CHƯƠNG 22
Đắm mình trong hồi ức, họ uống khá nhiều trong bữa tối, và đã dừng lại ở quán Great Man để làm thêm vài lượt brandy. Họ còn tới nhiều nơi khác nữa, như khu Bờ tây Mêhicô để nghe nhạc martachi, và Alex nhớ mình đã đòi uống tequila. Họ đến quán Thiên Thần Xanh để gặp người nào đó hay cái gì đó, và Alex nhớ họ đã ngồi ở quầy phía ngoài với một nhà báo và uống Scotch. Họ xuống Village và thấy cái gì đó mờ ảo trong vũ điệu flamenco, và uống khá nhiều whisky. Nơi dừng chân cuối cùng mà Alex nhớ được là điểm hòa nhạc trên đại lộ số Hai, nơi một người bạn cũ từ thời trước chiến tranh đã cố nài tất cả những người đang uống cùng về nhà mình, còn sau đó thì cả thế giới xoáy tròn, với một con mắt sáng ngời trong cơn quay cuồng: Alex nhớ mình đã uống say bí tỉ, bất lực, loạng choạng và lè nhè tỏ tình với Dinah ở giữa nơi công cộng và gần như thô bạo ôm lấy Dinah ở một chỗ kín đáo nào đó vào một lúc nào đó...
“Chúa ơi, chuyện hẳn đã diễn ra ở đây,” Alex Barr nói qua cặp môi cứng đờ và chiếc lưỡi sưng phồng khi anh nhìn lại căn phòng khách sạn ở Bishop, với những vết tích có thể thấy trên từng mét một. Cô ấy mang mình về nhà và mình đã cố làm tình với cô ấy. Đêm qua hẳn mình phải có một đứa con xinh đẹp. Và đứa con gái ấy sẽ nghĩ gì về mình.
Mình phải gọi cho Dinah, anh nghĩ. Nhưng không phải trong tình trạng này, không phải trong lúc bẩn thỉu bừa bãi thế này. Mình sẽ tự xoay xở lấy, và có lẽ sẽ gọi cho cô ấy vào cuối ngày hôm nay. Không, không phải hôm nay. Mình sẽ cho cô ấy ít ngày để quên đi con quái vật gớm guốc say bét nhè này. Có lẽ mình cũng phải gọi cho Amelia, nhưng mình không thể. Chỉ là không thể thôi. Mình đã gây ra sự đổ vỡ, và mình không đủ dũng khí để gọi điện vào lúc này. Thật không tốt khi gây ra sự đổ vỡ nếu ta thức dậy vào ngày hôm sau, người nồng nặc mùi ăn năn hối hận và mùi rượu.
Cái mình muốn nhất lúc này, Alex Barr nghĩ, là một ly rượu. Anh nhìn đồng hồ lần nữa. Mười hai giờ hai nhăm. Lại hai nhăm phút trước giờ phục vụ phòng làm việc, ít ra, anh nghĩ, bất cứ thằng ngốc nào cũng có thể gọi sẵn một chai từ ngày hôm qua để phòng nhỡ hôm nay cần đến. Trừ mình. Thằng ngốc Barr. Chú bé bỏ nhà ra đi và quên không mang theo ba lô. Mình không thể bắt thằng cha ở quầy lễ tân vi phạm bất kỳ quy tắc nào, và mình sẽ không hạ thấp nhân cách bằng việc gọi điện cho bất kỳ người bạn nào nữa. Không, vào một trưa chủ nhật thế này.
“Được rồi, Barr,” anh nói to. “Mi có một số điều nặng nề cần suy nghĩ. Việc đi bộ sẽ rất tốt cho suy tư. Không khí trong lành sẽ rất tốt sau cơn say. Và nhỡ đâu lại có một trận bóng chày vào ngày hôm nay. Khi gặp rắc rối, hãy đến trận đấu bóng. Ở trận đấu bóng người ta sẽ có, ít ra, là một chai bia để làm dịu cái cổ họng khô khốc. Và ở trận bóng người ta sẽ không để ý là mi đang mặc cái áo của ngày hôm qua”.
