← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 27

Chiếc thùng rác lăn tròn, kêu lách cách, và rùng mình để dừng lại ở phố Macdougal. Đây là cái đầu tiên trong dãy thùng rác nhận được gót chân tự do của Alex Barr từ khi anh và Barbara ra khỏi Condon's, với trumpet của Wild Bill Davison và piano của Joe Sulivan đã đun sôi máu trong huyết quản họ. Hình như rất ngộ nghĩnh, cái trò đá vỏ lon này. Vào giờ này, hai giờ sáng, anh nghĩ mình đã bỏ phí phần lớn cuộc đời khi không đá vỏ lon ở Greenwich Village, với một cô gái tóc vàng xinh đẹp vung vẩy đôi tay, kiểu trẻ con, khi họ nắm tay nhau chạy qua những con phố, Nhưng giờ lại có viên cảnh sát này: Anh ta đột ngột hiện ra từ bóng tối và đang đứng dưới ngọn đèn đường.

Alex Barr nhìn viên cảnh sát. Gã ta nhìn lại. Gã có khuôn mặt của một võ sĩ, chiếc mũi dài nhiều lần bị bẹp trở nên khác với kích thước ban đầu của nó; một vết sẹo chạy ngang qua lông mày, mái tóc đỏ nâu lộ dưới món tóc mai dài dưới vành mũ, cặp mắt xanh sáng nheo lại trong cái liếc của một võ sĩ. Đây có thể là một khuôn mặt kiểu Ailen, nhưng không có cái vẻ thớ lợ khiến người ta lập tức nghĩ ngay đến những thầy dòng bị đuổi, những tay đua ngựa có cặp mắt gian giảo và thịt thăn bò tái. Nhiều khả năng đó là khuôn mặt Do Thái, được tái tạo lại bồi những quả đấm từ sự nhạy cảm ban đầu - khuôn mặt Do Thái tóc đỏ mắt xanh đã đánh nhau với những băng Ailen ở khu Đông khi còn là trẻ con, và sau đó bảo vệ quyền tự khẳng định đó bằng cách chiến thắng giải vô địch hạng trung Đôi găng vàng trước khi được chọn vào ngành cảnh sát, Đây là khuôn mặt sẽ không bao giờ làm chức đội phó, được thăng cấp để theo dõi và về hưu, hơn là giàu có chút ít, ở một ngôi nhà bán tách rời ở Queens. Mái tóc, không nghi ngờ gì nữa, sẽ bạc trắng, nhưng khuôn mặt thì không bao giờ đỏ tía.

Viên cảnh sát nhìn Alex Barr, rồi nhìn người phụ nữ đi cùng anh. Họ không có vẻ, gã nghĩ, thuộc loại người có thể đi đá những vỏ lon trên con phố bẩn thỉu ở Greenwich Village vào lúc hai giờ sáng ngày thứ ba. Cả hai đều say, điều này thì rõ ràng, nhưng người đàn ông trông giống như nhân vật James Thurber

Viên cảnh sát là độc giả trung thành của tờ The New Yorker - và dám chắc là đã từng nhìn thấy người đàn bà ở đâu đó. Cô ta hẳn phải là một diễn viên - mà tất nhiên cô ta là diễn viên rồi, tên cô ta là Barbara Bayne, gã đã từng thấy hàng triệu tấm ảnh của cô hồi chiến tranh khi anh bị lôi đi nhận nhiệm vụ ở Thái Bình Dương. Không thể tưởng tượng được rằng Barbara Bayne lại có thể lang thang trên phố, đá vào vỏ lon với một bạn nhậu uyên bác, nhưng từ khi gia nhập lực lượng này sau chiến tranh, viên cảnh sát đã thấy nhiều điều rất kỳ dị.

“Vậy ông bà nghĩ mình đang làm gì vậy?” Gã hỏi và đứng chắn lối; đây là một đêm yên tĩnh và gã đang đi bộ để giết thời gian. Dù sao gã đã hết ca trực dài hai tiếng, và cuối cùng cũng đã được về nhà để tự ru ngủ bằng một cuốn sách luật.

