CHƯƠNG 5
Sheila! Alex Barr thở dài. Anh đã gần như quên mất Sheila. Sheila gì nhỉ? Audrey? Không, Aubrey thì đúng hơn. Với mớ tóc xoăn màu đen cắt ngắn, nước da trắng sữa và cặp mắt xanh tím, bộ ngực rắn chắc dưới chiếc áo nịt giản dị. Sheila yêu dấu.
Và đã từ rất lâu rồi. Quãng năm 1943, tháng Ba năm 1943, nếu anh nhớ không nhầm. Lúc đó Alex không còn làm trợ lý đô đốc nữa. Anh đang là một trung uý quèn chỉ huy một khẩu đội Hải quân trong bộ phận có tên là Đội cận vệ. Các sĩ quan và những thanh niên thuộc Đội cận vệ được đặt trên các tàu buôn, bao gồm nhiều đoàn hộ tống đưa lượng hàng hóa lớn của châu Mỹ tới những nơi nghèo nàn như Murmansk Calcuta hay vịnh Ba Tư.
“Mồi câu” là cái tên người ta đặt cho Đội cận vệ trong những ngày đầu của chiến tranh, khi Luftwaffe làm chủ bầu trời và bầy chó sói tàu ngầm quốc xã đủ liều lĩnh để vây hãm các cửa sông nước Mỹ, làm nổ tung các chuyến tàu của quân đồng minh trước khi chúng ra đến biển. Các binh sĩ của Đội cận vệ được đưa lên trên những tàu buôn bề ngoài là để chống trộm cắp, nhưng thực chất là để đề phòng chiến thuật bán sỉ của đội tàu buôn Mỹ cho Nga, nếu Nga bất ngờ ký hiệp định hòa bình riêng rẽ với Đức. Alex đã bị xung một cách tùy tiện vào Đội cận vệ, giống như nhiều sỹ quan dân sự khác không có chuyên môn cơ khí - các giáo viên, nhà văn, luật sư - sau một khóa tập huấn ngắn. Ba tháng sau khi mua bộ quân phục đầu tiên Alex thấy mình đang bắn vào những chiếc tàu ngầm (với khẩu pháo 127 ly chắc là đồ phế thải từ sân một tòa án nào đó) trên chuyến đi dọc theo bờ biển từ Charleston, trước khi anh có cơ hội thành lập đội hộ tống ở New York. Để thực tập, anh đã hướng cho đội thuỷ thủ chưa có kinh nghiệm của mình bắn vào cột buồm của những tàu đã chìm mắc kẹt như những chiếc cần anten suốt dọc bờ biển nước Mỹ.
Mỗi đội hộ tống - cho trên một trăm tàu Tự do chạy chậm - có một sỹ quan kỹ thuật với chức danh “Hải đoàn trưởng” nhận tín hiệu từ đội phá vây và tàu hộ tống nhỏ để sắp xếp các tàu khác trong đoàn. Tàu “Hải đoàn trưởng” này được Giám đốc Quân cảng chọn tùy hứng, tại cuộc họp đội hộ tống trước khi tập hồ sơ dày về các con tàu được lập ở ngoài và phấn khởi hướng về Murmansk, được một số thuyền hộ tống bổ sung nhỏ của Canada, Anh và Mỹ dẫn qua Đại Tây Dương hung dữ. Tàu của Alex đã được chọn như vậy trong chuyến đi thứ hai của anh, chăn một đàn cừu yếu ớt, cái nào cũng chất đầy chất nổ hoặc xăng dầu, đi qua bầy chó sói Unterzeebooten đang tấn công từ New York tới North Cape, còn những chiếc Heinkel và Dornier thì bay đầy trời như đàn quạ mỗi khi những đội hộ tống kiệt sức đi quanh North Cape. Murmansk là Hành trình Tử thần; người Nga đang đói nguyên vật liệu, còn Luftwaffe đã tạm thời đình hoãn cuộc chiến với nước Anh để tập trung tấn công Nga và những tuyến đường tiếp tế cho Nga. Nước Anh, gần như ngã quị sau cuộc oanh tạc đầu tiên, đang nghỉ lấy hơi và dọn dẹp những đống đổ nát.
