← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 21

Hằng ngày vẫn thấy trên mặt báo những tên tuổi phụ nữ, nhưng phần lớn họ phụ trách những chuyên mục ở các trang trong xã hội, câu lạc bộ, nội trợ, âm nhạc, kịch, thi thoảng mới có một bài đặc biệt vượt ngoài khuôn khổ bình thường muốn qua con mắt phụ nữ để làm độc giả xúc động. Nói chung người ta không thấy tên phụ nữ ở những mục trên trang nhất, truy bắt tội phạm, tòa án, chính quyền quận, trừ khi có cái gì đó thật cần đến quan điểm của họ.

Chàng thanh niên Alex Barr được tự do hoạt động, trong những ngày sôi nổi trước chiến tranh đó, trước khi truyền hình thọc được cái mũi tọc mạch của nó vào việc lấy tin. John Bary, tổng biên tập, đã thử thách chàng thanh niên Barr ở mọi mặt - một thời gian với mục thể thao, một thời gian ở mục bản thảo, rồi đến mục kịch nghệ, rồi một giai đoạn làm ở chuyên mục an ninh, và lúc này anh đã có chỗ đứng vững chắc ở mục chính quyền quận (nằm trong Washington chưa được giải phóng và chưa có quyền bầu cử bao gồm tòa thị chính thành phố). Tiếp theo sẽ là tòa án quận, rồi đến Đồi Capitol và cuối cùng sẽ là vị trí quản lý chung cao cấp.

Alex bước vào một cửa hàng ngay sát trụ sở quận. Tờ The Star chịu ảnh hưởng vững chắc của một cựu chiến binh già; vì vậy mà có The Times, The Post và The Herald. Đó là ngày trong nghề làm báo khi một kẻ lang thang đã dừng bước và dàn xếp được các mốỉ liên hệ, bị giữ vĩnh viễn ở một công việc - có lẽ, ngoại trừ The News, tờ báo lớn thứ năm, không đủ nhân viên, và có khuynh hướng luân chuyển nhân viên một hoặc hai lần mỗi năm.

Alex, bảnh bao trong chiếc fedora đã sờn và chiếc áo khoác thể thao kẻ ô, bước vào phòng in và tự giới thiệu mình. Sự có mặt của anh gây ra rất ít sự chú ý. Các nhân viên ngẩng lên từ bàn chơi cá ngựa và làu bàu. Trông họ giống như những gã lang thang, ăn mặc xoàng xĩnh, vung vãi tàn thuốc lá, đồ đệ của lưu linh, những người này thường gọi điện báo các ghi chép của họ cho tòa soạn và để lại bản thảo ở chỗ đánh máy. Đôi khi họ lẩm bẩm chê bai một kẻ đi chơi qua đêm hoặc một mẩu tin đặt trước cho trang xã luận, nhưng máy chữ là vật bị ghét cay ghét đắng. Harry Barrett, hói và gầy, nhân viên tờ The Times, sẽ rót một cốc từ cái chai trong bàn anh ta và nói với Mike O'Creary, của tờ The Times: “Này, anh đến mà xem cái mà lão Blatherguts (một uỷ viên hội đồng quận) có cái gì trong đầu sáng nay. Hãy bảo lão già ba hoa đừng có giữ ý nghĩ đó, cho dù nó là gì đi nữa.” Và ván bài poker bất tận sẽ lại tiếp tục, cho đến khi O’Creary râu ria bẩn thỉu quay về với vài mẩu ghi chép nguyệch ngoạc và tin tức về hành động nào đó của Quốc hội trong việc mở rộng đường cao tốc mới hoặc dự thảo luật nước hoặc bất kỳ cái gì đang chiếm lĩnh đầu óc ông thị trưởng danh dự của cái đô thị có Quốc hội cho hội đồng thành phố của nó.

