CHƯƠNG 33
Có lẽ người duy nhất mà Alex căm ghét một cách thật sự và hoàn toàn là mẹ anh, và sự thù hận cổ xưa này khiến cho phần còn lại của cuộc chiến của anh với thế giới - bao gồm cả cuộc chiến tranh thế giới thứ Hai mà anh đã tham gia - có vẻ nhạt nhẽo. Anh không thể bắt mình ghét vợ. Dù sao đó cũng có vẻ là sự lãng phí thời gian.
Ngay cả bây giờ, ý nghĩ về mẹ anh vẫn chưa khi nào thôi làm anh khó chịu. Bà đã trở thành một phụ nữ to béo, mạnh khỏe, luôn tự phụ rằng mình đã ngồi hai chân hai bên trong khi những phụ nữ đoan trang còn ngồi cưỡi ngựa một bên. Bà đã làm việc khi những phụ nữ đoan trang không làm việc. Bà luôn khoe khoang về sự “hiểu” con cái, về việc là “bạn thân” của con hoặc về sự “hoà thuận” với bạn bè của con bà.
Cái cảm giác về tình bạn không mong muốn này luôn khiến Alex xấu hổ, nhất là khi anh đến tuổi dậy thì, và một số bạn cùng học của anh đến để chơi bóng chày trong cái sân rộng của ngôi nhà gỗ hai tầng tường gạch rộng rãi xây trên quả đồi đầy cây xanh, hoặc để đóng giả làm cao bồi và người da đỏ trong cả hệ thống những hang động mà bọn trẻ đã tìm ra. Emma Barr luôn tham gia vào trò chơi, muốn giữ vai trò chỉ huy, khai thác bạn bè anh, một cách khéo léo, về gia đình chúng, hoặc những bí mật được giữ kín trong gia đình khiến Alex luôn bị dằn vặt vì xấu hổ. Emma Barr là một trong những lý do khiến Alex Barr ít tham gia vào những cuộc đấu thể thao hoặc những cuộc tụ tập lớn khác của bọn trẻ.
Ở bất kỳ độ tuổi nào, anh cũng không mong được ngang hàng với cha mẹ. Anh muốn cha mẹ mình giống như cha mẹ của các cậu bé khác - những bậc phụ huynh không màu mè, không xâm phạm vào đời tư của con cái, và làm cái nền màu xám thích hợp đáng kính trọng trong ngôi nhà mà mọi chuyện luôn ổn định, với những bữa ăn đúng giờ giấc. Anh ước sao Emma Barr - hiếm khi anh nghĩ bà là “mẹ” - dành nhiều thời gian hơn cho cha anh và đừng cố làm bạn với anh, đừng cố tỏ vẻ trẻ trung trước những người bạn của anh.
Có lẽ Alex không ghét mẹ anh sâu sắc đến thế vì sự khinh bỉ kiêu ngạo của bà với cha anh, vì sự báng bổ đinh tai nhức óc của bà với mọi ý kiến mà ông đưa ra, và làm James Barr - cũng như con trai ông, Alex - phải xấu hổ bằng cách mặc quần và đi câu cá, không được mời và cũng không được muốn, giữa những người đàn ông đang mong ước không bị đàn bà nhúng mũi vào cuộc chạy trốn đầy nam tính của họ. Nhưng anh luôn ngượng ngùng vì sự có mặt của bà. Hồi còn là trẻ con, khi thỉnh thoảng được mời tham gia một cuộc săn gấu trúc hoặc săn nai, anh chẳng bao giờ dám chắc là Emma Barr sẽ không xuất hiện, đóng cái vai ồn ào của một người bạn lớn, với khẩu súng mà bà luôn đeo một cách cẩu thả như để những gã đàn ông lực lưỡng đầy râu tóc đang nhai thuốc lá kia phải kính nể.