Bầy chó sói đã đánh tơi tả Đội cận vệ non nớt suốt quãng đường từ Sandy Hook tới bờ biển Scotland. Pháo sáng khiến bóng đêm ánh lên ma quái. Thuỷ lôi va đập ghê rợn vào cái đáy mỏng mảnh dày 8 đốt tay của những tàu buôn đang rẽ sóng trong màn sương mù dày đặc, đầu tàu nọ đâm vào đuôi tàu kia và xô vào nhau như những con ngựa bị đánh. Trời lạnh đến mức không thế tin được, những khẩu súng máy và Oerrlinkon được làm nóng bằng đèn xì. Râu thì vón lại thành những cục băng - tất cả mọi người đều có râu, vì sự tiếp xúc của thép trên da trần sẽ để lại những vệt xước loang lổ.
Có một cuộc tổng tiến công kéo dài 24 giờ, và có lúc Alex không ngơi ra được suốt tám ngày, thỉnh thoảng chợp đi trong buồng lái, ngủ gục ngay ở chỗ của mình trên đài chỉ huy. Một lần, khi cuộc tấn công tạm lắng, anh tranh thủ cởi bỏ bộ quân phục đã cứng đơ để lau rửa cơ thể hôi hám của mình. Khi đang xát xà phòng thì chuông báo động réo vang và anh chạy bổ ra ngoài boong tàu lạnh buốt dù trên người hoàn toàn không có gì ngoài chiếc mũ sắt đội đầu.
Chẳng có ngày hay đêm nào không có thông báo về những tàu chở đạn dược bị nổ tung hoặc những xe tăng bị bắn cháy. Nhiều tàu lớn nhỏ hỏng nhẹ và trục trặc động cơ bị tụt lại sau hoặc trôi giạt khỏi đội hộ tống, bị bỏ mặc một cách đau xót rồi lần lượt bị tàu ngầm bắn chìm. Chẳng có một nỗ lực nào để cứu hộ những con tàu gặp nạn. Trên mặt nước đầy băng, cuộc sống chỉ kéo dài chưa đến năm phút.
Khi đội hộ tống lết được đến Loch Ewe, phía bắc Scotlland, Alex cay đắng nhận thấy anh là người cuối cùng còn sống sót trong hội chơi bài ở New York trước khi chuyến đi bắt đầu, và rằng ba thành viên kia còn nợ tiền anh.
Là Hải đội trưởng, Alex theo thang tụt xuống chiếc xuồng đang dập dềnh do những nữ hải quân Hoàng gia Anh má hồng đi ủng đen chèo để họp bàn về tương lai của Đội cận vệ. Tính toán cho thấy 32 trong 120 tàu đã mất - và điều tồi tệ nhất còn đang chờ khi họ đi qua Cape.
Viên sỹ quan chỉ huy hải quân Anh còn rất trẻ. Anh ta có cặp mắt xanh, song quầng mắt đỏ mọng mệt mỏi và bộ râu dài quăn hoe vàng.
“Các anh đã trả một giá đích đáng cho chuyến đi này,” anh ta nói. “Tôi ở trong ban chỉ huy và chúng ta thấy việc tiếp tục cuộc tàn sát này là không khôn ngoan, cả lũ phát xít chó chết ấy đang đợi các anh quanh Cape. Hiện London yên tĩnh như một xứ đạo vậy. Đã nhiều tuần nay chẳng có gì ở đó - về cái ấy, ơn Chúa, tôi tin chúng ta chỉ có khoảng sáu bờ ngầm để vượt qua.”
Viên sỹ quan ngừng lời giây lát, và nhìn nhúm người Mỹ.