Anh đóng cửa và đi xuống sảnh, ý thức rõ về bộ râu tua tủa, về cặp mắt đỏ ngầu, về bộ quần áo nhàu nhĩ của mình, ở quầy lễ tân là một gã nhân viên khác - hắn nhìn anh như thể anh là một loài sâu bọ hiếm gặp.
“Hôm nay có trận bóng phải không?” Anh hỏi.
“Tôi nghĩ vậy,” gã nhân viên mới nói. “Nó sẽ được đăng trên báo, ở bên trái có một tờ News đấy.”
Alex đưa một đồng xu cho người thủ quỹ và lui vào một góc, sau bụi dây leo. Anh lật nhanh trang thể thao và thấy mẩu quảng cáo: “Đội Yankees đấu với đội Red Sox, cuộc đấu của hai đội hàng đầu, 2 giờ chiều.” Vậy là có một câu chuyện về vận đen của Joe Di Maggio đã kéo dài đến trận thứ mười bảy.
“Tốt rồi, ít nhất mình sẽ cạo râu và mua một cái bàn chải,” Alex thầm nhủ. “Mình sẽ cạo râu, cho dù mình phải dùng cả hai tay,” và anh bắt đầu ra khỏi khách sạn tìm một hiệu thuốc mở cửa vào ngày chủ nhật.
Việc cạo râu, làm anh trông dễ coi hơn chút ít, nhưng những con kiến vẫn bò trong bụng anh, ly nước quả và cà phê mà anh uống trong hiệu thuốc đã biến sạch ngay khi anh về đến khách sạn. Vì chẳng còn biết làm gì nữa - không còn nơi nào để đi, không có quầy bar nào để dựa vào, mẩu tin trên tờ Times ngày chủ nhật lại thôi thúc anh mặc dù anh có thể quên nó đi trong tình trạng này. Alex Barr lại bắt đầu lên đường, đi bộ qua một trăm khối nhà để đến sân vận động Yankee. Việc đi bộ, bằng cách nào đó, đã làm anh bình tĩnh lại, nhưng tâm trí anh khổ sở bởi ý nghĩ phạm tội. Amelia, anh nghĩ, làm sao mà mình lại đối xử như vậy với Amelia? Mình là tất cả những gì Amelia có. Không có mình Amelia sẽ mất hết. Barr, mi là một kẻ khốn nạn tự cao tự đại, anh nghĩ. Khi con tàu sắp căng buồm bước vào trận chiến, toàn bộ cuộc đời mi không lùi vào dĩ vãng như người ta nói trong những cuốn sách. Tất cả những gì mi có thể nghĩ là còn nhiều con chim chưa bị bắn, còn nhiều cuốn sách chưa được viết, còn nhiều miếng bít tết chưa kịp nhai, còn nhiều cô gái chưa kịp quen - và rằng Amelia sẽ khó tìm được một người khác để cùng san sẻ. Luôn luôn là “tôi”. Luôn luôn là “cho tôi”, Barr. Một gã khốn nạn ích kỷ ngu ngốc tự cao.
Khi lê bước trên lề đường ngày chủ nhật, sự cắn rứt lương tâm cộng thêm dư vị khó chịu sau cơn say. Anh nghĩ tới những ngày đói khát xưa kia khi anh làm ra được ba mươi đôla mỗi tuần và có đủ trơ tráo để cưới vợ. Anh nghĩ đến Amelia làm việc trong cửa hàng để kiếm thêm hai mươi đôla mỗi tuần mang lại cho họ một chai whisky giảm giá và đôi khi là một tối đi chơi. Anh nghĩ đến những khoản chi tiêu cứ lần lượt tăng lên đến cực điểm ở ngôi nhà nhỏ đầu tiên; anh rên lên đau đớn nhớ lại những đêm anh và Amelia ngồi trầm ngâm suy nghĩ, anh đã viết những bài báo không bán được, những cuốn tiểu thuyết không bán được, những vở kịch cũng không bán được nốt. Anh cảm thấy tự xấu hổ với chính mình khi nhớ lại lần đầu tiên một tờ báo đã mua và trả 400 đôla cho một bài viết - anh còn nhớ rõ bài viết đó, mặc dù hàng trăm bài viết đã mờ nhòa trong trí não anh. 400 đô là cái giá của hai tháng, và anh cùng Amelia đã tiêu một khoản trong số ấy cho cuộc đi chơi tối thực sự trong thành phố. Đó là kỳ nghỉ cuối tuần sau khi anh gặp Marc Mantell, người đã tặng cho anh chiếc chìa khóa thần.
