← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 8

Căn hộ bé xíu; một phòng ngủ nhỏ, một phòng khách lớn hơn chút xíu, căn bếp có bếp ga kèm tủ lạnh nằm một góc, và một phòng tắm mà đứng yên trong đó có thể với tay lấy được mọi thứ. Song nó thật sáng sủa và vui mắt sau những tấm rèm cửa màu tối nặng nề, mấy cây thuỷ tiên nở hoa vàng trên bàn nước nhỏ kê trước chiếc ghế sô pha màu cam sẫm. Alex đặt chai Scotch lên bàn.

“Có lẽ là loại làm thủ công,” anh nói. “Nhưng đây là loại tốt nhất mà tôi có thể kiếm được ở chỗ đó. Vào giờ này.”

“Thật kỳ diệu,” cô nói. “Đây là chai whisky đầy đầu tiên - hoặc gần như đầu tiên - mà tôi nhìn thấy kể từ khi chiến tranh xảy ra.” Cô cởi áo khoác và mang nó vào phòng ngủ. “Không được rộng lắm,” cô nói. “Nhưng ít ra tôi không phải ở chung. Phòng tắm chỉ vừa cho một người. Có lẽ trong tủ lạnh có khay đá nhỏ nếu anh thích cho đá vào whisky, tôi nghe nói phần lớn người Mỹ đều thích thế.”

“Tôi có thể uống có đá hoặc không,” Alex nói. “Trong trường hợp cá biệt này tôi sẽ cho đá. Thế còn cô?”

“Một chút sôđa thôi. Tôi thích nó ấm. Tôi sẽ ra với anh ngay bây giờ. Nhân lúc tìm đá, anh có thể xem xem có cái gì trong ngăn dưới không. Hình như có một ít phó mát, bánh qui và cả xúc xích. Hoặc tôi có thể làm cho anh một quả trứng. Hôm qua là ngày mua hàng. Chắc là có giăm bông hộp, nhờ sự giúp đỡ từ người của các anh.”

“Nghe như yến tiệc vậy,” Alex nói. “Tôi là một trong số ít người trong quân đội rất thích giăm bông hộp. Trời đất quỷ thần ơi, cô có cả cá trích hun khói và cá hồi nữa này. Hẳn cô phải đang điều hành một chợ đen.”

“Một cô gái luôn làm điều tốt nhất có thể được,” Sheila Aubrey nói khi ra khỏi buồng ngủ. Cô đã làm điều gì đó với mái tóc đen quăn tít, tô lại môi, và vận chiếc áo nịt len giản dị trên chiếc váy vải tuýt. Chiếc áo bó sát kín đáo để lộ những đường cong gợi cảm.

“Cho tôi biết về cô đi,” Alex đề nghị khi họ chạm cốc.

“Đơn giản lắm. Sinh ở Ailen. Tôi bị mồ côi từ sớm, cha vì hoạt động cho IRA, mẹ vì đau tim, đấy là tôi đoán thế. Một người bác phản bội đã tìm tôi và tôi lớn lên ở Sussex, vì thế tôi không nói giọng Ailen. Tôi đi học cho đến khi chiến tranh bùng nổ, còn sau đó thì đi làm. Tôi không thích lắm những bộ quân phục - ý tôi là tôi không thể trở thành một Wren[6] hay một Fannie - vì thế tôi kiếm việc làm ở bộ. Thế thôi.”

“Có thế thôi sao?”

“Ồ, vâng, một người chồng chưa cưới.” Sheila Aubrey chỉ tay lên trời. “Một sỹ quan RAF. Một ngày anh ấy không trở về. Từ đó chẳng còn gì nhiều ngoài công việc. Ngay từ đầu tôi đã không muốn ăn trong nhà ăn sỹ quan. Những ngày này thật chẳng dễ dàng gì, khi tất cả mọi người đều ngã vàường sau một ly cocktail...”

“Sẽ rất khó chống lại sức ép ngã vào cô,” Alex nói và nắm chặt tay. “Đừng sợ. Tôi đánh giá đúng lòng mến khách, và sẽ không lợi dụng.”

