← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 26

Giờ đây tất cả đã thay đổi, một cách kỳ diệu, trong cái tháng Tám tàn lụi này. Alex không sờ đến chiếc cặp trên máy chữ trong suốt một tuần. Thậm chí trong một tuần anh không hề nghĩ đến cái máy chữ. Có một cuốn tiểu thuyết mới viết được một nửa và hàng tá bản thảo thô của nhiều tạp chí trong phòng làm việc, ở cái nơi mà anh cố không nghĩ đó là “nhà”, và Alex đã quên những con chữ và những vấn đề đi liền với chúng. Có lẽ điều này đã xảy ra khi anh phá bỏ rào chắn, trong đêm đầu tiên anh và Barbara gặp nhau trong thành phố.

“Nhiều trứng cá quá,” Barbara nói. “Đây là số trứng cá nhiều nhất mà em được thấy để riêng em ăn. Anh luôn tiếp cho những người đàn bà của anh nhiều trứng cá đến thế à?”

“Chỉ cho những người mà anh yêu, và trước tiên họ phải lên giường với anh,” Alex nói. “Em có đủ tư cách trên cả hai mặt. Đây là lần đầu tiên anh có một hors d'oeuvre[16] trước khi anh có một hors d'oeuvre.”

“Ôi, anh thật là người rất khôi hài, có lẽ trừ trên giường. Trên giường anh có vẻ khá nghiêm túc.”

“Trên giường với em, anh khá nghiêm túc. Anh không thể hình dung có người đàn ông nào lại không như vậy.”

“Trời tháng Tám khá nóng để làm chuyện ấy, nhưng theo em nghĩ thì chúng ta đã hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình,” Barbara nói. “Nhưng quỉ bắt em đi nếu đây không phải là lần đầu tiên em bán mình chỉ vì một pound trứng cá.”

“Cứ sống rồi khắc biết,” Alex nói. “Bây giờ anh nghĩ mình nên ra ngoài và làm cái gì đó thật khác thường trước khi anh lại cưỡng bức em. Vẫn còn một pound trứng cá để mua sự ưng thuận của em.”

“Hy vọng là em không phải thấy một hạt trứng cá nào nữa trong phần đời còn lại. Anh có thể có sự ưng thuận của em, miễn phí, khi anh sử dụng nó một cách đáng yêu đến thế. Nhưng em không muốn đi ăn tối. Hãy đi nghe nhạc hoặc cái gì đó. Piaf đang ở thành phố. Anh có thích cô ấy không?”

“Cô ấy là cái duy nhất của Paris mà anh thích. Cô ấy đang ở đâu?”

“Versailles.”

“May là nó ở gần đây, nhưng vẫn còn sớm. Anh không nghĩ là em giữ gìn...”

“Hoàn toàn không. Có câu chuyện tiếu lâm cũ về một cô gái đã ăn quá nhiều trứng cá trước khi bị cưỡng bức. Em không định chứng minh điều đó.”

“Được thôi. Vậy hãy đứng đắn lại đi. Em đã thử một cách khá khiếm nhã nửa trên của bộ pyjama mới này. Thậm chí em không buồn tháo thẻ ghi giá tiền ra.”

“Là một người tình thì anh khá ngờ nghệch đấy. Những cặp tình nhân thường đi khắp nơi với bộ mặt dài ra và bầu không khí lo âu sầu thảm.”

“Tất cả những cái đó đã ở lại phía sau anh rồi,” Alex nói. “Về di truyền, bộ mặt anh thuộc về loài ngựa, nhưng tâm hồn anh là của Cupid, say đắm theo đuổi Psyche.”

“Em sẽ mặc quần áo,” Barbara nói. “Thật không an toàn khi để người hở hang thế này mà lảng vảng quanh anh.”