Anh nhớ đến Amelia dũng cảm, mỉm cười khi anh ra trận, giữ lại những giọt nước mắt cho đến khi anh đã lên đường, khá đẹp trai, vui vẻ và rõ ràng là hồ hởi trong bộ quân phục xanh nước biển có những đường kẻ sọc trên tay áo. Anh nhớ đến kỳ nghỉ cuối tuần với Amelia tới Princetown khi anh đang giữa giai đoạn huấn luyện tân binh. Anh nhớ Amelia đi theo anh đến nơi đóng quân, khi khóa huấn luyện của Hải quân đưa anh tới những nơi không mấy thuận lợi như Biloxi, nơi họ đã sống trong một nhà chứa theo đúng nghĩa đen vì không có một nơi nào khác để một quí ông cùng vợ và con cái sống tạm. Các cô gái điếm ở đó khá tử tế, họ trông con cho các sĩ quan và thậm chí còn cho các sĩ quan vay tiền khi Hải quân chậm trả lương và con đại bàng quên gào thét. Đó là thời gian dễ chịu và buồn cười, vì Boston và New Orleans khá dễ chịu, tếu táo và buồn rầu, mọi người đều trẻ và đều liều lĩnh kinh khủng, và phấn khích một cách man rợ về chuyện đi vào chỗ chết. Alex chẳng có ý nghĩ gì về cái chết. Anh đã tự thầm nhủ anh không phải loại người đó.
Sự hối hận lại vò xé khi anh nhớ lại những lần phản bội vợ nghiêm trọng đầu tiên - ở Washington, vì thù hằn, ở London, vì bom đạn đang trút xuống, và người ta có thể không còn được nhìn thấy ngày mai. Ở San Francisco, vì đây là lần ra khơi làm nhiệm vụ lần cuối cùng của chiến tranh, và người ta biết mình sẽ sống hoặc chết nhưng sẽ không được trở về chừng nào chưa bao vây được quân Nhật ở Melbourne và Sydney, vì giờ đây ngươi đã quen với sự phản bội, và sau bốn năm lương tâm ngươi không còn day dứt lâu mỗi khi người gặp một cô gái đẹp và dẫn cô ta vào giường, ngươi tự cho phép mình tận hưởng cái tình yêu một nửa ngắn ngủi, hay ít nhất là sự trìu mến yêu dấu, dễ chiều theo ý thích.
Còn sau chiến tranh, sau chiến tranh, khi những điều huyênh hoang ngươi viết ra để xóa đi nỗi buồn chán của chiến tranh đã làm biến đổi ngươi một cách thần kỳ từ Alex Barr, đại uý Hải quân Hoa Kỳ thành Alexander Barr, nhà văn, các báo đăng đầy những bài tổng kết và phỏng vấn, các tạp chí đăng đầy những bài viết của ngươi, và bất thình lình văn phòng của Mantell tràn ngập những lời đề nghị Barr viết bài này, Barr viết bài kia, Barr làm chuyên mục Thông Tin, Barr thực hiện những chuyến đi lưu giảng, Barr lên tivi, và Amelia không nơi nương tựa trước khi hoàn cảnh biến người đàn ông dịu dàng của cô thành một dáng hình xa lạ, gớm guốc, một thứ tài sản của tất cả mọi người và chẳng của ai cả.