“Tất nhiên tôi biết đội hộ tống này là một pha trình diễn hoàn toàn Mỹ, nhưng hiện các anh đang thuộc quyền chúng tôi. Các anh sẽ nói gì về việc thử vận may ở Estuary? Không có gì nhiều ở quanh đó gây rắc rối cho các anh nhưng có một tàu phóng ngư lôi rảnh rỗi. Lẩn nhanh vào và bốc dỡ hàng trong một tuần rồi quay trở lại là thông minh hơn cả”.
Anh ta nhìn Alex đang nhăn mặt
“Tôi nói ”hây“, và cũng nhờ Chúa, ở London không có tên phát xít nào đấy chứ?”
Viên sỹ quan lắc đầu.
“Ra khơi và dâng chính họ cho người Nga - và bất kỳ điều gì sẽ đến với nước Nga già cỗi. Tôi phần nào hình dung ra Murmansk nơi sắp có nó. Nó sẽ được đưa tới vùng vịnh và sau đó bằng đường bộ từ Abadan. Điều này không phải dễ dàng với những chàng trai của các anh, nhưng ít ra thì trời cũng ấm hơn. Tôi tin là ông thuyền trưởng đây đang chỉ huy một Hải đội khát khô. Ông muốn một chút rượu rum chứ?”
“Nếu cần thì tôi thích một chút xăng hơn,” Alex nói. “Tôi vẫn còn lạnh cóng.”
Sáng hôm sau, những thùng chắn của lưới chống tàu ngầm đã thu về, và đội hộ tống được tổ chức lại, với những tàu hộ tống nhỏ kéo còi suốt dọc đường khiến chuyến đi đến cửa sông Thames diễn ra nhanh chóng và hỗn độn. Họ chỉ gặp vài rắc rối nhỏ với những chiếc tàu phóng lôi, chúng đi những chuyến ngắn mau lẹ và rút lui sau khi hai chiếc bị bắn chìm. Họ bình yên tiến vào sông Thames, và tàu của Alex bỏ neo ở bến Royal Albert.
Anh đã đứng đó được một lát khi chàng trai có bộ râu dài, quăn, một đại uý, đi lên boong.
“Các ông nên giữ an toàn súng của mình và bỏ đạn dược vào tủ khóa lại,” anh ta nói. “Việc tàu của ông không bị tấn công sẽ không lặp lại nếu bọn Đức đến thăm chúng ta. Chúng tôi có qui định riêng về vũ khí và chúng tôi không muốn bất kỳ binh sỹ nào của các ông sơ suất bắn phải lính của chúng tôi. Ông có thể bảo đảm an toàn tàu của các ông và được tự do hoàn toàn. Chúng tôi sẽ đưa người của mình lên boong.”
Anh ta hăng hái nhìn Alex.
“Nếu tôi là ông thì tôi sẽ sửa sang qua loa,” anh ta nói. “ít ra là cạo râu và xả hơi một chút. Ông được yêu cầu phải có mặt tại H.Q lúc 9 giờ sáng mai. Có một số việc cần làm với Cơ quan tình báo và Cơ quan dân vận - phát một bản tin về nhà để cổ vũ tinh thần. Sau đó, có lẽ ông sẽ được tự do cho đến khi nhổ neo”. Anh ta bắt tay anh và mỉm cười. “Hãy vui lên đi. Đừng để ý đến cảnh giết chóc ấy nữa. London vẫn là một kinh đô ánh sáng, ngay cả phía sau những góc khuất, ở đây có mọi loại phụ nữ, và sau mỗi cánh cửa thứ ba đều có một quán rượu bí mật. Tôi đã được nghe kể về một chỗ rất tuyệt ở Orange Court phục vụ món thịt nướng chợ đen rất ngon. Nhiều người có thể chỉ chỗ đó cho ông.”
Anh ta bước đi nhưng lại quay lại.
“Tôi quên khuấy đi mất. Họ sẽ gửi đến cho ông một chiếc mô tô vào lúc 8h15. Tôi không muốn ông bị lạc trong hệ thống xe buýt.”