“Kiểu cách rởm,” Alex Barr nói, và ngẫm nghĩ rằng trong cả cuộc đời anh chưa bao giờ nói nhiều điều ngớ ngẩn như anh vừa nói trong nửa giờ qua. “Lý do thật sự khiến anh ngớ ngẩn thế là vì anh đang yêu say đắm và không có nhiều kinh nghiệm thực tiễn để mô tả nó cho nạn nhân.”

“Vậy thì em sẽ mua,” Barbara nói. “Anh yêu”.

Piaf đơn giản là một nghệ sĩ vĩ đại. Đó là điểm đặc trưng cho con chim sơn ca nhỏ bé người Paris, một nỗi buồn ngọt ngào, có vẻ đặc biệt hợp với những đôi tình nhân. Trong bộ váy dài màu đen nhỏ bé hình thức tồi tàn, trông cô rất giống cô dâu của thần chết, nhưng tất cả vẻ ngọt ngào cay đắng của tình yêu nước Pháp đã mất tỏa ra từ đôi mắt to và chất giọng khỏe khoắn đáng ngạc nhiên của cô. Như Barbara nói, cô là cô gái vĩ đại để cầm tay. Cô không phản đối cô gái đang nắm tay người đàn ông của cô.

“Em có thể nói là không như Lena Horne,” Barbara nói. “Em sẽ không đến xem cô ấy với bất kỳ người đàn ông nào mà em thích. Em có cảm giác rõ ràng là khi một người đàn ông nghe Lena và xem Lena hát, anh ta sẽ chỉ muốn còn lại một mình với Lena.”

“Em khá đúng đấy. Anh biết một gã đã viết rằng giọng Lena khiến ta nghĩ đến tiếng sột soạt của chiếc khăn trải giường sạch sẽ và tiếng tắt đèn đánh tách,” Alex nói.

“Anh thật sự là gã cuồng dâm,” Barbara nói. “Giống như người Nga.”

“Hình như chúng ta cùng biết tất cả những chuyện đùa,” Alex nói. “Và anh đồng ý với người Nga. Đêm nay, mọi thứ đều gợi cho anh nhớ đến em biết cái gì rồi.”

“Em biết cái gì rồi. Chúng ta sẽ lại lang thang đến đó lần nữa trong thời điểm thuận lợi. Trong khi chờ đợi, em nghĩ chúng ta sẽ tới Lantern và ăn một lát mỏng thịt bê, để giữ sức cho chúng ta, tất nhiên, và nghe vài bản violon đáng yêu. Giờ em vừa mới thoát khỏi tâm trạng la vie Parisienne[17]. Em muốn một chút weltschmerz, như Wien, Wien.”

“Được rồi, ta hãy đi kiếm một chút Weltschmerz. Nhưng nó có phải là thịt bê không?”

“Em sẽ đặt món bánh kếp khoai tây nếu nó làm anh vui,” Barbara nói. “Thực sự anh chưa bao giờ lang thang ở New York à?”

“Một lần anh đã lê la đến Stork Club,” Alex nói. “Nhưng bọn anh chỉ ngồi ở Phòng Báo chí và xem Morton Downey. Anh không thấy hứng thú với Phòng báo chí lắm. Và anh chưa bao giờ có thể diễn trên mé phải của sàn nhảy ở El Morocco. Chauncey Gray cũng không lay chuyển được anh. Anh là một Piaf đàn ông và là một người hâm mộ violon. Đúng chứ?”

“Một cô gái không thể đòi hỏi gì đúng hơn,” Barbara nói. “Nhưng anh phải nhớ một điều trước khi chúng ta vượt qua giai đoạn nắm tay nhau. Em đã hứa hôn với Joe E. Lewis, cho dù nó có nghĩa là đêm nào cũng phải đến Copa.”

“Nói dối,” Alex nói. “Em đã hứa hôn với Joe E. Lewis. Anh ta đã là thói tật của anh trong nhiều năm. Anh là một gã Copa vụng trộm. Và sau đó, hãy đi đá thùng rác đi.”

[16] Ors d'oeuvre: Món nguội ăn sau bữa ăn chính.

[17] La vie Parisienne: Cuộc sống người Paris.