Họ nhìn về phía Alex với vẻ thất vọng và sự thù địch, vì thứ nhất là anh còn trẻ, thứ hai là từ mục Tin tức được tán dương nhiệt liệt; và thứ ba là khuynh hướng hăm hở, nghĩa là công việc sẽ nhiều hơn đối với tất cả mọi người. Vì thế ngay lập tức họ thiết lập sự trừng phạt đối với kẻ xâm nhập. Những mẩu tin nóng hằng ngày bị chặn lại. Những bài viết nhỏ dành riêng cho chuyên mục được chia sẻ giữa các nhân viên cũ. Không ngày nào là tòa soạn không điện cho Alex và hét, “Anh đang ở chỗ quái quỷ nào vậy?” Khi những bản in đầu tiên của các báo buổi chiều được phát hành. Alex mòn vẹt gót chân sục sạo khắp các cơ quan quận để săn tin, nhưng các quan chức của thành phố có rất ít câu trả lời, vì Alex có rất ít câu để hỏi trong cái dáng một kẻ lang thang xa lạ, và khi có một câu chuyện nào đó đáng chú ý, thì tờ Times và Star buổi chiều lại cuỗm mất nó trước mũi Alex, rồi tờ Post và Herald sẽ xác nhận câu chuyện vào buổi sáng hôm sau. Alex có cảm giác mình bị bọn cá ăn thịt cắn xé thành từng mảnh. Có lẽ John Barry hiểu điều đó, nhưng Tim Freeland, tổng biên tập, thì không. Tờ The News sắp bị tiêu diệt, và tòa soạn đang xây địa ngục.

Tổng biên tập báo The Post, Peter Shotton, là người tử tế, vì ông không nằm trong số các tờ báo cạnh tranh, và ngày này qua ngày khác sẵn lòng Alex giúp một tay chống lại phe báo buổi chiều đối lập. Nhưng có một qui tắc nghiêm ngặt là những tin vắn sẽ được luân chuyển, trở đi trở lại, giữa những lần phát hành buổi sáng và buổi chiều, vì thế điều tốt nhất mà Alex có thể đạt được là xào xáo lại những câu chuyện buổi sáng của tờ Post và tờ Herald cho bản in đầu tiên của trang buổi chiều của anh, sau đó câu chuyện sẽ bị quên lãng khi những tờ báo buổi chiều cạnh tranh đăng nó với những thông tin hoàn toàn mới.

Một hôm Shotton, người mà rượu whisky và nỗi buồn chán đã in lên những dấu ấn không thể phai mờ, ngã gục xuống chết trong phòng in vì một cơn đau tim. Đầu ông từ từ gục xuống, sau đó ông đổ vật ra, chai rượu whisky bằng lúa mạch đen trong tay văng xuống sàn. Lúc đó Alex là người duy nhất có mặt trong phòng, vì thế anh gọi cho tòa soạn tờ The Post và bảo cho họ gửi tới một chiếc xe đẩy và một người mới.

Alex chưa được chuẩn bị tinh thần cho việc thay người, anh đã dần trở nên quen với ông già vàng vọt trong bộ quần áo bẩn thỉu; một ông già nhếch nhác với những đường gân xanh nổi hằn trên má và mũi cùng những ngón tay vàng khè chất nicotin.

“Tôi là người mới đến từ chỗ tờ The Post,” một giọng nói cất lên, và Alex ngửng đầu nhìn, vì giọng của người mới đến không giống với giọng một chàng trai. Người mới đến khoảng chừng hai mươi hăm mốt tuổi, với cặp mắt xanh như có khói và mái tóc đen lượn sóng. Chiếc áo nịt len ôm khít lấy những đường cong không phải của trẻ con, và chiếc váy bằng vải tuýt để lộ cặp hông không phải của trẻ con.

“Tôi là Dinah Frankel,” người đó nói. “Tôi đến để thay cho ông Pete Shotton. Ông ấy khá hơn rồi chứ?”

“Có vẻ như vậy,” Alex nói và bật ngón tay đánh tách. “Với những chiếc ủng”.