Alex lắc đầu khi anh quay lại phòng chỉ huy nhỏ xíu có dòng chữ “Trung úy Alexander Barr, Phòng vũ khí” in phía trên. Theo anh, hình như người Anh rất xem thường cuộc chiến tranh của họ, cuộc chiến tranh mà họ đã tỏ ra thất bại trên đất liền, trên biển và nhất là trên không. Người Nga đang bị đánh lui liên tục; đội quân tài tử của nước mẹ Mỹ quốc bị thảm bại ở Bắc Phi, Rommel đang tháo chạy điên cuồng ở sa mạc miền Tây, đường tiếp tế từ Mỹ - mà đội của anh là một ví dụ - đang bị cắt đứt, và RAF[3] đã hầu như bị phá huỷ hoàn toàn trên khắp nước Anh.
Anh đi vào phòng tắm nhỏ nằm dưới lối đi và bắt đầu kỳ cọ. Anh cạo bộ râu lởm chỏm với một sự nhẹ nhõm, và quyết định điều đầu tiên sẽ làm là gọi pháo thủ số ba, trước kia vốn là thợ cắt tóc, sửa sang cho anh. Sau đó anh sẽ xem lại súng ống và hành lý của mình, rồi lên bờ đi dạo một chút để thấy lại mặt đất dưới chân (chiếc tàu ọp ẹp lắc lư tới 80 độ, 40 độ về mé bên này, 40 độ về mé bên kia, gần như suýt lật úp, và anh vẫn giữ được vị trí của mình), còn sau đó có thể hỏi thăm xem liệu có quán rượu nào gần bến tàu, nơi người đàn ông có thể mua một lít bia đắng êm và một khoanh pho mát không có vị chán ngắt như mọi thứ còn lại trong hầm lạnh của tàu.
Alex Barr vui lên đôi chút khi mặc quần áo. Màu xanh của chiếc áo gây cảm giác hứng khởi trên làn da đã được kỳ cọ sạch sẽ, saụ nhiều tuần ngửi mùi hôi khó chịu toát ra từ thân thể mình trong bộ quân phục dày cộp của đội hộ tống, với cảm giác như đeo trên mặt một chiếc mặt nạ.
Giờ đây anh đã đi qua hai lần, trong khi nhiều người khác đã chết trên những ngọn sóng trắng xóa của Đại Tây dương hung dữ, xám xịt như cái chết và lâu như thể là vĩnh viễn. Nhiều người đã chết, nhưng anh, Alexander Barr, vẫn còn sống.
Và anh cho rằng mình đã làm tốt công việc, mặc dù anh đã bị đánh cho sầy vảy. Không chỉ bị đánh trên biển, mà còn bị đánh vào cái quan niệm đã thấm nhuần ở trường học. Alex Barr không có bất kỳ kỹ năng cơ khí nào; anh có thể vặn vừa đủ ruy băng máy chữ, và những thao tác đơn giản của việc thay lốp luôn khiến anh trầy hết đốt ngón tay. Anh đã học thuộc con đường của mình thông qua nghề hàng hải, bắn pháo và điều khiển đội thuỷ thủ, và đã học được nhiều điều khác mà không hề gian lận.
Về mặt sử dụng pháo, trên tàu bắn, anh đã đạt kết quả tốt, vì ít nhất, như một tay bắn súng cừ, anh đã hiểu những tiên đề có vẻ cản trở nhóm pháo thủ không có kinh nghiệm mà anh định huấn luyện. Anh đã nhận chiếc tàu đầu tiên ở Charleston với sự lúng túng, và đã lập được danh sách trực gác ở mạn phải và mạn trái tàu với sự giúp đỡ của viên pháo thủ số 2 chuyên nghiệp của Hải quân, anh này bị đưa vào Đội cận vệ vì những lỗi lầm phạm phải trên bờ.