“Nếu tôi nghĩ là anh như thế thì tôi đã không đưa anh về nhà,” Sheila Aubrey nói. “Đây là căn nhà duy nhất mà tôi có. Nhà của bác tôi không may đã bị trúng bom. Thế còn anh thì sao?”

“Viết văn,” Alex nói, bắt chước kiểu nói nhấm nhẳng của cô. “Thành công khiêm tốn. Một vợ. Không con. Thế thôi.”

“Anh viết gì?”

“Đầu tiên là báo. Sau đó là tạp chí. Rồi đến sách. Gần đây nhất là một vở kịch. Khi tôi đi thì nó vẫn đang được trình diễn.”

Anh rút ra hai điếu thuốc và đưa cô một điếu.

“Cảm ơn. Vở kịch ấy tên là gì?”

“Không có gì nếu không có tiếng cười. Không hay lắm, tôi e là thế. Nhưng rất ăn khách.”

Cô cau mày.

“Tôi đã đọc vở kịch đó, và tôi nghĩ là tôi đã đọc một quyển sách nào đấy của anh. Nếu anh là Barr ấy, thì anh làm gì trong bộ quân phục Hải quân? Tại sao anh không làm phóng viên chiến tranh? Hoặc nếu anh đã cưới, tại sao anh không ở nhà? Tôi tin là họ hoãn quân dịch cho những người đã có gia đình.”

Alex cưới phá lên và rót thêm rượu vào cả hai chiếc ly.

“Tôi không muốn bỏ lỡ nó. Tôi muốn là người đầu tiên của họ Barr thật sự ra trận. Ông nội tôi ngay từ đầu đã bị bọn Yanki[7] bắt làm tù binh, còn cha tôi thì bị cúm khi thế chiến thứ nhất kết thúc. Tôi muốn làm một anh hùng bất đắc dĩ và nhìn cuộc chiến tranh từ bên trong.”

“Anh đang kéo chân tôi đấy,” cô nói. “Tôi không thể tin được...” còi báo động lại vang rền bên ngoài, và người ta lại nghe thấy tiếng động cơ ầm ì.

“Ôi, Chúa ơi, chúng quay lại”, cô hét lên át tiếng náo động. “Tôi đã nghĩ là chúng để cho một đêm tốt đẹp. Tôi chẳng bận tâm nếu là một lần, nhưng hai lần thì...”.

Alex thấy cô run rẩy, anh nhẹ nhàng đặt tay qua vai cô.

“Suỵt,” anh nói trong tiếng ầm ầm. “Chúng sẽ sớm cút đi thôi, còn chúng ta đã mất gần hết đêm nay. Ít ra đây cũng là...” tiếng bom cắt ngang lời nói của anh.

“... là gì?”

“Một chỗ trú bom tốt hơn ngoài đường. Chúng ta có rượu, có ánh sáng và có vài phần trăm may mắn.”

Sau khi còi báo yên Sheila Aubrey nói:

“Thật sự tôi không cho mình là người ngu ngốc. Nhưng những trận bom luôn khiến người ta căng thẳng. Ý tôi là, sau khi nó diễn ra đủ thường xuyên, những cửa sổ bị vỡ, lửa cháy sáng rực, những nơi quen thuộc thì chỉ còn là một hố bom to tướng...”, người cô vẫn run lên từng đợt.

“Thôi nào. Tôi sẽ ngó ra ngoài một chút.” Anh tắt đèn, kéo rèm cửa và nhìn chằm chằm vào bóng đêm. Có vẻ như một nửa London đang bốc cháy.

“Khá là tồi tệ,” anh bình tĩnh nói. “Tôi nghĩ là sẽ phải đợi trước khi có thể quay về Savoy. Cho đến khi đường phố được dọn dẹp chút ít và đội cứu hỏa làm xong phần việc của họ.”

“Đêm nay anh không thể về Savoy được,” Sheila Aubrey nói. “Đường xa lắm. Anh phải nghỉ lại đây thôi. Và dù sao đi nữa tôi cũng muốn anh ở lại đây - tôi không muốn ở một mình đêm nay. Ý tôi không phải là cái anh đang nghĩ đâu. Tôi không... ý tôi là...”

Alex mỉm cười.