Có lẽ lúc đầu James Barr đã cố giữ vợ mình ở nhà trong vai trò của một hiền thê. Nhưng James Barr là người dễ nản lòng, bất lực, mảnh khảnh, tóc vàng, giống như Alex, khiêm tốn tới mức thiếu tự tin, có tật nói lắp, với thói quen hắng giọng và cắn móng tay mỗi khi bị căng thẳng. Emma Barr, to lớn và nhõng nhẽo, luôn cằn nhằn ông, và biến mọi biểu hiện phản kháng nhỏ nhặt với những dự kiến đã định của bà thành những cơn khóc lóc rên rỉ phù phiếm trẻ con. Emma nặng hơn chồng bốn mươi pound thể trọng và bốn mươi tấn quyền lực.
James Barr là người đàn ông có khuôn mặt lấm chấm vết nâu với mái tóc mỏng, cục yết hầu nhô lên khó chịu và những cục cơ ở hai bên khoé miệng nhạy cảm. Mọi người bảo rằng Alex Barr là bản sao của cha anh, và, giống như cha anh, khá trầm lặng.
Cha Alex đã rất nhanh phải gánh vác trách nhiệm người lớn. Cha của James, Angus, phàn nàn vì sức khỏe yếu, đã sớm nghỉ mọi công việc nặng. James chỉ được học bốn năm trung học trước khi ông phải chìa vai đỡ gánh nặng cho mẹ ông, cậu em trai và hai chị em gái. Người anh kia, Joseph, đã sớm thoát ly gia đình. Chị ông, Annie, lấy một giáo viên và chuyển đến sống với chồng ở phía Bắc.
Mười bốn tuổi James đã làm việc trong một cửa hàng tạp phẩm, và dần dần, qua những khóa học bằng thư từ, ông đã đạt được trình độ cơ bản của một kế toán. Ông còn bí mật làm thơ và vẽ những bức tranh khá đẹp mà ông rất xấu hổ khi khoe với bất cứ ai. Jessie Barr, mẹ của James Barr, cho thuê nhà trọ, và ký ức sớm nhất của James Barr là những người lạ ngồi quanh bàn, những người lạ trong cái phòng khách bé xíu, những người lạ luôn được chiều theo ngay cả với chất lượng thực phẩm ở bàn ăn. Bà luôn chua chát cằn nhằn ông chồng Angus của bà, một cựu hiến binh quân Ly khai[20], người luôn than phiền rằng những vết thương làm ông khổ sở và không thể làm bất cứ việc gì nặng trên cái lưng của ông.
Cậu con trai James nộp cho mẹ toàn bộ tiền lương của mình, bà để lại cho anh năm mươi xu mỗi tuần, và sau này, khi anh tiến bộ kiếm được mỗi tuần mười đôla, thì bà tăng khoản tiêu vặt của ông lên một đôla, với lời phàn nàn rằng, “không hiểu nó đã làm gì với ngần ấy tiền.”
Với mái tóc vàng dày gợn sóng, với dáng vóc mà ngay cả những bộ quần áo tồi tàn cũng trở nên quyến rũ, và giọng nam trung rất hay, James Barr rất được các cô gái mến mộ, nhưng Jessie, như người ta thường gọi mẹ của James Barr, nói chung đã xoay xở để làm nản lòng mọi mối tình lãng mạn bằng cách không ngớt dèm pha cô gái nào đó ngay khi bà phong phanh nghe thấy cậu con trai bà đã “ăn diện vào buổi tối và ra khỏi nhà”.
Những kẻ độc miệng thường nói rằng James Barr bị Emma Davis chọn vì sẽ chẳng có ai khác chịu nổi loại đàn bà cổ bò mộng cằm vuông luôn đòi chỉ huy ấy. Họ nói rằng chàng James Barr khốn khổ chẳng có cách lựa chọn nào khác, một khi Emma đã tiến hành cuộc chiến chống lại sự không chồng, vì cô đã hai nhăm tuổi và không kiếm được đám nào trẻ hơn. Số khác lại bóng gió rằng Emma đã ăn ốc với người khác, và bắt James đổ vỏ - một sự phỉ báng rõ ràng, vì Alex Barr không chào đời ngay trong năm diễn ra đám cưới. Dù sao đi nữa thi họ cũng đã lấy nhau, và mẹ của Jamie, bà Jessie, ngồi lỳ trong phòng riêng và không chịu bước chân ra ngoài trong suốt một tuần. Còn ông Angus Barr thì uống say bí tỉ trong lễ cưới và vẫn còn say cho tận đến khi Jessie khỏi cơn lôi đình của bà để xuất hiện trong nhà và lôi Angus ra khỏi cơn say bằng hỗn hợp cà phê nóng, cháo nóng và cái lưỡi nhọn sắc.
