CHƯƠNG 19
Thời tiết thật dễ chịu, kỳ hưu chiến ở Chicago đó, nhưng Alex là người đàn ông bận rộn ở New York, Amelia thì khá khó chịu, những đứa trẻ thì khó được thụ thai, mà trời thì nóng, nóng như đổ lửa, cũng như sự bức bách phải có được khá nhiều tiền thật nhanh, đây là năm mà tất cả các tổng biên tập đều có ác cảm với tất cả các bản thảo, chẳng cái nào trong số này có vẻ được hoàn thành. Vì thế Alex không gọi cho người bạn mới của anh từ chuyến đi đến Chicago, không muốn giấu mình trong những góc khuất, và không muốn phô mình ra nơi công cộng trong những quán rượu quen thuộc, nơi chẳng có gì khác ngoài một người hầu quen thô bỉ sẽ mở tròn mắt khi dọn món, chưa kể đến việc Amelia có thể sẽ tới đó với Betty hoặc Tess hay người nào đó trong đám bạn bè cánh hẩu của cô, những người dường như là phần không thể thiếu đối với bất kỳ gia đình nền nếp nào trong thời buổi này.
Barbara Bayne đã để lại lời nhắn nghuệch ngoạc trên chiếc bàn đêm khi cô rời khỏi phòng Alex ở khách sạn Chicago từ trước, để kịp chuyến bay buổi sớm: “Anh ngủ ngon đến nỗi em không nỡ đánh thức. Hãy gọi cho em bất cứ lúc nào anh trở về New York và cảm thấy cô đơn. Em sẽ có những chuyện riêng trong gia đình phù hợp. Cầu chúc cho anh những điều tốt đẹp nhất. Và đêm qua, tất cả thật đáng yêu. Hôn anh, B”. Chữ “tất cả” được gạch chân bằng son môi.
Giờ đây Alex đã lao một cách mù quáng, như con bò mộng đang động dục, ra khỏi căn nhà, với ý định bỏ đi không giấu diếm. Đi đâu? Khi anh đã bình tĩnh lại, đã ngồi vào taxi, hướng ra khỏi thành phố, một câu hỏi dằn vặt anh, đi đâu? Chú bé bỏ nhà ra đi, anh nghĩ, đầy nộ khí và sẵn sàng đi đến nơi cùng trời cuối đất - điều đó sẽ dạy cho bọn họ một bài học - nhưng lại bối rối không biết nơi cùng trời cuối đất đó nằm ở hướng nào.
Alex Barr bật ngón tay đánh tách, nhớ có một khách sạn anh đã sống những ngày đầu ở New York, một khách sạn nhỏ kiểu trưởng giả song tồi tàn ở khu Năm mươi, một nơi rất quen thuộc với những người Anh bỏ xứ ra đi. Nó gần một quán rượu cũ của thành phố, và anh ít có khả năng gặp được người quen ở đó.
“Tôi không mang theo hành lý,” anh nói khi đến chỗ lễ tân, “có lẽ sẽ được nhận vào ngày mai. Trong khi chờ đợi tôi muốn được trả tiền sau.”
Gã nhân viên nhếch mép cười giễu cợt và vuốt bộ ria mảnh vàng hoe. Đột nhiên có mùi bắp cải, có lẽ là cải Brussel trong căn tiền sảnh lố lăng.
Alex viết vào phần để rộng còn trống: “Alexander Barr, 30 Rockeffeler Plaza,” và đẩy tập giấy lại cho gã nhân viên. Gã liếc mắt đểu cáng để lộ cả hàm răng có những đường gân xanh, gã hỏi “Ngài cần loại phòng nào, thưa ngài Barr?”
“Một phòng đôi.” Anh đặt tờ hóa đơn lên bàn, “tôi sẽ ở đó một vài ngày. Khi hành lý tới có lẽ tôi sẽ đổi phòng.”
“Xin ngài hiểu cho là tôi không định làm khó dễ,” gã nói, “nhưng không có hành lý thì...”
“Tôi hiểu. Không sao, giờ hãy đưa tôi biên lai và chìa khóa phòng.”
Alex lên phòng theo chiếc thang máy ọp ẹp. Mùi bắp cải vẫn nồng nặc trong mũi anh. Căn phòng không đến nỗi quá tồi tàn, với những tấm rèm cửa bằng vải hoa sặc sỡ đã bợt màu, khăn trải giường bằng sa tanh vàng mềm mại nhưng đã mòn xơ trải trên chiếc giường đôi. Anh mở cửa phòng tắm và để ý thấy chí ít là nó cũng sạch sẽ, dù rất chật hẹp.
Anh rửa bộ mặt nhờn nhãy mồ hôi, và ước gì mình có thể thay được quần áo. Sự u sầu hành hạ anh. Anh đã nghĩ đến việc gọi đồ uống, nhưng lại thấy rằng mình không thể uống trong căn phòng xa lạ tồi tàn, bẩn thỉu, nhớp nhúa này. Anh quay xuống và quăng chiếc chìa khóa dấu hiệu của kẻ cắp lên mặt quầy.
“Phòng ổn chứ?” Gã nhân viên hỏi.
“Ổn cả,” Alex gằn giọng trả lời và đi tới Shor. Đây là lúc để uống. Shor có điều hòa không khí, và sẽ làm khô những dòng mồ hôi đang khiến áo sơmi dính chặt vào lưng anh và đang thít chặt nút chiếc ca vát trên cổ anh. Ở Shor sẽ có ai đó để anh trò chuyện. Luôn có ai đó để trò chuyện ở Shor ngay cả trong một tối thứ bảy cuối tháng Tám trong cái thành phố New York bị ruồng bỏ này.