“Thật đáng tiếc,” Dinah Frankel nói. “Nhưng theo cách nào đó thì người ta đã giao cho tôi một công việc để làm. Tôi đã viết đủ những tin tức từ câu lạc bộ và những chuyện ngồi lê đôi mách của đàn bà. Lúc này chúng ta rất thiếu người - một trong những biến động khác - và ai đó, Chúa phù hộ anh ta, đã nhớ ra rằng tôi đã từng là một nhà báo ở Ohio trước khi trở thành nữ nhà báo ở Washington, D.C. Anh có thể chỉ giúp lãnh thổ của tôi được không, hoặc tôi phải chiếm nó từ những người cũ? Mà này, tên anh là gì?”

“Alex. Alex Barr. Và tốt hơn là cô nên bảo một trong những người cũ ở đây chỉ cho lãnh thổ của cô. Tôi chỉ vừa mới thành công trong việc xác định vị trí phòng của nam giới. Khu vực này gần như là một cửa hàng thực sự. Những người cũ không muốn làm hỏng nó bởi bất kỳ công việc gì không xứng đáng.”

“Ừm.” Dinah Frankel nhìn Alex với vẻ dò xét. “Tôi biết những gì phải làm. Chúng ta có quy định công việc khá chặt chẽ ở Columbus. Tôi đã mất trọn một năm và nhiều cuộc đua để thuyết phục đám đàn ông rằng mình không hoàn toàn là một cô gái, mà là một phóng viên. Hãy xem xem chúng ta có thể làm gì để đánh đổ cái quan niệm độc quyền nghề báo này.”

Các nhân viên lần lượt đi vào, và họ há hốc miệng khi thấy người thay thế Shotton quá cố. Đã có một đứa bé hỗn xược từ một tờ báo trẻ ranh dám đương đầu với vương quốc của họ, nhưng giờ đây, thánh thần ơi, một phụ nữ trong phòng in ấn? Không còn tiếng chửi thề, không còn tàn thuốc trên sàn, và rất hay có hoa trong tòa soạn báo The Post. Song công việc thì tiến triển thế nào? Có tiếng làu bàu phản đối lan đến nhiều tòa soạn báo khác của thành phố, và mặc dù những kiến nghị chính thức gửi tới các tổng biên tập, những người đàn bà đó vẫn yên ổn trên trang của phụ nữ, nhưng trong tay một kẻ... lạy Chúa.

Dinah Prankel, về mặt gợi tình mà nói, may mắn hơn Alex. Cô lắc chiếc hông thanh nhã qua những người thư ký đang bực dọc, mặc những chiếc áo nịt bó sát hơn và rót những lời dịu ngọt vào tai những gã được Quốc hội gửi đến để điều hành công việc của quận, nhưng cô vẫn liên tục bị đánh bại bởi những địch thủ của cô, những quí ông của tờ báo buổi sáng Herald, những kẻ có vẻ ghét đàn bà hơn bất kỳ ai khác trong giới báo chí.

Như những kẻ lép vế, Dinah và Alex tụ lại với nhau, song rất hiếm khi giành được thắng lợi, tới mức thỉnh thoảng họ có thể nghe thấy tiếng hầm hè, “Cô cậu đang ở chỗ quái quỷ nào vậy?” phía đầu máy bên kia.

“Nhưng chưa đủ,” Dinah Frankel nói. “Chúng ta vẫn bị đánh bại hoàn toàn. Dù sao đi nữa, đây cũng là một chỗ vui vẻ và một trong hai chúng ta sẽ ở đây rất lâu. Nhưng em muốn đá vào đít những kẻ thủ cựu này trước khi ra đi.”

“Anh hoàn toàn đồng ý,” Alex nói. “Em có muốn uống một ly bia nữa trước khi chúng ta ăn không?” Họ đã tạo ra thói quen bất di bất dịch là ăn trưa cùng nhau ở Ceres trên đại lộ Pensylvania, và khi hết một ngày làm việc họ lại đi bộ qua một khối nhà đến quán Cà phê của Mọi Dân tộc trên phố Mười lăm để uống một hoặc hai ly cocktail trước khi Alex đi đón Amelia còn Dinah đi tới bất cứ chỗ nào mà một cô gái làm báo có thể tới ở Washington. Alex ngờ rằng cô đã có người yêu - họ hiếm khi nhắc đến vợ của Alex hoặc bạn trai của Dinah. Khi thời gian trôi đi, họ gần như đã hình thành mối quan hệ vợ chồng - Alex thấy dễ chịu, nhưng không phấn khích được qua một ngày làm việc với một cô gái trẻ và rất thông minh, và Dinah không thất vọng chút nào về việc chàng thanh niên Barr đẹp trai mới cưới vợ không cố tạo ra một mối quan hệ luyến ái vụng trộm đầy quyến rũ.