“Ông bà đá vỏ lon làm gì vậy?” Patrolman Nathan Shapiro hỏi lại, lưu ý rằng khuôn mặt dài, quí phái hơn là mặt ngựa của Alex Barr không có cái vẻ hoảng sợ của một kẻ ném đá vào cửa sổ khi bị bắt quả tang.

“Tôi nghĩ ngài đã thấy khá rõ điều tôi đang làm rồi đấy. Bà đây và tôi đang đá vào thùng rác. Đường xuống địa ngục được lát bằng những thùng rác chưa bị đá, và chúng tôi đang sửa chữa sơ suất đó. Anh có thể bắt giữ quí bà đây, nếu anh thích. Cô ấy không có địa chỉ cố định, và rõ ràng là không có cách chống đỡ, bên cạnh đó, như người ta thường nói ở Bible, những người phụ nữ kích động tôi.”

“Đó là sự xuyên tạc thối tha bẩn thỉu, thưa ngài sĩ quan. Trong đời tôi chưa bao giờ kích động một người đàn ông nào. Chúng tôi đã dành nhiều năm và nhiều tiền cho nghệ thuật đá thùng rác,” cô gái tóc vàng có lúm đồng tiền trông giống Barbara Bayne nói. “Không ai đủ tài để đá vào thùng rác với chủ ý thật sự, chứ chưa nói đến niềm phấn hứng.”

“Anh nghe bà đây nói rồi đấy,” Alex Barr nói. “Chúng tôi đã làm công việc có chủ ý và phấn hứng này nhiều năm nay rồi. Đôi khi ngay cả sôcôla cũng phấn hứng.”

“Ôi trời, ông anh ơi,” viên cảnh sát nói. “Ông bà đã uống gì thế, nước gây cười à?”

“Chỉ rượu thôi, ngài sĩ quan ạ, duy nhất là rượu. Có người nào đó đã nói rằng nếu bạn bắt đầu với Aquavit, pha trộn tuỳ tiện với trứng cá, thì hỗn hợp champagne, brady, whisky Scoth và Edith Piaf sau đó thật sự không có hại. Nó chỉ tạo ra sự thảnh thơi vô tư lự, chưa nói đến thái độ khỉnh bỉ coi tính bất biến của thùng rác là cấu trúc xã hội.”

Viên cảnh sát đẩy chiếc lưỡi trai ra sau gáy và gãi đầu.

“Khi đi tuần ở khu này tôi vẫn thường thấy nhiều cảnh kỳ lạ, và nghe được nhiều điều kỳ lạ,” gã ta nói. “Có lẽ tôi nên viết một cuốn sách.”

“Xin đừng,” Alex Barr nói. “Đó là một kiểu tra tấn tinh vi. Anh đang trực tiếp nói chuyện một kẻ như thế đấy.”

“Giờ thì tôi nhận ra rồi,” viên cảnh sát nói. “Ông là Alexander Barr, nhà văn. Vì thế có khả năng bà này là Barbara Bayne, diễn viên. Tôi có lầm không nhỉ?”

Alex trang trọng cúi chào, còn Barbara nhón gót kiểu cách. Một con mèo đói ăn rón rén đi dưới ánh đèn đường, tìm bới bữa sáng trong đống rác.

“Đúng là chúng tôi, nếu đó là câu trả lời,” Alex Barr nói. “Và anh không thể xếp chúng tôi vào lũ những kẻ đi ném vỡ đèn đường, hay thậm chí mới lo cho xã hội ở vỉa hè thành phố.”

“Lời sau cùng thật sự là lời nói dối thối tha bẩn thỉu!” Cô gái kêu lên. “Một nữ hoàng thật sự của ngai bạc - ý tôi là màn bạc, quỷ bắt nó đi, những hình ảnh chuyển động ấy - cả đời chưa bao giờ làm ướt vỉa hè. Tôi thật sự là người hiền lành. Có lẽ sau cây đỗ quyên. Hay thậm chí sau cả cây thuốc lá nữa. Nhưng vỉa hè? Không bao giờ! Trong đời tôi chưa bao giờ bị sỉ nhục đến như vậy. Ngài sĩ quan, tôi yêu cầu ngài bắt giam người đàn ông này!”