Sau đó, Chúa thương xót con, Alex Barr nghĩ, có Cuốn sách hay nhất trong tháng đầu tiên, bộ phim bán được đầu tiên, bức ảnh đầu tiên trên trang bìa tạp chí, khoản tiền đầu tiên, và cùng với tiền mọi vấn đề đều biến mất. Cả cha mẹ. Luôn là những bậc phụ huynh khó chịu, với những vấn đề của họ, cả người anh đáng ghét, với những vấn đề của anh ta, cả Amelia, với những vấn đề - hay, thẳng thắn mà nói, với một vấn đề của cô ấy. Đó là mình - Alex Barr, nhà văn, nhân vật, người đi săn, kẻ chơi gái, con ngựa đực mất giống.
Lúc này Alex đang lê bước qua khu Harlem, trí óc đang bận rộn với những nỗi niềm riêng, không để ý đến những lời chửi rủa bằng tiếng Tây Ban Nha phát ra từ những kẻ lang thang trên lề đường người Puerto Rico: “Nhìn thằng da trắng kia xem,“ một gã da nâu để tóc mai dài nói với người bạn đen như than. “Thằng da trắng bẩn thỉu đang đi bộ một mình ở Harlem, chắc là định tìm một ả da đen hoặc ma túy?”
Mình đã có vợ, Alex nghĩ. Mình đã cưới để giữ mình lại nơi mình ra đi. Tốt hơn là mình về nhà; mình sẽ, lạy Chúa, sẽ quay về. Mình còn nợ Amelia điều đó. Cô ấy chẳng có lỗi gì cả; không ai có thể cố gắng hơn được. Đó tất cả là lỗi của mình. Mình không biết điều quái quỷ gì đã xảy ra với mình, ngoại trừ việc mình muốn tất cả mọi thứ cùng một lúc. Đừng đổ lỗi cho chiến tranh, ngài sĩ quan, anh nghĩ. Chiến tranh không đem lại gì ngoài một kỳ nghỉ dài và thật nhiều thời gian để suy nghĩ. Chúa phù hộ cho chiến tranh. Hãy chỉ tự trách chính người thôi, ngài sĩ quan ạ. Hãy viết điều đó vào báo cáo thích hợp của ngươi.
Đột nhiên Alex cảm thấy dễ chịu hơn. Anh sẽ làm một người đáng kính; anh sẽ quay về với Amelia. Anh có thể cảm thấy dư vị khó chịu biến mất dần, tự nhiên anh không còn thèm uống nữa, mặc dù anh có thể trông thấy nhiều quán rượu đang mở cửa dọc đại lộ Lennox. Anh thấy mình thanh thản. Sự đáng kính là điều rất hệ trọng. Đáng kính. Anh sẽ đi xem trận bóng chày và sau đó về nhà với Amelia. Anh vẫy taxi. Anh đã đi bộ đủ rồi.
Alex Barr mua một chỗ ngồi sau hàng thứ ba, khu trước. Frankie Crosetti, gầy gò và dẻo dai như lúc nào cũng thế, quay lại mỉm cười từ khu huấn luyện viên. Crosetti là một phần quá khứ của Alex, cái quá khứ bắt đầu ở những tờ báo vào khoảng thời gian Tony Lazzeri bị đánh gục trong một trận đấu ngắn. Đó là Rizzuto đấu với Phil mập lùn, người đang nổi vào mùa đó, đã lâu lắm rồi, từ thành phố Kansas với Gerry Priddy; cái năm mà Ted Williams rạng rỡ tươi cười với cả Boston; cái năm mà Di Maggio đã làm mình trở thành bất tử. Crosetti đã kết thúc sự nghiệp như một cầu thủ; DiMag, Phil và Williams cũng sắp tới lúc ra đi, đầy huy hoàng. Ngoại trừ Di Maggio, người đã gặp vận rủi liền mười bảy trận.