Công việc diễn ra tốt đẹp. James Barr học luật, và đỗ bằng kế toán. Lương anh đã được tăng lên hai nhăm đôla một tuần, và anh bắt đầu dự kiến xây dựng một ngôi nhà mới rộng rãi bằng gạch. Mọi người đều nói rằng anh đã may mắn lấy được người phụ nữ giỏi giang như Emma, người đã thổi một luồng sinh khí vào anh. “Không có Emma, Jamie sẽ chẳng đủ can đảm để xùy một con ngỗng, ” họ nói. “Cô ấy có xương sống đủ cứng cho cả hai người, và đủ dũng khí để giữ ngay cả đức Chúa.”
Khi nước Mỹ xảy ra chiến tranh, James Barr không có cơ hội được gọi nhập ngũ. Lúc bấy giờ, đang có dịch cúm, vụ dịch đã giết chết em trai ông, Dan, em gái ông, Gertrude, và để lại James với bộ ngực ốm yếu vĩnh viễn. Emma Barr đã chăm sóc tất cả bọn họ, cũng như phung phí phần sức lực quá dư thừa của cô ở bên ngoài, thích thú công việc của cô, và say sưa trong chiếc mũ y tá màu trắng có hình chữ thập đỏ. Việc làm nhà mới bị trì hoãn cho mãi tới sau đình chiến, nhưng ngay sau đó họ đã dựng nên ngôi nhà gạch bên rìa thị trấn, và cả cái đại gia đình gồm Jessie và Angus Barr, James và Emma Barr, và cậu bé Alex Barr chuyển về đó. Những kẻ ít nhiều ghen ghét thì nói rằng James Barr lấy Emma Davis chỉ vì muốn thoát khỏi đôi cánh của Jessie Barr. Còn những kẻ độc miệng hơn thì bảo đổi mẹ Jessie lấy Emma Davis, James Barr chỉ đơn thuần là đổi người giám sát. Những người còn lại thì nói rằng lý do duy nhất khiến Jamie cầu hôn cô là vì anh không thể nói giữa Emma và Jessie ai trội hơn ai. James Barr đã phản bội họ; anh đối xử với cả mẹ và vợ theo cách của riêng, mình. Trong thị trấn người ta đồn rằng khi James Barr cưới Emma Davis ở tuổi hai mươi bốn, anh đến với cô hoàn toàn trong trắng, vì không một ai trong số những kẻ tọc mạch nhất từng nhìn thấy anh ngồi với một cô gái nào khác, hay vo ve quanh những cô ả trơ trẽn trong thị trấn, hoặc lui tới những ổ gái điếm. Một người bạn, Alexander Leslie, mà Alex Barr được mang tên, đã nói, “Tại sao, Jamie thậm chí chưa bao giờ thử tán một ả da đen.” Alexander Leslie làm chủ hôn cho lễ cưới của James Barr, và họ vẫn là những người bạn gắn bó trong nhiều năm, cho đến khi những thói quen vay mượn của Jamie Barr cuối cùng đã chấm dứt tình bạn mà nói theo cách văn hoa là không hòa hợp. Cái nhược điểm đó của cá tính, việc vay mượn mà không hoàn trả, làm khổ James Barr suốt đời. Những ý định của ông là rất tốt, mọi người đều nói thế, nhưng hầu như ông không bao giờ kết thúc được công việc mà ông đã bắt đầu. Nếu ông mua ô tô, thì chiếc xe có nhiều khả năng bị lấy lại. Khẩu súng săn mua trả góp bị Sears và Roebuck thu hồi, và một lần có ai đó thậm chí còn đòi lại cả con chó săn chim mua trả dần. James Barr đi vay với sự cam kết khá chắc chắn, nhưng một khi tiền đã nằm trong túi ông, thì một phép giả kim thuật bí ẩn nào đó sẽ diễn ra, và tiền trở thành của ông, mà ông không còn nhớ gì đến nghĩa vụ phải thanh toán.