“Tôi nghĩ cả hai ông bà đều điên rồi,” Patrolman Shapiro nói. “Bất kể ông bà đã uống gì đi nữa thì tôi cũng ước mình có được một chút thứ đó”.

“Anh dám trốn tránh nhiệm vụ cần đến sự tỉnh táo hay sao.” Cô gái tóc vàng nói bằng giọng cực kỳ trẻ con. “Trông anh ta đang đá vào cái vỏ lon không có khả năng tự vệ kìa!”

Alex vừa đá một cú đẹp mắt vào cái vỏ lon, nó phát ra tiếng kêu rổn rảng và uể oải bay lên rồi rơi xuống sát lề đường.

“Tôi sẽ cho anh biết đây là người hàng xóm đáng kính đây, ngài sĩ quan ạ,” cô gái tiếp tục lối nói đạo đức của mình. “Nếu tất cả mọi người đều đá vào vỏ lon như thế, thì cái gì sẽ xảy ra với các trường dòng? Cái gì sẽ xảy ra với Hợp Chủng Quốc? Cái gì sẽ xảy ra với Carmine de Sapio? Còn về Adam Clayton Powell thì sao? Có phải ông ta đã để Hazel Scott đá vào cái chiêng không? Còn Cardinal Spellman? Ông ta có đá vỏ lon không?”

“Một ly cà phê đen là cái nên làm lúc này,” viên cảnh sát Sapiro nói. “Trước khi một người thừa hành pháp luật lịch thiệp nào đó tới và bắt giam ông bà lại vì tội gây rối trật tự. Tôi, tôi không đang thừa hành công vụ. Tôi chỉ sắp về nhà kiếm ly cà phê kiểu Ailen, một thói quen xấu mà tôi mắc phải từ cái môi trường Ailen trên đại lộ số Ba. Tôi có một gợi ý thế này, thưa cô Bayne và ông Barr. Tôi sống ngay sau góc phố kia. Tôi chỉ ở có một mình và đã nhiều đêm không ngủ được. Tôi mời ông bà tới cái ổ khiêm tốn của tôi để uống một ly cà phê kiểu Ailen. Nó sẽ mài nhẵn những cái lưỡi sắc mà không làm giảm nét hồng hào xinh đẹp. Thế nào?”

“Tăng tốc mạn sườn,” Alex Barr nói. “Hãy để chúng tôi tiếp tục tăng tốc ở mạn sườn. Tên anh là gì?”

“Nate Shapiro. Võ sĩ chuyên nghiệp không thành công. Cựu pháo thủ số hai, Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ, không huy chương. Nghề nghiệp hiện tại: cảnh sát. Nguyện vọng tương lai: luật sư. Với khuôn mặt này tôi có thể được coi là người Ailen. Rất vui được làm quen, thưa cô Bayne và ông Barr. Cái câu tăng tốc mạn sườn đó cho tôi biết ông cũng đã ở Hải quân.”

“Barr bốn mươi hải lý, ở Lầu Năm Góc người ta gọi tôi như thế, vì ghen tị hơn là vì đúng. Sĩ quan thường. Lực lượng đặc nhiệm, Thái Bình dương. Không huy chương. Cô Bayne là thường dân đi theo doanh trại. Tôi đã từng là vật cảnh cưng của một đô đốc”.

“Ước gì cô ấy đi theo doanh trại của tôi,” viên sĩ quan Shapiro nói với vẻ nuối tiếc. “Đi thôi ông bà, hãy rời khỏi phố trước khi họ tóm tất cả chúng ta.”

“Làm việc với anh thật dễ chịu, Shapiro,” Barbara nói và vịn một tay lên khuỷu tay người cảnh sát. “Xin lỗi vì mẩu đối thoại ngu ngốc lúc nãy. Chỉ là chúng tôi cảm thấy hơi choáng váng vì tiếng sét ái tình thôi, tôi đoán thế. Nó sẽ qua đi. Ý tôi là sự choáng váng ấy mà.”