Một hôm, sau hai lượt rót trên phố Mười lăm, Alex rút trong túi ra một tờ báo. “Đọc đi này,” anh bảo cô. “Đó là bài viết của H.L. Mencken. Ông ấy cũng gặp những khó khăn y như chúng ta khi ông ấy còn là một phóng viên trẻ ở Baltimore.”

Dinah nhanh chóng lướt qua bài báo, và mắt cô sáng lên. “Đó là câu trả lời. Đó là câu trả lời rất tuyệt,” cô nói. “Chúng ta sẽ tiêu diệt họ.”

Học theo kinh nghiệm từ quyển sách của Mencken, Alex và Dinah bắt đầu bịa ra những câu chuyện. Đây không thể là việc của một người; nó cần sự chứng thực của một tờ báo khác để khỏi bị các đối thủ lật tẩy. Alex sẽ viết câu chuyện về dịch chó dại đang bùng nổ ở đông nam Washington trong số báo buổi chiều, và Dinah sẽ xác nhận nó trên số báo buổi sáng ở trang của cô. Họ sẽ tìm đến những người lãnh đạo thành phố để hỏi xem Hội đồng Y tế Công cộng đang làm gì để đối phó với bệnh dịch, trong khi địch thủ của họ còn đang lúng túng, cố đi tìm những trường hợp bị chó cắn thật sự. Dinah sẽ bịa ra một xì căng đan về cung cấp nhà ở công cộng trên trang của cô, và Alex lại xác nhận nó trong số báo tiếp theo, và họ lại sẽ tìm đến các ủy viên hội đồng đang lo lắng trong khi đối thủ của họ tiếp tục nháo nhác. Nếu Alex dựng lên nỗi hoang mang trước bệnh đậu mùa, thì Dinah sẽ xác nhận nó. Nếu Dinah bịa ra kế hoạch san bằng một khối nhà để làm đường, thì Alex lại xác nhận câu chuyện. Đến cuối tháng thì ba tờ báo kia đành nài nỉ họ giúp một tay. Đại diện tòa soạn, một người của tờ Star, chỉ nói đơn giản:

“Chúng tôi đã bị đánh bại. Chúng tôi biết trò các cậu đang làm, và chúng tôi đã cố giải thích cho tòa soạn. Họ không nghe. Tòa soạn chỉ nói chúng tôi là lũ ngốc ngồi ì một chỗ trong khi các cậu đang đào bới tìm tin. Chúng tôi bỏ cuộc. Chúng tôi muốn ký một hiệp ước hòa bình. Từ giờ trở đi, chúng ta cùng trao đổi các tin tức thu được, không ai hớt mất của ai, và các cậu có thể bỏ cái trò viết những chuyện tưởng tượng đi. Được chứ?”

“Được thôi,” Dinah và Alex nói và bắt tay.

“Nhưng hãy cho tôi biết,” phóng viên tờ The Star hỏi vẻ thèm muốn, “vụ dịch chó dại ở vùng Đông Nam là thật đấy à?”

“Tất nhiên,“ Dinah nói. ”Ông không nghĩ là chúng tôi bịa ra chuyện ấy đấy chứ, phải không?”