Mọi người đều biết rằng mẹ của James, Jessie, ghét con dâu. Suốt những năm Jessie Barr còn sống bà và cô con dâu đã biến nhiều căn nhà khác nhau thành một loạt những bãi chiến trường. Cậu bé Alex Barr lớn lên trong bầu không khí của những cuộc cãi cọ không lúc nào ngót và những trận đôi co om sòm về những khoản chi phí lớn nhỏ, mà chẳng có bữa ăn nào diễn ra yên ả. Những người đàn ông trong họ Barr nói rất ít: James Barr thường nói lắp mỗi khi hỏi xin bánh bích qui, còn cha ông, Angus im lặng để thức ăn chảy xuống bộ râu bù rối. Còn cậu bé Alex thì ngồi thu mình một cách căng thẳng, vội vã ngấu nghiến bữa ăn để bào chữa cho chính mình và rời khỏi bàn.
Alex chỉ đơn thuần là không thích bà nội, vì bà luôn ca than trách móc ông của anh, và cuộc chiến bất tận của bà với mẹ Alex vì chùm chìa khóa. Nhưng cậu bé Alex ghét mẹ một cách hăng hái hơn vì bà luôn chiếm đoạt quyền làm chủ gia đình của cha cậu. Cậu ghét sự so sánh miệt thị của bà về những thành công ít ỏi của James Barr với thành công của những người đàn ông khác, những lời nhắc nhở không ngừng về nghị lực mạnh mẽ của bà trong một gia đình toàn những người đàn ông nhu nhược. Trong nhiều năm sau Alex vẫn thường tự hỏi làm sao mà sự sinh đẻ bình thường, luôn kết thúc bằng những đứa bé khỏe mạnh, lại thực hiện được trong sự bất an chống đối về mặt tình dục như vậy.
Lòng thù hận - hay có lẽ là sự căm ghét lạnh lùng - đã khỏi phát ở tuổi lên ba hay bốn gì đó, khi Alex lần đầu tiên thấy rõ rằng mẹ anh, với tất cả khả năng mà bà tự nhận, với tất cả sự tích cực ồn ào của bà trong cuộc sống của thị trấn, đã thật sự khinh miệt chồng mình, rằng bà ghét cái ý nghĩ làm mẹ, bà ghen tị với anh của bà, đố kị với cha của bà, và có năng khiếu trong việc xen vào cuộc sống của tất cả những ai sống xung quanh bà trong khi đĩa của chính bà thì chưa rửa, giường của bà thì chưa dọn. Một lần, nổi hứng hào phóng, bà đã đem tất cả quần áo của Alex tặng cho một gia đình ăn mày nghèo khổ. Sự đam mê công việc của giữ cho cơ thể bà hoạt động được tám giờ một ngày, nhưng sự đam mê mô tả niềm đam mê công việc của bà đã giữ cho cái lưỡi bà hoạt động hai tư giờ mỗi ngày.
Anh trai bà là bác sĩ; Emma Barr khao khát con dao mổ và dao trích. Khi bà quyết định trở thành y tá, bà tự lừa dối mình rằng đó là bước chuẩn bị để trở thành bác sĩ nội trú. Bà luôn quyên góp tiền cho một hoạt động nào đó của bệnh viện, và thường là quản lý rất tồi số tiền quyên góp đó. Bà làm khổ Alex với mớ kiến thức y học nửa mùa; những bức ảnh bóng loáng khủng khiếp của cuộc đẻ ngôi ngược, săng nở hoa, những vùng loét, ban đỏ và ung thư kinh sợ lấy từ cái thư viện sách y học khá lớn của bà.
Sự vui thích của bà trong mọi dịch bệnh, cả của cá nhân và cộng đồng, chỉ đứng sau tính tự phụ rằng bà là một người không tuân thủ các lề thói về tâm thần và xã hội. Bà gọi bác sĩ hoặc xe cấp cứu ngay cả khi triệu chứng thuyên giảm; đồng thời bà đọc những bài thơ mà bà không hiểu và trích dẫn những triết lý mà bà còn mù tịt hơn. Và cùng lúc đó, việc nấu nướng luôn bị bỏ dở vì một lý do vô lý nào đó, song với Emma, là hợp lý, như không cung cấp thực phẩm tươi cho bữa ăn, hay rất có thể là việc nợ lương kéo dài.