“Tôi biết ý cô là gì. Và tôi biết là cô không. Yên tâm đi, tôi sẽ ở lại, và rất biết ơn. Tôi sẽ co tròn trên đivăng và sốt ruột chờ trời sáng. Hay cả hai chúng ta cùng ngồi nói chuyện cho đến sáng mai.”

Sheila quay lại và nhẹ nhàng hôn lên má anh. Cô mỉm cười ngượng ngập.

“Thực sự không phải là tôi lo lắng nhiều đến thế, nhưng đêm nay, tôi chỉ muốn có một ai đó ở cạnh tôi mà không... tôi muốn được ôm ấp mà không...”

“Tôi sẽ ôm em, mà em không phải nhắc lại từ mà không,” Alex Barr nói. “Em có thể tin vào điều đó.”

Alex Barr nằm trên giường, tay trái tê cứng vì mái đầu đang nép vào vai anh, không dám cử động sợ đánh thức cô gái đang ngủ ngon lành. Anh mặc quần soóc và cởi trần, còn cô gái mặc bộ đồ ngủ. Người cô thơm ngát và mềm mại khi cô thở đều đều bên cạnh anh.

Alex Barr nhìn lên trần nhà, giữ yên cánh tay đang tê dại và mỉm cười giễu cợt. Anh đã vuốt ve dỗ cô ngủ như thể dỗ dành một con ngựa hay một đứa bé. Anh khẽ lắc đầu.

Trong tất cả những người đàn bà ở London mà ngươi có thể lên giường cùng, anh nghĩ, người thủy thủ vừa chân ướt chân ráo cập bến đang phải nằm thuần khiết với một bạn chung phòng. Tôi đang nằm với một cô gái đẹp mà chưa làm gì quá một nụ hôn. Amelia sẽ chẳng bao giờ tin được điều này. Vừa chợp đi được một lát thì có cái gì chạm nhẹ vào vai khiến anh choàng tỉnh.

“Có trà đấy, anh có muốn uống một chút không,“ Sheila vừa nói vừa bước vào trong chiếc áo choàng dài. “Anh ngủ được chứ? Tôi xin lỗi vì sự ngu ngốc tối qua. Song xin cảm ơn anh, Alex, cảm ơn anh rất nhiều”.”

Alex đưa tay dụi mắt. Miệng anh khô khốc và dính chặt.

“Tôi ngủ say như chết,” anh nói dối. “Và không cần cảm ơn tôi đâu. Liệu cô có cái gì đó giống như dao cạo râu không? Tôi ghét phải đến Savoy, nếu nó còn đứng vững, với bộ râu xanh rì thế này. Điều lệ Hải quân và tất cả.”

“Tôi sẽ xem xem,” cô nói. “Và xem luôn món trứng mà chúng ta không ăn đêm hôm qua.”

“Có khá nhiều thứ chúng ta không làm đêm hôm qua,” Alex nói bằng giọng khao khát, “Thật là một đêm đặc biệt.”

Sheila Aubrey mỉm cười và nhăn mũi.

“Tôi nay tôi khá rỗi rãi nếu anh không có việc gì tốt hơn để làm,” cô nói. “Tôi sẽ xong việc sớm. Lúc năm giờ.”

“Nếu không có việc gì tốt hơn để làm thì tôi sẽ không bỏ lỡ. Cô sẽ tìm tôi ở Savoy, chỗ quầy bar chứ?”

“Vâng,” cô nói và khẽ hôn lên má khi anh đi ra cửa để tìm taxi.

Lát sau Alex tới được Bộ chỉ huy Hải quân và được biết tàu của anh đã bị trúng bom trong trận oanh tạc đêm qua. Không có gì nặng lắm, nhưng đủ để cần sự coi sóc của sỹ quan chỉ huy. Khẩu pháo số một ở đuôi tàu bị xê dịch khỏi vị trí, còn hai khẩu Oerlikon thì vô phương cứu chữa. Có một vài hư hại ở boong dưới. Nó sẽ được đánh giá nếu Alex chịu để một phụ nữ trầm lặng không rõ tên chở tới Est End để thấy đội sửa chữa người Anh đang bận rộn với đèn hàn và dụng cụ hàn. Bốn giờ chiều vẫn còn bận. Anh đi lên bờ và gọi điện đến Bộ Không Quân, và cuối cùng được nối với cô Aubrey ở bộ phận Mật mã.

“Vô cùng xin lỗi,” anh nói. “Nhưng tôi e là chúng ta không thể gặp nhau ở Savoy như đã hẹn được. Con tàu cũ kỹ của tôi bị hư hại chút ít do trận bom đêm qua, tôi phải trông coi những người đồng hương của cô, mà họ thì hình như muốn làm việc suốt đêm. Có một số hư hỏng ở phía dưới có thể được sửa chữa ngay trong đêm, những hư hỏng này sẽ cản trở việc bốc dỡ hàng nếu không nhanh chóng khắc phục, và chúng tôi được lệnh bốc dỡ hàng thật nhanh. Rất tiếc. Ngày mai có được không?”

“Ngày mai cũng được,” Sheila Aubrey nói. “Nhưng tôi có một sáng kiến hay hơn. Nếu anh có thể xong việc vào bất cứ lúc nào trước nửa đêm, sao anh không đến nhà tôi và chúng ta lại có một tối yên lặng nữa. Có lẽ chúng ta sẽ không phải hét lên với nhau. Rượu whisky của anh vẫn còn lại một ít đấy.”

“Rất tuyệt. Nếu có thể giải quyết xong công việc ở đây, nhất định tôi sẽ gõ cửa nhà cô.”

Alex trút bỏ bộ đồ bảo hộ lúc tám giờ tối, và vừa huýt sáo vừa cạo râu lại thật kỹ và chải qua bộ quân phục màu xanh. Mình phải nhớ ơn đội thuỷ thủ người Anh, anh nghĩ. Trong một ngày họ đã hoàn thành lượng công việc mà nếu làm ở Hamton Roads thì phải cả tuần. Con tàu mòn vẹt cũ kỹ đã được hàn lại bằng hoặc có lẽ còn hơn mối. Dường như bọn phát xít đã dạy cho người Anh biết phải thay đổi như thế nào và khiến mọi người đều làm việc khẩn trương - phòng không, cứu hỏa, cứu hộ. Anh huýt sáo. Bây giờ mới hơn tám giờ và nếu may mắn anh sẽ đến được West End lúc chín giờ. Chỉ cần tìm được taxi...

Một buổi tối nhiều hứa hẹn. Nàng, Sheila, người anh gặp trên đường, mới đáng yêu làm sao, mới đẹp làm sao, mới dễ thương làm sao, mới ngọt ngào làm sao, và sau cách xử sự mẫu mực của anh đêm hôm qua, hứa hẹn nhiều điều đẹp đẽ sẽ đến.

Anh huýt sáo và thầm khen mình vì đêm qua đã không lợi dụng sự gần gũi. Lúc nào phải đến thì nó sẽ đến, với sự say mê trọn vẹn từ cả hai phía, vì thời gian rất ngắn ngủi và nàng biết thời gian là rất ngắn ngủi, trong vòng một tuần nữa, mà có khi không đến, anh sẽ lại phải ra khơi.

Sheila không diêm dúa, không đong đưa như những cô ả dễ dãi mà anh đã thấy ở các khách sạn, quán bar và câu lạc bộ. Nhưng vào lúc này nàng là tất cả mọi phụ nữ - nàng đã đính hôn và đã phần nào là góa phụ trong chiến tranh, và nàng biết sự ngắn ngủi của thời gian trong chiến tranh. Ở đây không xét đến quan niệm của Amelia về lòng chung thủy. Đây là London thời chiến. Có tàu ngầm dưới biển và máy bay trên trời. Thời gian thật ngắn ngủi, và thời gian cũng thật ngọt ngào. Đêm nay Sheila sẽ lại ngủ yên lành trong vòng tay anh, không chỉ vì được an ủi, giống như một đứa trẻ trong bóng tối.

Chúa đã mỉm cười với anh, Alex rời khỏi tàu và thấy ngay một chiếc taxi. Người lái xe sẵn sàng đồng ý, dù sao chăng nữa anh ta cũng cần quay lại West End.

“Đêm qua chúng tôi đã giã một trận ra trò,” người lái xe nói với vẻ hãnh diện. “Đi đâu, ông bạn?”

“Hill Street,” Alex nói. “Và phi nhanh hết mức có thể. Một quí bà đáng yêu đang đợi tôi.”

“Quá rõ, ông bạn”, người lái xe nói và nháy mắt. “Ê này, đủ những quí bà đáng yêu, phải không?”

“Quá đúng,” Alex nói cụt ngủn và náu mình trong góc ghế để ngẫm nghĩ về định mệnh, những cuộc không kích, đường phố và cô gái đáng yêu có tên là Sheila.

Họ vừa tới quảng trường Grosvenor thì còi báo động cất lên. “Trời ơi,” người lái xe kêu lên. “Phải quay lại thôi. Tôi chỉ có thể đưa anh tới Grosvenor, tất nhiên, trừ phi anh muốn trú ẩn?”

“Hãy làm thế ở tòa nhà Grosvenor,” Alex nói. “Quỉ tha ma bắt. Chỉ năm phút nữa là tôi đã ở trong nhà của Sheila. Được rồi, tôi có thể chạy đến đó sau khi báo yên.”

“Báo cái gì?” Người lái xe hỏi vì tiếng ầm ì rõ lên và tiếng súng phòng không bắt đầu nổ ở phía xa.

“Chẳng gì cả,” Alex nói. “Đến đó đi”.

Người lái xe đỗ trước tòa nhà Grosvenor. Alex trả tiền và chạy bổ vào trong. Chỗ hành lang chật cứng, quầy bar Mỹ ở tầng dưới cũng vậy, nhưng anh đã xoay xở lách được đến quầy và moi được từ người bán một chai Scotch lớn.

Đêm nay bọn Đức đã thể hiện sức mạnh của chúng, và hình như chúng đã bỏ khu vực cảng để lộn đi lộn lại trên khu West End. Tiếng nổ của những quả bom lớn khiến cửa sổ rung lên lập cập. Có lúc khách sạn đã tưởng như bị trúng bom - thật khó mà nói được là gần đến mức nào. Những khẩu pháo cao xạ ở Hyde và Green Park khiến răng người ta va vào nhau lập cập y như cửa sổ vậy, và có thể nghe thấy tiếng rít của máy bay xpitfai nổi lên trên tiếng ầm ì đều đều của những máy bay ném bom lớn. Giống đêm trước, nửa giờ sau tiếng ầm ì tắt hẳn, và tiếng súng cao xạ cũng lặng dần khi lực lượng đáng kể của bọn phát xít quay về Hà Lan.

“Một vố ác đấy,” người đàn ông cạnh Alex nói. “Tôi không ngạc nhiên khi chúng tập trung lâu thế vào khu cảng. Đó là khi chúng quăng thẳng một trái xuống quán Café de Paris mà một gã cảm thấy khó chịu. Lũ chó chết này thật chẳng có lương tâm. Đấy là bệnh của bọn Đức.”

Khi còi báo yên vang lên Alex bước đi trong đêm, một lần nữa lại thấy London đổ nát và bị lửa bao vây. Xe cứu thương rú còi inh ỏi và các đội cứu hộ đã sẵn sàng vào việc.

Anh đi qua những đống gạch vụn về hướng Hill Street, vẫn chưa nắm chắc địa hình của London, và sau vài khối nhà, anh nghĩ mình đã lạc đường. Nhưng không, lửa sáng đủ để anh nhìn thấy tấm biển Hill Street. Anh đã nhận ra góc phố.

Đôi chân đưa anh đi thêm vài bước về hướng đêm qua, trong bóng tối, và đột nhiên tim anh thắt lại.

Không có chuông để bấm. Không có cửa để gõ. Không có ngôi nhà sau khung cửa. Không có cô gái. Sẽ chẳng bao giờ có cô gái, chẳng bao giờ có cô gái ấy.

Sáng hôm sau Alex tỉnh dậy, miệng đắng nghét toàn mùi rượu wishky. Cô ả có đôi môi bự son mà anh nhặt được ở đâu đó không thể nhớ ra nổi đã đi khỏi. Gối anh ướt đẫm, như anh đoán, nước mắt.

[6] Wren: Thành viên của đội nữ Hải quân Hoàng gia Anh.

[7] Yanki: Từ miệt thị chỉ người miền Bắc trong cuộc chiến tranh Nam Bắc.