“Có thể hình dung được,” Shapiro nói. “Căn hộ ở ngay kia, dưới ánh đèn. Tôi không có nhiều, vì vậy tôi không cần nhiều. Dù sao thì cũng không phải ở giá cả thế này. Chúng ta đến nơi rồi; tầng hai, không có thang máy đâu. Chúng ta phải leo lên thôi”.

Shapiro bật công tắc đèn. Một phòng khách nhỏ cho thấy sự ngăn nắp của ông chủ. Chiếc máy quay đĩa nằm trên nóc chiếc tủ đặt một góc, cạnh chồng đĩa đặt ngay ngắn trong vỏ. Một chiếc ghế bọc da màu xanh nằm trước lò sưởi có vẻ tiện dụng. Ba bên tường được lấp kín bởi những giá sách. Một giá được dành gần như hoàn toàn cho sách luật và những tập hồ sơ buộc dây. Vài bông cẩm chướng tươi cắm trong bình đặt giữa chiếc bàn uống cà phê dài bằng loại gỗ gì đó màu sẫm đặt trước chiếc đivăng rộng bọc bằng thứ vải màu sực sỡ. Trên chiếc bàn ở trong góc có một hàng không nhiều những chiếc chai được xếp ngay ngắn. Những ngọn đèn sáng hết mức. Đó là một căn phòng sạch sẽ, sáng sủa và có vẻ được sử dụng khéo léo.

“Không nhiều,” Sapiro nhắc lại. “Nhưng trong chiến tranh tôi đã được giải phóng khỏi hôn nhân, và không có ý định lặp lại nó lần nữa. Tôi có một căn bếp nhỏ, một phòng tắm và một buồng ngủ phía sau kia”, Anh ta khoát tay chỉ ra cửa, “mà tôi đã xoay xở để tạo ra được. Xin lỗi tôi ra ngoài một lát, và sẽ pha vài ly cà phê. Ông có mắc những thói quen của hải quân không?”

“Có đấy,” Alex nói. “Tôi có đấy. Thói quen uống cà phê là tất cả những gì tôi kiếm được của Hải quân. Nếu có thể được tôi muốn mạn phép xem đống sách của anh. Ô hô. Tôi đã nhận ra hai quyển của tôi. Một người mê sách, Barbara này. Hãy hình dung xem, một người mê sách trong cái thời buổi truyền hình ảm đạm này.”

“Xin mời ông cứ tiếp tục và tự nhiên cho.” Sapiro bỏ áo khoác, cởi dây đeo súng, kéo thắt lưng và súng qua một bên vai khi đi vào phòng ngủ. Chiếc áo sơmi màu xanh dương của anh thấm lại vì mồ hôi ở dưới cánh tay. “Nếu ông bà muốn uống, thì có đồ để pha đây. Đá trong cái xô ở dưới chân. Tôi phải đi rửa mặt và thay áo thì mới bật bếp lên được.”

“Chúng tôi sẽ chờ một ly cà phê Ailen,” Barbara nói. “Anh có một chỗ ở tuyệt thật, Shapiro ạ. Thật tốt là anh đã mời chúng tôi về đây sau cuộc nói chuyện ngu ngốc ban nãy.”

“Đôi khi ta làm quen được với những người rất dễ mến,” Shapiro vừa nói vừa đi khuất. “Xảy đến như một sự ngạc nhiên bền bỉ, sau một bữa tiệc chán ngắt với lũ ma cô, bọn bán ma tuý, bụi đời, côn đồ, đồng tính, say xỉn và đủ hạng người khác mà tôi đang chạm trán hằng ngày khi làm cái nghề thú vị này. Tôi sẽ ra ngay thôi.”

Alex ngồi xuống đivăng và kéo Barbara xuống cạnh. Anh khẽ hôn cô, và với lấy bao thuốc.

“Anh bạn mới này của chúng ta thật dễ thương,” anh nói. “Anh tự hỏi tại sao anh ấy lại mời chúng ta về nhà? Chúng ta đã làm những điều thật ngớ ngẩn so với hai người lớn.”