Trong suốt những năm thơ ấu, Alex không nơi bấu víu trước cái sinh lực không kiểm soát nổi, sự hăng hái vô mục đích là thói ba hoa vô tận của mẹ cậu. Cậu là cây sậy nhỏ bé yếu ớt, với mớ tóc vàng mềm luôn rũ xuống mắt, không là gì trước mẹ cậu, to lớn, siêu năng, đầy hăm dọa.
Vào độ lên mười một điều tuyệt vời xảy đến với Alex Barr. Cha cậu, với lá phổi ốm yếu, đã bị một trận viêm phổi mà hóa ra lại là bệnh lao tiến triển thành sự cách ly viện cớ là cần thiết trong nơi lưu trú bệnh nhân lao ở Asheville, N.C. Jessie Barr qua đời một cách không chủ ý, vì bệnh hen, morphin, hoặc vì xấu hổ do có một cậu con trai bị lao, và một thời gian ngắn sau đó ông nội cậu cũng ra đi do căn bệnh ung thư và món whisky nhà nấu mà ông thường dùng để giải sầu.
Emma Barr phải đi làm. Cho đến bây giờ, không có anh Martin để cân nhắc về mặt hậu cần. Hoàn toàn vô tâm, Martin là lời chú giải cho sự tội nghiệp của cha Alex từ cái học viện ho khạc ở Asheville. Chỉ có mỗi cậu bé Alex được giữ lại, vì Emma mẹ bắt buộc phải chuyển khối năng lượng vô tận của mình vào những việc vặt kiếm tiền thấp kém của một phụ nữ bán hàng, và một bà da đen lôi thôi với bộ ngực đồ sộ có tên là Lil giúp việc nhà. Lil là sự tiết kiệm; tiền lương của người hầu là hai đôla mỗi tuần và những đặc quyền mang vác, nếu bạn không mang vác được quá nhiều. Mà ở nhà Alex Barr thì chẳng có hàng gì lớn để mang vác, vì số tiền tín dụng ở cửa hàng Piggly Wiggly, một tiền thân sơ khai của siêu thị, luôn ít ỏi.
***Lil có một đứa con gái nhỏ, đứa út trong đám trẻ thò lò mũi xanh đông không thể đếm xuể ấy có tên là Pudding. Pudding chiếm mất phần lớn thời gian của Lil, cũng ngang với Buster, ông chồng bị bệnh lậu của bà, kẻ cố ý uống rượu lậu và đôi khi kết bạn với một con dao cạo lớn kiểu cũ.
Cái hỗn hợp may mắn này của hoàn cảnh xã hội đã để Alex Barr đơn độc trong phần lớn những năm tháng hình thành bản thân cậu, và cậu say sưa trong cảnh cô đơn. Hằng ngày cậu đến trường, nơi cậu bị hầu hết đám bạn coi là con vẹt của thầy giáo, vì việc đọc linh tinh đủ loại sách đã trang bị cho cậu một kho chứa kỳ quặc những kiến thức của người lớn. Khi cậu đạp xe từ trường về, thường thường là chẳng có ai ở nhà. Lil đang bận rộn với Pudding; hoặc với việc bảo lãnh cho Buster khỏi bị giam vì vết rạch ngoài giới hạn pháp luật mới đây nhất của gã, còn mẹ thì kẹt trong của hàng cho mãi đến tận 6 giờ tối. Và Alex hầu như được làm chủ suốt những giờ của buổi ban ngày.