Rất nhanh sau đó, với những tin tức được chia xẻ và xử lý công bằng trên một nền tảng không thay đổi, Alex được gọi về nhận chức vụ cao hơn và Dinah theo anh như một phóng viên ngôi sao trong trang của cô. Họ đã theo dõi lấy tin về đủ mọi chuyện từ giết người, xử án, nạn lụt, cưỡng hiếp đến quốc hội, và luôn sát cánh bên nhau những lúc khó khăn. Dinah làm việc ở lề phố bên này, Alex ở lề bên kia. Và khi gặp nhau sau một ngày làm việc mệt nhoài trong buổi xử án vụ giết người ở Hagertown hay loạt phóng sự ở New York, họ lại chia sẻ cho nhau các nguồn tin. Điều ngạc nhiên là chuyện cứ diễn ra như vậy cho mãi đến cuộc bầu cử năm 1948 ở Philadelphia họ mới ngủ với nhau, lúc đó Dinah đã lấy một người nào đó có tên Lawrence và đã có một đứa con, còn Alex thì đã tham gia chiến tranh, viết được ba cuốn sách, hai vở kịch, vô số bài báo, và đang dần dần mất chỗ đứng trong trái tim của vợ anh.

“Và điều đó hoàn toàn là tình cờ,” lúc này Dinah nói khi họ đang ăn. “Em chỉ mong là nó xảy ra sớm hơn, và có chủ định.”

“Anh cũng vậy,” Alex nói. “Này, em có nhớ vụ giết người mà chúng ta đã tìm ra khi ta không hài lòng với cảnh sát quận?”

“Chẳng lẽ em lại không nhớ,” Dinah nói, miệng cô đầy thịt nướng, cô phá lên cười và suýt bị nghẹn. “Chẳng lẽ em lại không nhớ rõ. Em đã nghĩ là cả hai chúng mình sẽ bị bắt.”

Ngay trước chiến tranh có một vụ giết người đặc biệt gây phẫn nộ xảy ra ở Washington, trong đó một phụ nữ bình thường đã bị chém đến chết, và những mảnh thi thể bị cắt rời của cô ta được tìm thấy bốc mùi trong một cái cống ngầm cạnh trường đua Bowie. Cảnh sát mò mẫm và lúng túng, các báo viết những bài xã luận chỉ trích sự bất lực của cảnh sát, vì vụ giết người rõ ràng đã xảy ra ở Washington và thi thể được vận chuyển trong cốp xe tới Maryland.

“Giống như một cuộc chiến,” Alex Barr đã nói với Dinah sau bữa tiệc mừng của họ. “Có vẻ anh phải làm ít nhất một việc gì đó cho đám cảnh sát của chúng ta trước khi chủ nghĩa yêu nước tóm được anh. Họ nói họ không có đầu mối; hãy cung cấp cho họ một vài đầu mối.”

“Anh đang nghĩ gì trong đầu vậy?”

“Anh thích em không biết các chi tiết hơn,” Alex nói. “Tuy nhiên, báo của em sẽ tìm thấy đầu mối đầu tiên, anh sẽ chứng minh nó trên tờ buổi chiều. Rồi em sẽ để cho anh tìm ra đầu mối thứ hai, và đến lượt em lại đề cao nó trên tờ của em. Sau ba ngày, các phóng viên trang xã luận sẽ lấy sạch nó trong tay chúng ta.”

Alex kiếm vài ba thứ - một con dê lông đen nhỏ ở Virginia, vài chiếc bao tải, chiếc rìu lưỡi han rỉ từ đống đồ đồng nát, con dao lưỡi răng cưa của hàng thịt kiểu cũ, con dao găm nhỏ và chiếc xẻng. Anh đọc lại cuốn Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn - phần một, trong đó Huck giả vờ một vụ giết người để trốn khỏi Pap - và tiến hành công việc.

Anh đâm chết con dê bằng dao găm, cắt họng nó, và sau đó vất vả lôi cái xác máu me bê bết của nó qua những bụi rậm gần nơi tìm thấy những mảnh thi thể của nạn nhân. Anh bôi máu và lông con dê đen lên lưỡi rìu và chôn giấu nó. Anh kéo lê một đoạn nữa, và chôn con dao hàng thịt. Sau đó anh lấy con dê ra khỏi chiếc bao tải, chiếc bao bị cháy một nửa thấm đầy máu, và rải những mảnh xác dê không còn xác định được hình dạng ở vùng ngoại ô.