“Em hình dung là anh ta đã phát hiện ra vài yếu tố đáng yêu cơ bản trong sự ngu ngốc tổng thể. Anh ta có vẻ là một anh chàng nhạy cảm. Và cô đơn. Xa lạ với con người như thu mình trong cái vỏ cảnh sát,”

“Không xa lạ đến thế đâu,” Alex vừa nói vừa nhìn đống sách luật. “Ngay bây giờ anh có thể viết về anh ta. Anh ta đã cố gắng thoát khỏi khu nhà ổ chuột khi là một cậu bé Do Thái gầy nhang trong một khu Ailen. Anh ta đã thử làm võ sĩ nghiệp dư, bị vỡ đầu, và thấy rằng mình không thể trở thành chuyên nghiệp được. Chiến tranh ôm choàng lấy anh ta và anh ta đã cưới Sarah Cohen nhỏ bé ở đâu đó. Thế rồi Sarah Cohen bé nhỏ chia tay anh ta vì một nha sĩ. Cựu pháo thủ Shapiro trở về nhà tràn đầy sự bối rối với cuộc sống thường, sau khi bị tách biệt trên nhiều con tàu và nhiều hòn đảo đủ để rèn luyện bộ não Do Thái linh lợi của anh ta. Cựu pháo thủ Shapiro quyết định rằng mình có đủ cơ bắp để làm trong ngành cảnh sát - một công việc sẽ không bắt anh ta phải động não quá nhiều, và sẽ giữ anh ta ở nhà với whisky Ailen, bao thuốc lá và những cuốn sách luật, trong khi anh ta thả bộ óc sắc sảo của mình vào công việc sau hàng giờ nghiên cứu luật. Rồi một ngày tốt lành nào đó, anh ta sẽ đi qua Sarah Cohen bé nhỏ trên phố, cùng với viên nha sĩ của cô ta, Nate Shapiro sẽ nhìn viên nha sĩ của Sarah Cohen và nhếch mép cười khá khinh bỉ, bởi vì Nate Shapiro sẽ bất ngờ trở thành con trai tôi, luật sư theo cấp bậc, và sau đó, không còn nghi ngờ gì nữa con trai tôi, chánh án. Mà với khuôn mặt méo mó đỏ ửng đó của anh ta, không loại trừ khả năng anh ta sẽ leo tới tận Gracie Mansion. Đó là bản tóm tắt của tôi về viên cảnh sát Cựu pháo thủ Nate Shapiro.”

“Một bản tóm tắt khá hay.” Shapiro đã bước vào phòng từ lúc nào. “Ở đây chúng ta có những bức tường khá mỏng. Tôi đã nghe lỏm được hết. Ngoài một vài điểm nhỏ, ông đã nói rất đúng, nhà văn ạ.”

Shapiro đã tắm rửa, và mớ tóc đỏ ẩm ướt của anh ta có vết răng lược. Anh mặc chiếc áo thể thao vẽ hoa kỳ quặc của dân Hawaii, và đã thay chiếc quần soóc bằng vải kaki. Anh đi đôi huaraches của người Mexico trên đôi chân trần.

“Tôi thích hồi tưởng lại những gì đã mất,” anh ta cười. “Cà phê đang pha. Tôi sẽ rót rượu vào mấy cái ly.” Anh ta đi qua bàn, tay cầm mấy cái chai. “Với người một lát trước đây còn đi đá vào thùng rác, thì ông là người viết trích ngang khá sinh động đấy, ngài sĩ quan ạ.”

“Tôi thích được gọi là Alex hơn là ngài sĩ quan”, Alex nói. “Tóm tắt nhanh là nghề của tôi. Anh đã dừng được nhiều cú đấm với bộ mặt ấy đấy, Nathan ạ.”

“Đó là một điểm đáng tự hào. Khi tôi có cái mũi dài như cha tôi, một giáo sĩ Do Thái, mọi người thường gọi tôi là Ikey. Bây giờ họ đã bằng lòng với cái tên Nate. Chẳng có gì bằng khuôn mặt vỡ để đem lại chọ ông chân giá trị trong một cộng đồng Ailen, hay thậm chí cả trong chiến tranh. Sau tất cả, ông không phải đấm đá nữa. Và giữa chúng ta, tôi xin nói là tôi đã dành thời giờ để đánh nhau với những người miền Nam mộc mạc trong sự kinh tởm muộn màng hơn là thời giờ cho quân Nhật. Những kẻ nhai thuốc lá đó chỉ đơn giản là không thích người Do Thái. Nhưng cái tôi không hiểu là ông, ngài sĩ... Alex. Làm sao ông và cô Bayne lại đi đến chỗ không đếm xỉa đến sự nổi tiếng như vậy? Ý tôi muốn nói chuyện đi đá vỏ lon ấy mà. Ông không cho tôi là kẻ thô lỗ đấy chứ.”