Giờ đây dường như mọi việc đều trôi chảy. Anh có trong tay một đội thuỷ thủ tốt. Anh đã học được nhiều điều có giá trị thực tiễn trong hai chuyến đi mới đây. Quân số bổ sung của Đội bảo vệ vũ trang được lấy từ số tân binh còn lại - những chàng trai nông dân mặt còn lông tơ từ Iowa, những kẻ đâm thuê chém mướn từ New Jersey, và những tên gây rối trên đường phố Brooklyn. Các tàu khu trục và tàu tuần tiễu hốt lấy phần tinh túy nhất. Phần cặn bã được đưa vào một đơn vị không ai muốn, dưới quyền những sỹ quan không phân biệt được mạn phải với mạn trái, và vẫn gọi vách ngăn là “tường”, thang là “cầu thang” và boong là “tầng”.
Dưới quyền Alex có một nhân vật đặc biệt khó chịu, một cậu bé gốc Ba Lan béo lùn quê ở New Jersey có tên là Zabinski. Mọi con tàu đều có một đứa trẻ ngỗ nghịch, và Zabinski là tai ách của Alex. Nếu có kẻ nào đó uống say bét nhè và gây rối trên bờ thì đó là Zabinski. Nếu có kẻ nào đó hút thuốc trong kho súng trong khi cờ hiệu báo tàu chất đầy đạn dược, thì đó là Zabinski. Hình như kẻ hút thuốc trong khi gác, hoặc ngủ gật khi gác, hoặc nghỉ quá phép luôn là Zabinski, người có khuôn mặt bẹt rỗ hoa có cái vẻ ngu đần không thay đổi trộn với vẻ vênh váo sưng sỉa.
Vì đã đọc cuốn Sổ tay thủy quân và Các qui định của Hải quân, Alex đã cố làm tất cả, từ phạt giam trên tàu, bắt trực thêm đến nài nỉ một cách nhẫn nại, Zabinski vẫn trơ trơ. Cậu ta luôn nói “ừa”, quên “thưa ngài”, và mặt sưng mày sỉa bỏ đi, mũ đội ngược, khăn thắt lệch, còn áo quần thì lôi thôi bẩn thỉu.
Một hôm Alex mất hết kiên nhẫn. Anh cũng không còn tin tưởng nữa, vì dường như Zabinski đang từ từ lấy đi con tàu của anh khỏi tay anh. Chúa biết là cần điều hành cứng rắn đội quân nhỏ và được trả lương thấp của Hải quân trên chiếc tàu buôn mà một thủy thủ học việc cũng có lương gấp đôi Alex, và bị các nhà buôn căm ghét như những kẻ ăn trên ngồi chốc. Kỷ luật là nghiêm khắc trừ chuyện gây rối của Zabinski.
Alex cố nhẫn nại thêm lần nữa, gọi Zabinski lên phòng mình
“Tôi đã cố thuyết phục cậu,” Alex nói với bộ mặt Ba Lan trơ trơ đó. “Tôi đã cho cậu nếm đủ loại hình phạt. Nhưng hình như chẳng nhồi được gì vào cái đầu Ba Lan bã đậu của cậu. Tôi cho rằng cái duy nhất cậu có thể hiểu ra là vũ lực. Vì thế tôi định tháo đôi lon này ra, đưa cậu xuống dưới hầm hàng, và Zabinski ạ, tôi sẽ đập bét xác cậu, đánh cho cậu thấy ông bà ông vải ngay trước mặt các thủy thủ của tôi cũng như đám thuỷ thủ của tàu. Tôi có mấy đôi găng đánh bốc; Điều lệnh Hải Quân nói rằng có thế dùng chúng để giải trí. Chúng ta sẽ có một vài tiết mục mua vui.”
Một nụ cười chậm chạp nở trên đôi môi dày của Zabinski, cậu ta ngọng nghịu đáp:
“Được nắm, đại uý,” cậu ta nói. “Cháu cũng muốn chuyện vui với một xỹ quan chết tiệt lào đó.”
“Cậu đang có đấy,” Alex nói. “Đi thôi”.