Sau đó anh viết một bài xã luận ngắn nhưng mạnh mẽ rằng nếu lực lượng cảnh sát phối hợp của Quận và Maryland không thể tìm ra vụ giết người, thì nhiệm vụ của báo chí là phải tiếp tục công việc đang bỏ dở. (Một sự ám chỉ nhỏ nhưng gay gắt về Timberline, chuyện của Bonfils và Tammen, do Gene Fowler viết, có mặt đúng lúc ở đấy).

Nếu tổng biên tập John Barry biết điều gì sắp xảy ra, thì ông đã bỏ qua nó, nhưng Dinah, bằng việc kích động tờ báo của cô, đã có được sự cộng tác của phó tổng biên tập, và hai thám tử nghiệp dư bắt tay vào việc điều tra vụ giết người. Dinah theo dấu máu của con dê bị giết nhét trong bao tải để tìm ra manh mối đầu tiên, và cho chạy dòng tít lớn trên trang nhất. Cảnh sát nhập cuộc như một bầy chó săn được huấn luyện tốt, và hết kẻ tình nghi này đến kẻ tình nghi khác bị lôi đến nhà chức trách. Hôm sau, Alex đào chiếc rìu vấy máu có dính lông dê lên, và cuộc săn tìm càng gấp rút, với nhiều tờ báo khác cùng đăng trên trang nhất.

Đó là một câu chuyện hay xứng đáng với Charles MacAthur hoặc Ben Hecht trong những ngày nóng bỏng ở Chicago. Mọi người đều hoạt động. Những tờ báo địch thủ bắt đầu việc tìm kiếm các manh mối của chính họ; cảnh sát Quận chua chát đổ lỗi cho cảnh sát Maryland, và cả hai phe lập pháp và hành pháp đều giận dữ giới báo chí. Những bài xã luận kêu như chuông được viết ra, đòi các quan chức ngành cảnh sát phải từ chức, và ở Washington người ta đe dọa một cuộc điều trần trước quốc hội của Hội đồng Quận.

Alex và Dinah, sau khi câu chuyện ra khỏi tầm tay họ, hiếm khi chạy theo lấy tin, cho đến một ngày những hoạt động điên cuồng của đám cảnh sát ngốc nghếch tìm ra được một gã người Philippin nhỏ bé tiều tụy, hắn đã thú nhận, trong cơn thèm heroin, rằng hắn đã cắt từng mảnh cô người yêu của hắn, đưa cảnh sát đến chỗ giấu hung khí thật sự, và đến chỗ chôn phần thi thể còn lại của nạn nhân nhét đầy trong lòng một cái cống nước. Alex và Dinah trang trọng nâng cốc chúc mừng nhau, đúng như hai công dân kiểu mẫu đã làm được một việc thiện cho xã hội.

Đó được xem là một trò chơi khăm của thời tuổi trẻ, như một lần ở bờ biển Maryland khi Dinah phô phang cặp môi hồng và đôi mắt tô, kéo trễ cổ áo và để lộ chân hơn mức cần thiết nhằm bẫy một nhà chính trị thích sờ thịt cũng như sờ tiền. Alex chịu trách nhiệm nửa còn lại của trò săn chồn cổ xưa, nấp sau tấm màn che cabin, trong khi Dinah chuốc rượu cho nhà chính trị và cám dỗ ông ta. Nhà chính trị líu cả lưỡi gần như cùng lúc Dinah giả bộ đứng không vững, và Alex đã chụp được bức ảnh cho thấy nhà chính trị với phần lớn người Dinah trừ khuôn mặt. Một thời gian ngắn sau đó có một cuộc thanh lọc đặc biệt giới chính trị ở hạt Montgomery.

Sau đó Dinah chuyển đến New York, còn Alex ra trận. Anh đã nghe phong phanh cô lấy một người nào đó có tên Lawrence, và sau đó, là cô có một đứa con. Anh không gặp cô cho mãi đến Hội nghị năm 1948 ở Philadelphia, họ đã cảm thấy thật hạnh phúc trong thói quen xưa cũ, được chia sẻ cùng nhau một câu chuyện - và, trong một thời gian rất dài - một chiếc giường.