“Tôi, không còn nghi ngờ gì nữa, là người trầm lặng nhất, thanh lịch nhất, dịu dàng nhất và nhút nhát nhất thế giới,” Alex Barr nói. “Nhưng một ngày kia tôi chợt thấy không muốn ăn tối với một người có tên là Hazeltine. Đó cũng là phần giữa của một câu chuyện rắc rối.”

“Tôi đoán cô biết anh ấy đang nói về chuyện gì, cô Bayne?”

“Xin hãy gọi tôi là Barbara. Chỉ hơi hơi thôi. Hình như anh ấy đang trong tâm trạng muốn nổi loạn, và đang thử tự sát bằng cách thường xuyên ăn trứng cá. Ngoài chuyện đá những vỏ lon bỏ đi ra.”

“Điều đó chỉ cho anh thấy đàn bà không bao giờ thực sự hiểu người đàn ông mà cô ta yêu, thờ phụng và đam mê, người mua cho cô ta áo lông, tặng cô ta hàng hạm đội con cái, lừa dối cô ta với những chiếc Cadillac, chất lên người cô ta hồng ngọc và bích ngọc, và thậm chí thỉnh thoảng còn về nhà ăn tối mà không để bị nhắc. Người đàn bà này - chiếc bẫy độc này - thậm chí không biết rằng tôi đã từng ném đá vào một đô đốc.”

“Anh ấy luôn nói chuyện kiểu này à?” Shapiro quay sang Barbara Bayne. “Hay anh ta chỉ dùng một ít, như một nhà soạn nhạc? Hay, có lẽ là quá nhiều nấm”.

“Tôi nghĩ anh ta là trường hợp hiếm, gặp sự phát triển bị kìm hãm bất ngờ trở lại thời thanh xuân hoàn toàn không có lý trí. Thế còn chuyện ném đá vào viên đô đốc là thế nào?”

“Câu chyện thực giản dị, có thể chứng minh được. Đấy là cách duy nhất để tôi có thể thoát khỏi văn phòng của ông ấy. Không quan trọng. Bọn Nhật phản bội tôi và kết thúc chiến tranh, khiến việc cân nhắc ý niệm đáng ghét về công việc trở nên cần thiết. Do đó - tôi rất thích từ này - do đó tôi quyết định bỏ nghề binh, trở về nhà và trút bỏ bộ quân phục màu xanh xinh đẹp trước khi mười bốn triệu người như anh bạn của chúng ta đây trở về nhà và chiếm hết mọi công việc. Vì thế tôi đã viết một vài lệnh khá bất hợp pháp để đưa tôi trở về nhà từ Australia, một nơi đã từng là chỗ thân thiện nhất nhưng giờ đây đang bị trì trệ. Hầu như tôi đã quên mất rằng khi thu xếp xong chuyến đi của mình, tôi đã trừ khử một vị tướng già trên máy bay, nhưng ông ấy chỉ là tướng bộ binh và vô dụng trong thời đại vũ trụ này. Sĩ quan hầu cận của ngài đô đốc đã không để tôi vào, Vì thế tôi bèn ném đá vào cửa sổ nhà ông ta.”

“Viên sĩ quan hầu cận hẳn phải thuộc loại gàn dở”, Shapiro nói. “Khi không để một kẻ đào ngũ vào để gặp đô đốc.”

“Tôi nghĩ đúng như thế. Vì thế tôi quay lại đại lộ Hiến Pháp, nhặt một nắm đá và bắt đầu ném chúng vào cửa sổ nhà đô đốc. Điều này hóa ra lại khó hơn tôi tưởng. Không người nào ở Washington lại có quân hàm dưới bốn vạch, vì thế tôi liên tục phải ngừng cuộc ném đá của mình để chào những sĩ quan cao cấp đi ngang qua.”