Họ trèo xuống hầm tàu số ba sau khi Alex đã thông báo buổi trình diễn kỹ xảo và kỹ thuật nhằm mục đích giải trí và cổ vũ tinh thần. Thế là hầm tàu bị vây cứng bởi đám nhân viên tàu buôn cười hô hố, họ càng cười to hơn khi thấy hai người đàn ông đã cởi quần áo. Alex gầy và săn chắc, song Zabinski có thân hình to bè cuồn cuộn cơ bắp. Cậu ta đang đấm vờ ở một góc hầm tàu và Alex, người đã tập nhiều môn thể thao như mọi thanh niên, cảm thấy tim lạnh đi khi xem động tác chân của Zabinski. Cái dáng đi nặng nề lạch bạch đã biến mất; gã tiến vào sàn đấu trước. Zabinski nhún nhẩy nhẹ nhàng ở mé bên nhải: đánh nhử, cúi, né và chống trả những cú đâm vô hình từ không khí.
“Người ta đồn là,” một thuỷ thủ trong phe Alex thì thầm với người khác, “thằng nhãi Ba Lan này đã xếp thứ nhì cuộc đấu tranh giải đôi găng vàng Jersey. Chắc chắn nó sẽ cho sếp nếm bã trầu.”
Đại úy Alexander Barr không mất quá nhiều thời gian để hiểu rằng anh đang đứng trên một sàn đấu không chăng dây với một võ sỹ bán chyên nghiệp. Zabinski đang giễu cợt anh, chỉ dùng duy nhất tay trái nhanh nhẹn liên tục thoi vào mặt anh; còn tay phải thỉnh thoảng lại đấm trúng bụng anh với một sức mạnh đã được kìm nén lại. Sãi tay của Alex dài hơn, và đôi khi anh tung ra được một cú đấm, còn Zabinski thì chẳng buồn lắc đầu mỗi khi bị dính đòn.
Họ đã đánh được vài hiệp, mỗi hiệp dài 2 phút, với viên thuyền trưởng tàu buôn cầm đồng hồ, và sau năm giây đầu tiên của hiệp thứ nhất, Alex đã biết rằng Zabinski có thể hạ gục anh chỉ bằng một cú đấm, nếu gã muốn. Nhưng gã đã không làm thế, gã muốn đùa cợt viên sỹ quan chỉ huy của mình, và từ xung quanh hầm những tiếng cười khúc khích phát ra ngày càng to hớn. Alex có thể thấy chính anh đã làm mất con tàu của mình, khi Zabinski mỉm cười tự đắc và thoi vào anh vài quả nữa.
Vào hiệp ba, mặt anh đã bê bết máu, còn bụng thì bị đấm đỏ ửng, Alex giơ găng lên và nói, “Xin nghỉ”.
“Tôi chẳng nhìn được gì cả,” anh nói tiếp. “Tôi sẽ lên phòng và băng lại những chỗ rách da. Tranh thủ thở đi, Zabinski. Tao sẽ quay lại.”
Anh chạy theo thang lên boong và đi vào phòng mình. Trong phòng thật là an toàn. Một trong nhiều trách nhiệm phụ thêm chất lên vai sỹ quan Đội cận vệ là làm người phát lương tạm thời khi tàu ở cảng nước ngoài. Alex chấm chấm máu trên mặt, dán một miếng băng dính lên vết rách chỗ lông mày, và cân nhắc cách giữ cho mình được an toàn. Anh với tay lấy ra một xâu những đồng mười xu được bọc giấy. Anh nhét xâu tiền ấy vào trong găng, những ngón tay thoải mái cầm gọn cuộn kim loại nặng, buộc chặt găng, và vui vẻ trượt xuống thang, đôi tay đi găng giữ cho người anh ở trên tay vịn, chân không chạm đến bậc thang, theo kiểu thủy thủ. Anh lao vào cửa hầm, hét lên. “Rồi, tiếp tục!” và chạm găng với Zabinski.