Ánh mặt trời ấm áp và dịu dàng. Sân vận động chỉ có chứa khoảng một phần tư chỗ ngồi, trời tháng Tám đã khiến người dân thành phố ngày chủ nhật kéo nhau ra bãi biển hoặc lên núi. Alex vẫy người bán hàng rong và mua một chai bia. Nó cũng ấm, nhưng đọng lại một cách dễ chịu trong dạ dày anh, tiếp theo là người bán bánh mì kẹp thịt đi qua, Alex gọi hai chiếc. Lá cờ chỉ khẽ phất phơ trong làn gió nhẹ. Khoảng đất gần khung thành bị nung cứng đanh, còn cỏ thì ngả màu vàng dưới ánh mặt trời mùa hè.
Di Maggio là người ném bóng, và khi anh bước ra sân với Rizzuto, lần đầu tiên, đám đông chào đón anh bằng tiếng la ó vang dội. Tiếng la ó càng tăng khi anh đợi hai người đánh bóng, và, đứng giạng chân, bình tĩnh sẵn sàng đợi tiếng đếm một hai. Alex có thể thấy tay ném bóng người Boston chửi thề ở lần gọi cuối cùng. Các trọng tài cũng đang làm theo; Di Mag, do có thâm niên đáng kính trọng, đã làm được chút ít trong cú ném tốt nhất vòng ra ngoài bên dưới trúng vào góc hẹp của khung thành trước khi bay ra ngoài.
Một cầu thủ đội Boston bị đau. Anh ta không có cử động gì để giữ Rizzuto, và Phil bé nhỏ nhảy ra xa, một nửa quãng đường tới vạch thứ hai. Cầu thủ Boston quay lại và xô một người vào giữa. Di Maggio nhún nhảy theo cái điệu có một không hai của anh, và trong tiếng kêu của người anh trai là Dominic, ở khu giữa với Red Sox, anh quay lưng lại và chạy. Trái bóng vẽ một đường vòng vào sâu khu giữa bên trái, với Dom Di Maggio lao theo nó như chó săn lao theo con thỏ. Anh chộp được nó ngay sát mặt cỏ và ném nó lên với một sức mạnh không thể tin là có được ở một người bị coi là nhỏ bé. Ted William, đứng như trời trồng ở phía bên trái, nhìn cú đánh như thể anh là khán giả vậy.
Cú ném vào của Dominic bay tiếp tới hàng thứ ba, và người em của anh ngã xoài ra dưới sức ném. Rizzuto, đang ở xa và chạy trong âm thanh của cú đánh, đã quay trở lại chiến hào khi Joe Di Maggio ngã nhào xuống mặt đất đầy bụi. Cánh tay của trọng tài giơ lên. Di Maggio đứng dậy và phủi bụi dính vào quần áo. Anh nhìn người anh của mình ở giữa sân một lúc lâu, giơ ngón tay cái lên ra hiệu “Tốt lắm“, theo tiếng hàng không, hoặc chỉ đơn giản là “Tới lượt anh đấy” theo tiếng Ý. Crosetii, cũng là dân gốc Nam Âu ở San Fransisco, ra khỏi chỗ và nói gì đó khiến Di Maggio cười phá lên. Thế rồi Di Maggio quay sang phía chỗ Alex Barr đang ngồi và nháy mắt; một cái nháy mắt chậm, dài và cố ý.
Alex Barr nháy mắt lại, và nâng chai bia lên mừng Di Maggio. Tự nhiên anh cảm thấy khoan khoái hơn nhiều. Một ngày tồi tệ đã trôi qua; cái lương tâm bị cắn rứt đã đi mất. Một ngày chủ nhật đầy ánh nắng ở New York. Di Maggio đã qua được thời kỳ khủng hoảng của mình. Đội Yankees đang dẫn 1-0.
“Quỷ bắt cô ta đi,” Alex Barr nói to. “Cô ta thoải mái khi không có mình hơn rất nhiều so với mình khi không có cô ta. Quỷ bắt cô ta đi. Mình sẽ không bao giờ về nhà nữa.”