“Họ không nghĩ việc một đại úy đứng ném đá vào cửa sổ nhà một đô đốc là kỳ quặc lắm sao?” Barbara hỏi mà không thay đổi nét mặt.

“Tất nhiên là không. Đây là Washington. Nó đã trải qua một cuộc chiến tranh dài. Có lẽ họ nghĩ tôi là một gián điệp đôi của lực lượng không quân, còn những hòn đá là bom.” Alex tỉnh bơ nét mặt. “Tôi đang nói đến đâu nhỉ?”

“Dừng tay chào giữa những loạt đạn,” Barbara nói. “Tiếp theo thế nào?”

“Ồ, ngay lúc anh sắp hết đạn, thì khuôn mặt vị đô đốc hiện ra ở cửa sổ. Ông ấy có vẻ mất bình tĩnh. Có lẽ đúng hơn là khó chịu. Anh không thể nghe được ông ấy nói gì, nhưng môi ông ấy mấp máy, và hình như muốn nói cái gì đó kiểu như: Anh đang làm vấy bẩn một người này người kia. Anh có nhiệm vụ sống với người Anh ở Australia. Vậy anh đang làm cái quái quỷ gì ở Washington vậy?”

“Một quan điểm hợp logic,” Barbara nói. “Vậy tại sao người ta không bắn anh?”

“Đúng,” Shapiro tán thành. “Tại sao họ không bắn anh? Chắc chắn trong trường hợp đó họ đã bắn tôi rồi.”

“Vấn đề thực tế đơn giản. Ngài đô đốc vẫy tôi lên, và lúc này thì gã cận vệ của ông ấy để tôi vào. Tôi phải nói rằng chiến tranh vui tươi đến thế đã trôi qua, rằng tôi chỉ là một sĩ quan và hôm đó tôi đang quay trở lại với hòa bình của Washington, DC.”

“Và anh đã tìm thấy hòa bình như thế nào?” Viên cảnh sát cựu pháo thủ Shapiro hỏi.

“Nó bốc mùi,” Alex Barr nói. “Có quá nhiều thường dân ở đó.”

“Anh đã ghi được một điểm,” Shapiro đáp. “Chắc chắn anh đã ghi được một điểm.”

Họ chia tay Shapiro vào lúc rạng đông, điềm đạm và hạnh phúc một cách thanh thản, với lời hứa rằng người bạn mới sẽ đi ăn với họ ngay buổi chiều rảnh rỗi đầu tiên của anh ta. Mặt trời đang ló rạng trên East River, và buổi sáng thật mát mẻ ngọt ngào, với tiếng lá cây xào xạc. Họ đi bộ qua công viên, và thấy rằng tiết trời buổi sáng đẹp đến mức không nên gọi taxi làm gì.

“Một anh chàng trầm tĩnh, viên cảnh sát của chúng ta ấy,” Barbara nói. “Em không biết là họ còn được như thế.”

“Anh ta dường như có đủ bộ vó của một con ngựa, đúng không, thật dễ chịu khi gặp được người biết mình sẽ đi tới đâu. Anh vẫn thường ao ước mình có được điều đó.”

Barbara dừng lại và hôn khẽ lên má Alex.

“Em biết anh sẽ đi tới đâu,” cô nói. “Anh sẽ về nhà ngủ. Và anh có biết điều gì nữa không? Em sẽ đi với anh. Một buổi tối thật dễ chịu, Alex. Em hy vọng chúng mình sẽ có nhiều buổi tối như vậy nữa, cho dù có ít điên rồ hơn đôi chút.”

“Em đã mua cho mình một chú bé,” Alex nói. “Lúc này anh đang dùng nó khá nhiều, phải không? Đi thôi, taxi đây rồi. Sau lời đề nghị khiếm nhã cuối cùng này, anh không muốn đi bộ thêm nữa.”

“Đó mới đúng là bồ tốt của em,” Barbara nói. “Hãy để dành sức lực của anh cho những thứ thật sự đáng giá.”