Zabinski sẵn sàng để cho Alex thỉnh thoảng đấm được một quả vào gã, mỉm cười tự đắc coi khinh sức mạnh của cú đòn đó, và cũng vì nó cho gã một cơ hội tuyệt vời để tỏ ra láo xược và đánh trả những đòn dữ dội. Gã đã ngoái đầu lại và cười với đám khán giả khi nhận được cú đấm mạnh nhất của Alex vào cằm.
Giờ đây gã đã thay đổi chiến thuật, bất thình lình đánh nhẹ vào mặt Alex, rồi thõng tay xuống để Alex đấm được vào cằm gã. Alex đã nhìn thấy rõ mồn một cái cằm rộng trơ tráo, anh xoay gót. Chiếc găng nặng nề giáng thắng vào cằm Zabinski, và từ Norfolk tới Archangel nước Nga người ta có thể nghe thấy tiếng xương hàm gãy vụn. Chỗ gãy bắt đầu dưới một bên tai và đường gãy đi dọc suốt đến tai bên kia.
Vẻ lạnh lùng trơ tráo trên mặt Zabinski biến mất. Alex liếc nhìn gã, sau đó lạnh lùng nhìn chằm chằm đám lính của anh, rồi chằm chằm nhìn còn lạnh lùng hơn vào đám thuỷ thủ tàu buôn. Anh gật đầu. Máu chảy nhỏ giọt từ mặt anh.
““Ai đó có thể dội cho nó ít nước,“ anh nói. ”Khi nào nó tỉnh hãy đưa nó lên phòng kỹ sư trưởng. Chúng ta sẽ phải lắp một số Ống dẫn để cho nó ăn, mà tôi thì không phải là công nhân cơ khí.” Anh nhẹ nhàng rời hầm tàu, vượt qua đám thuỷ thủ đang tự động giãn ra nhường lối, trở về phòng để rửa vết thương và tháo bỏ cuộn tiền ra cho an toàn.
Sau đó Alex Barr không còn gặp rắc rối cá nhân trên tàu, đội thủy thủ của anh vào vị trí chiến đấu đúng đến từng giây và luôn được Bộ chỉ huy biểu dương.
Vâng, anh đã nắm được đội thủy thủ, và điều quan trọng là anh đã vượt qua. Nếu anh có thể làm điều đó quay trở lại, hiểu thêm một người và làm điều đó quay trở lại... vâng, bạn được hưởng vòng quay của chuyến đi này sau sáu tháng - nếu bạn còn sống.
Và Alex đã tính toán để được sống. Anh đã nhìn thấy nhiều người trong số những bạn thân thiết của anh hôi thối với mùi chết chóc, với cảm giác chết chóc trên người họ. Và họ thường “dính” trong vòng hai chuyến hộ tống. Alex không có cảm giác sẽ bị trúng bom. Anh linh cảm rằng mình sẽ thoát khỏi công việc chở đạn dược này, sẽ viết vài bài về nó gửi cho các tạp chí, và rồi anh sẽ học được những điều tốt hơn, tốt nhất là ở căn cứ trên bờ biển trong một công việc dễ chịu.
Nhưng chí ít, anh nghĩ, mình đã làm được, và mình vui mừng khi chúng đánh mình bằng việc chịu đựng vết rách đầu tiên trong trận đấu quyền Anh. Lý do lớn đầu tiên khiến bố mình cố tham gia chiến tranh - anh nhăn mặt - có lẽ là để thoát khỏi mẹ mình, và ông ấy đã bị bệnh cúm trước khi được chuyển từ dân quân. Thậm chí ông ấy không chết vì bệnh cúm. Ông ấy không bị ốm trong bộ quân phục. Ông bị ốm ngay ở nhà, trên giường, trong khi mẹ thì trở nên to béo như một y tá không chuyên với chữ thập đỏ trên mũ. Alex còn nhớ rất rõ những buổi chiều mà bà, đầy lòng nhiệt tình của con chim sơn ca vùng Florence trở về ngôi nhà, nơi tất cả mọi người đều nằm rên rẩm, bao gồm ông nội, bà nội, cha và cả chính anh.
[3] RAF: Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh.