũng không nhiều răng bằng cái miệng ghê rợn ấy. Thế mà phải vào trong cái lỗ ấy rồi lại chui ra.

Phía trong, súng nổ liên hồi, phía ngoài là lũy cố thủ. Phía ngoài tức là căn phòng thấp ở tầng dưới. Mức man rợ của cuộc giao tranh ấy chỉ có thể ví với cảnh đụng độ giữa công binh đặt mìn và công binh phá mìn trong hầm kín mít, cảnh chém giết giáp lá cà bằng búa trên boong tàu trong các trận thủy chiến. Đánh nhau dưới đáy hố sâu là tột độ của sự khủng khiếp. Chém giết nhau với cái trần nhà úp trên đầu thật là kinh khủng. Giữa lúc đợt quân tấn công thứ nhất tràn vào, cả cái lũy cố thủ chớp sáng rực lên khác nào sét nổ trong lòng đất. Sấm sét phía tấn công đáp sấm sét của ổ phục kích. Gauvain hô: Xung phong! Lantenac tiếp: Chặn đứng lại! Rồi tiếng Imânus: Anh em xứ Maine, theo tôi! Rồi tiếng gươm loảng xoảng, đập vào nhau chan chát và đạn liên tiếp trút ra giết từng loạt. Bó đuốc treo trên tường chập chờn chiếu vào cảnh khiếp đảm này. Chẳng còn phân biệt được gì nữa; mọi người tràn ngập trong đêm tối tờ mờ ánh lửa đó, điếc tai, mù mắt, điếc vì tiếng ồn, mù vì khói. Những người bị loại khỏi cuộc chiến đấu nằm ngổn ngang giữa đống gạch đá; người ta bước lên xác chết, dẫm lên những vết thương, xéo nát những chân tay bị gẫy; thương binh rú lên vì đau đớn; những người hấp hối cắn vào chân những người bước lên họ. Đôi khi cả chiến trường lặng ngắt, còn ghê sợ hơn cảnh ồn ào. Người ta vật lộn nhau, thở hồng hộc, nghiến răng, rên rỉ, nguyền rủa, rồi tiếng ồn ào như sấm dậy lại trở lại. Một suối máu từ trong tháp qua lỗ thủng chảy ra ngoài, tràn trong bóng tối. Vũng máu đen ngòm ấy bốc hơi trong cỏ, ngoài trời.

Có thể nói rằng chính cái tháp khổng lồ đã bị thương và đang chảy máu.

Điều lạ nhất là bên ngoài vẫn không nghe một tiếng động. Trời tối mịt và trên cánh đồng, trong rừng, chung quanh pháo đài đang bị tấn công, yên tĩnh đến ghê rợn. Bên trong là địa ngục, bên ngoài là nhà mồ. Một khối người nhảy bổ vào nhau, tiêu diệt nhau trong bóng tối; đạn nổ từng tràng, tiếng thét, tiếng rú điên cuồng, tất cả những tiếng hỗn độn ấy chìm dưới khối tường và những vòm cuốn, thiếu không khí để cho tiếng động truyền đi, và thêm vào cảnh chém giết là cảnh ngột ngạt. Phía ngoài tháp, những tiếng ấy nghe không rõ lắm. Trong lúc này, mấy đứa trẻ vẫn ngủ yên.

Cuộc tàn sát cứ tăng dần. Lũy cố thủ vẫn giữ vững. Không có gì khó phá bằng loại chiến lũy hình chữ V này. Phía bị vây kém về số lượng, nhưng lợi thế hơn. Đội xung kích chết rất nhiều. Họ sắp thành hàng dài bên ngoài dưới chân tháp rồi từ từ chui vào lỗ tường thủng và cứ ngắn dần, như một con rắn chui vào hang.

Gauvain, với những điều khinh suất của một viên chỉ huy trẻ, đang ở trong gian phòng thấp, giữa cuộc hoảng chiến, chung quanh súng nổ loạn xạ. Ông ta có cái tự tin của con người chưa hề bao giờ bị thương.

Khi ông ta vừa quay lại để ra lệnh thì một luồng lửa đạn lóe lên, chiếu vào một khuôn mặt sát bên ông. Ông ta kêu lên:

- Cimourdain! Thầy đến đây làm gì?

Chính là Cimourdain thật. Ông ta đáp:

- Tôi đến để gần anh.

- Nhưng thầy vào đây sẽ hứng lấy cái chết.

- Vậy anh thì sao?

- Tôi cần ở đây. Thầy thì không.

- Vì anh ở đây nên tôi cũng cần ở đây.

- Không, thầy ạ...

- Có chứ, con!

Và Cimourdain vẫn đứng bên cạnh Gauvain.

Xác chết chất đống trên nền gian phòng thấp.

Lũy cố thủ chưa bị phá vỡ nhưng số đông tất nhiên cuối cùng phải thắng. Bên cố thủ nấp kín; mười người bên tấn công ngã xuống để đổi lấy một người bên bị vây, nhưng quân tấn công cứ thế nhau mà vào. Quân tấn công cứ tăng lên và bọn bị vây giảm sút dần.

Mười chín người bị vây đứng cả sau lũy cố thủ, cuộc chiến đấu đang diễn ra ở đó. Đã có người chết và bị thương. Còn chừng mười lăm người nữa đang chiến đấu. Một tên hung hãn nhất, tên Chante-en-Hiver, bị thương nặng. Đó là một người dân xứ Bretagne, thấp lùn, tóc quăn, thuộc loại bé choắt nhưng dai sức. Hắn bị thủng mắt và gãy quai hàm. Hắn còn đi được. Hắn lê dọc cầu thang xoáy ốc để lần lên tầng trên, hy vọng đến được đó mà cầu nguyện và chết.

Hắn dựa vào tường, cạnh lỗ châu mai, để gắng thở một chút.

Phía dưới, cuộc chém giết trước lũy cố thủ mỗi lúc thêm rợn. Trong một khoảng khắc, giữa hai loạt súng nổ, Cimourdain cất tiếng:

- Các người! Để cho máu chảy nữa làm gì? Các người chẳng còn hy vọng gì nữa. Hàng đi. Các người thử nghĩ, chúng ta những bốn nghìn năm trăm con người tấn công, các người chỉ có mười chín, nghĩa là hơn hai trăm người chọi một. Hãy hàng đi.

- Chấm dứt cái trò ba hoa ấy đi - Hầu tước Lantenac đáp.

Và hai mươi tiếng súng nổ trả lời Cimourdain.

Lũy cố thủ không cao lên đến trần; điều đó cho phép bọn bị vây đứng ở trên bắn xuống, nhưng cũng cho phép những người bao vây ở ngoài trèo qua được. Gauvain thét:

- Xung phong vào lũy cố thủ! Ai xung phong?

- Tôi - Đội viên Radoub trả lời.

Chú thích:

[1] Eschyle (525 - 426 TCN): Thi hào người Hy Lạp.

X

Radoub

Quân tấn công bỗng ngẩn người ra. Radoub đã chui qua lỗ tường thủng cùng với những người đi đầu trong mũi xung kích: anh là người thứ sáu và trong số sáu người của tiểu đoàn Paris thì bốn người đã ngã. Sau khi anh kêu lên: tôi, người ta thấy Radoub không tiến lên mà lùi lại, cúi lom khom gần như bò giữa chân mọi người, qua lỗ tường thủng đi ra. Anh trốn chăng? Một người như thế mà trốn sao? Như thế nghĩa là thế nào?

Ra ngoài lỗ tường thủng Radoub dụi cặp mắt bị khói làm mờ đi, như muốn xua đi cảnh ghê rợn và tối tăm; rồi dưới ánh sao, anh đứng nhìn bức tường ngôi tháp. Anh gật đầu đắc ý, có ý nói ta không nhầm!

Radoub đã để ý là bức tường bị mìn nổ làm rạn nứt một đường dài từ lỗ hổng lên đến chỗ lỗ châu mai tầng thứ nhất, một viên đạn đại bác đã phá tung cái lưỡi sắt, trấn song lơ lửng; một người có thể chui lọt.

Một người có thể chui qua, nhưng ai có thể leo lên tới đó? Cứ theo đường nứt thì leo lên được nhưng phải là giống mèo.

Radoub là người như thế đấy. Anh thuộc vào loại người mà Pindare [1] gọi là “những lực sĩ lanh lợi”. Người ta có thể vừa là lính kỳ cựu vừa là trang thanh niên; Radoub đã từng là quốc dân quân, tuổi chưa đến bốn mươi, một lực sĩ nhanh nhẹn.

Radoub đặt khẩu súng dài xuống đất, bỏ tấm da khoác và cởi áo ngoài, chỉ giữ lại hai khẩu súng lục ở thắt lưng và cây kiếm trần kẹp giữa hai hàm răng. Chuôi của hai khẩu súng lục nhô lên phía trên thắt lưng.

Trút hết những cái vô ích, và trước hàng trăm con mắt của đoàn quân tấn công còn đứng ngoài lỗ tường thủng theo dõi trong bóng tối, Radoub bắt đầu leo lên những tảng đá ở đường nứt rạn như trèo lên các bậc thang. Không đi giày lúc này lại hóa tốt; không gì trèo nhạy bằng chân không; anh quắp ngón chân vào kẽ đá, dùng nắm tay rút mình lên và co đầu gối lại, bặm môi trèo chẳng khác gì leo trên một hàng răng cưa. Anh nghĩ: “May mà chẳng có ma nào trong căn phòng gác một, nếu không, người ta chẳng để cho mình leo thế này”.

Anh phải leo như thế suốt. Càng lên cao càng bị vướng bởi hai chuôi súng, đường nứt càng hẹp lại càng khó trèo, vực mỗi lúc một sâu thêm, nhìn xuống càng dễ choáng, dễ ngã.

Cuối cùng, anh lên đến gờ lỗ châu mai rồi gạt tấm lưới sắt đã cong lại và bật ra, kẽ hở thừa sức lọt vào; anh nhún người một cái mạnh, đầu gối dựa vào gờ tường, một tay nắm lấy khúc chấn song bên phải, một tay nắm khúc chấn song bên trái, rồi nhô nửa mình lên trước lỗ châu mai, lưỡi kiếm chắn ngang miệng, và nhờ hai nắm tay, anh treo mình lơ lửng trên vực sâu. Chỉ cần nhảy một bước và anh lọt vào gian phòng gác một.

Nhưng một mặt người xuất hiện trong lỗ châu mai. Radoub đột nhiên thấy trong bóng tối hiện ra một cái gì kinh khủng: một con mắt bị chọc thủng, một cái quai hàm bị gãy, một cái mặt nạ đầy máu.

Cái mặt nạ ấy chỉ còn một con ngươi nhìn anh.

Cái mặt nạ ấy có hai bàn tay: hai bàn tay ấy từ bóng tối giơ ra về phía Radoub, một tay giật lấy hai khẩu súng ngắn giắt ở thắt lưng, tay kia giật lưỡi kiếm cắn giữa hai hàm răng anh.

Radoub bị tước hết vũ khí. Đầu gối anh tuột trên thành cửa sổ ngả ra ngoài, hai nắm tay quắp vào trấn song hầu như không còn đủ sức giữ anh, và sau lưng anh là vực thẳm sâu mười ba mét.

Cái mặt nạ ấy và đôi bàn tay ấy, chính là Chante-en-Hiver. Chante-en-Hiver, bị khói từ dưới bốc lên làm nghẹt thở, đã cố bò lên khỏi lỗ châu mai; ở đây khí trời đã làm hắn tỉnh lại, đêm mát cũng đã làm cho máu đông lại, hắn đã hồi sức đôi chút; đột nhiên hắn thấy trước lỗ châu mai hiện lên nửa thân trên của Radoub; bấy giờ Radoub, hai tay đang bám chặt lấy song cửa, không còn cách nào khác là buông tay rơi xuống vực thẳm, hoặc để cho người kia tước khí giới, Chante-en-hiver ghê rợn và bình tĩnh đã cướp lấy súng và kiếm của anh.

Một trận đọ sức khủng khiếp bắt đầu, trận đọ sức giữa một người bị tước khí giới và một người bị thư?