Sau cái chết của ông bà nội, khi Alex đã gần mười hai tuổi, mẹ cậu đem mấy phòng trên gác hiện đang bỏ trống cho bốn giáo viên thuê - những cô gái đẹp mộc mạc, khá thôn dã, người nào hình như cũng có một nguồn cung cấp bất tận những gã bạn trai trông lấc cấc. Phần lớn những gã này, theo Alex, là quá già đối với các cô gái mới ngoài hai mươi tuổi. Những gã bạn trai đến vào ban đêm, và thường nghe thấy những trận cười của các cô giáo và giọng trầm của đám đàn ông qua lớp ván ngăn giữa tầng trên và tầng dưới. Đám đàn ông thường đến bằng lối sân sau, đỗ xe sau nhà, Họ luôn mang theo những cái túi giấy to kêu leng keng và óc ách. Alex bị cha mẹ không cho đi vòng ra sau nhà sau khi trời tối, nhưng đôi khi cậu vẫn lén lên gác vào buổi chiều, để hút trộm một điếu thuốc lá. Cậu đắm mình trong bầu không khí của những người đàn bà đầu bù tóc rối; đồ lót và tất vương vãi tứ tung, mùi phấn sáp và nước hoa, còn từ nhà bếp là cái mùi không lẫn vào đâu được của rượu whisky ngô.
Cậu chỉ mới bắt đầu tuổi dậy thì. Các cô gái mê hoặc cậu, và làm dậy lên những cảm xúc non nớt xa lạ. Họ mặc và không mặc quần áo một cách tình cờ trước mặt cậu, đi lang thang khắp nhà trong bộ áo nịt và quần chẽn, cười đùa, tán gẫu, hút thuốc và đôi khi chòng ghẹo cậu bằng một cái hôn ngắn hoặc một cái cấu véo sống sượng. Một trong số đó, Hazel, cô gái cao có nước da sẫm với giọng nói của người vùng xa xôi hẻo lánh và dạy ở trường tiểu học, là người được cậu yêu quí hơn cả. Cô rất đẹp, Alex nghĩ, với đôi chân dài và bộ ngực đầy đặn. Cô hay hôn cậu hơn những người khác, giễu cợt những cô bạn của mình với cậu, và vuốt ve những chỗ kín của cậu một cách đáng xấu hổ. Cô cho cậu thuốc lá, một lần còn để cậu nếm thử món nước uống tự pha từ Coca Cola và một loại rượu thô nào đó khiến cậu chảy cả nước mắt, mặc dù cậu đã dũng cảm ghìm được cơn ho. Cô ôm cậu trong lòng, xoa đầu cậu và nói với các cô gái khác rằng cậu là người bạn đặc biệt của cô, và cô để dành cậu cho đến khi cậu lớn thêm chút nữa. Alex thích sự đụng chạm thể xác; mùi da thịt ấm áp, hương thơm thoang thoảng của những người đàn bà, mùi phấn phủ bám vào Hazel làm dấy lên những cảm giác dễ chịu. Cô ấp mái đầu cậu vào bộ ngực đầy đặn của mình, hoặc ngậm đôi tai cậu, và Alex được nếm trải cái cảm giác nóng hực lạ lùng ở phần giữa cơ thể, và cái phản ứng đáng xấu hổ của cơ bắp ở phần dưới cơ thể. Điều đó khiến cậu đỏ bừng mặt, và lao bổ xuống cầu thang, hai tay đút trong túi áo, còn những cô gái kia thì cười phá lên.
“Khi lớn lên cậu ta sẽ là nỗi ám ảnh của các cô gái, ” Hazel đã có lần nói. “Hãy cho cậu ta vài năm nữa và chúng ta sẽ phải cẩn thận về việc để cậu ta lên đây, Bà mẹ cậu ta sẽ lột da chúng ta.”
“Hazel này, tốt hơn là chúng ta nên cẩn thận ngay từ bây giờ, ” một hôm Clara, một cô gái trong bọn nói về sự lo lắng sâu sắc của Alex khi cậu chạy xuống thang gác. “Gã trai nhỏ này có cái cứng nhất mà tớ đã từng nhìn thấy.”
“Lúc này có thể cậu nói đúng, ” Hazel lạnh nhạt nói, và các cô gái khác phá lên cười. “Chắc là cậu đã có đủ thực tế rồi.”
Sự cám dỗ đàn ông đã khiến cho Alex có những ý tưởng kinh khủng, và thậm chí còn sinh ra những cảm giác kinh khủng hơn khi cậu nằm trong giường, cậu tưởng mình yêu Hazel, và ấp ủ ý nghĩ mình sẽ cưới cô một ngày nào đó. Cậu đang ở cái tuổi thích Walter Scott[21], và luôn nung nấu ý nghĩ mang cô đi trên lưng con tuấn mã phi như bay về phía chân trời. Thậm chí cậu còn nghĩ đến việc nói cho cô biết điều đó, nhưng những hồi ức dễ chịu về thân thể để trần của cô khi cô âu yếm vuốt ve cậu khiến cậu chẳng còn can đảm để đối mặt với sự thật.
Một đêm khi người cha đau ốm của cậu còn ở Asheville, còn mẹ cậu thì vắng nhà vì một việc từ thiện vô mục đích nào đó, Alex lẻn lên gác. Cậu biết Hazel ở nhà một mình; các cô gái khác đã hí hởn nhập bọn với mấy gã đàn ông râu ria rậm rạp.
Alex thu hết can đảm, đi vòng ra cửa sau, và rón rén leo lên. Ngôi nhà hoàn toàn yên ắng, chỉ còn duy nhất một ngọn đèn đang tỏa sáng - đèn ở phòng ngủ của Hazel. Alex đi dọc theo hành lang, và không cố che giấu sự có mặt của cậu. Cậu đang cô đơn, và cậu muốn làm run rẩy ánh sáng tình yêu của cậu. Đột nhiên cậu nghe thấy tiếng cười khẽ, và giọng nói ồm ồm của đàn ông, rồi người đàn ông đó nói. “Dậy đi, em yêu, em mang cái gì để uống nào.”
Alex đứng như trời trồng khi Hazel, người không một mảnh vải, cười phá lên qua cánh cửa. Alex há hốc miệng. Trước đó cậu chưa từng bao giờ thấy một người đàn bà trần truồng còn sống, mặc dù cậu đã được giảng giải đầy đủ về sinh lý phụ nữ qua thư viện y học của gia đình.
Cậu thở hổn hển, không thể kìm nổi mình, và Hazel lao vào cậu như một con hổ cái. Cô túm chặt lấy cậu, lắc lấy lắc để, bộ ngực trần của cô nảy lên nảy xuống khi cô lắc. Ở người cô bốc ra một mùi gì đó mà cậu chưa bao giờ thấy “Mày lén lút làm gì ở đây, hả thằng nhãi con.” Cô lại lắc cậu, còn cậu thì nhìn chằm chằm như bị thôi miên vào hai bầu vú cô. “Mày lén lút trèo lên đây làm gì!”
Tiếng người đàn ông nói: “Có chuyện gì vậy, em yêu?”, rồi có tiếng sột soạt của quần áo ngủ. Trần truồng gần như thế, người đàn ông bước ra cửa. Alex chuyển cái nhìn sang gã, một gã trai cao lớn đầy lông. Anh ta là phó cảnh sát trưởng của hạt có tên là Tom gì đó, và Alex mới chỉ trông thấy gã vài lần.
Hazel thẳng tay tát vào mặt cậu.
“Biến đi! Biến ngay khỏi đây, và nếu mày nói với mẹ mày, thì tao giết đấy!” Cô gào lên. “Giờ thì cút ngay đi và đừng có bao giờ lảng vảng lên đây nữa!”
Alex lao xuống thang gác, khiếp đảm và tan vỡ.
“Đáng lẽ em không nên tát nó,” người đàn ông ồm ồm nói khi Alex chạy xuống. “Anh có thể cho nó một đôla để nó im miệng. Giờ thì chắc chắn là nó sẽ mách mẹ rồi.”
Alex không nghe thấy gì cả. Cậu cắm đầu chạy, ngã nhào xuống cỏ và khóc một cách cay đắng. Cậu không hề có ý định kể cho mẹ. Cậu khóc, không phải vì cái tát trời giáng vẫn còn làm mặt cậu rát bỏng, mà vì sự mất đi cái tình yêu nhục dục đầu tiên của cậu trong cái hoàn cảnh kinh khủng của xác thịt trần trụi.
Từ đó cậu không bao giờ lên gác nữa. Giờ đây cậu ghét tất cả các cô gái, nhưng người cậu ghét nhất là Hazel. Thỉnh thoảng cậu vẫn trông thấy cô đi vào hoặc đi ra, nhưng cậu không bao giờ nói chuyện với cô nữa.
Một năm sau đó, khi đã được giải phóng hoàn toàn khỏi cái vỏ thiếu niên, một đêm nghe thấy chuông reo cậu ra mở cửa. Bật ngọn đèn ở hiên nhà, cậu nhìn thấy khuôn mặt của bốn gã đàn ông.
“Các ông muốn gì?” Cậu hỏi. “Chẳng có ai trong nhà trừ tôi ra.”
“Thượng để lòng lành!” một gã nói, và Alex nhận ra gã. Đó là gã thợ cắt tóc mới từ Charleston tới đây. “Chú em Alex Barr đây mà! Tôi vừa mới cắt tóc cho cậu ta tuần trước. Chắc hẳn có lầm lẫn gì rồi. Chúng tôi nhầm nhà. Xin lỗi vì đã làm phiền cậu.”
“Không thể nhầm được,” một gã khác nói. “Cô gái sửa móng tay ở chỗ khách sạn ấy nói là có bốn...”
“Câm đi, đồ ngu,” gã thợ cạo nói. “Chắc hẳn chúng ta đã vào không đúng lối rồi. Giờ thì đi khỏi đây thôi.” Gã hạ giọng. “Cậu bé này xuất thân từ những người đáng kính trọng. Không thể có khả năng là người ta đang điều hành một nhà chứa ở đây được.”
“Tất cả những gì tao biết là cái mà ả thợ sửa móng tay đã nói với tao. Thậm chí ả còn viết nó vào card cơ mà. Đây thôi.”
Gã ta bật đèn pin, và lục tìm gì đó trong ví. “Nhìn xem,” gã nói. “Đúng nhà này, đúng mà.”
“Được rồi, đúng nhà hoặc nhầm nhà,” gã đàn ông đã nhận ra Alex nói, “chúng tôi cũng sẽ đi ngay đây. Cái bọn lỗ mãng này... cậu nghĩ gì về bọn họ?”
Có tiếng gầm của động cơ khi chiếc xe quay đầu vòng ra. Lúc này Alex không khóc. Và đột nhiên, cậu biết những quả bóng hình elíp bằng cao su màu trắng hướng lên trên giống như cây măng tây lớn trong thùng muối giữa sắc trắng ngần của con hổ đã có ở đó như thế nào. Không cậu bé nào ở tuổi lên sáu trở lên trong cái cộng đồng này lại không khúc khích đầy ác ý và thử đổ nước hoặc thổi không khí vào cái được gọi là “Những bà góa vui tính”, và đi theo bộ ba đến cái hộp thiếc hình tròn nhỏ có dán nhãn Agnes, Mabel và Becky.
Thất vọng trong tình yêu, ngờ vực và bây giờ là ghê tởm mọi phụ nữ, căm ghét gia đình cậu vì đã cho phép cái mà cậu biết là tội lỗi, xấu xa và xúc phạm ngôi nhà của cậu, Alex Barr từ bỏ xã hội loài người để tập trung vào thế giới của Chúa và những cuốn sách của những người đã chết. Cậu thơ thẩn giữa những giá sách, và đọc cho tới khi mắt cậu đỏ lên và cay xè.
Thư viện của gia đình nhà Barr còn hơn cả đầy đủ, vì ông nội cậu, Angus Barr, thích đọc và nốc whisky hơn là làm việc hoặc nói chuyện với vợ. Alex đọc các cuốn sách trong một tâm trạng gần như hoảng sợ, như thể ai đó sẽ lấy trộm mất chúng trước khi cậu kịp đọc. Khi đọc hết sách ở nhà, cậu bắt đầu trở thành độc giả thường xuyên ở thư viện công cộng, và ôm về nhà từng đống sách lớn.
Ngôi nhà của gia đình Barr nằm xinh xắn dưới chân một ngọn đồi xanh mướt ở khu vực không phát triển của thị trấn, tạo ra những cánh đồng và rừng cây cho một cậu bé. Cậu còn quá mảnh khảnh để tham gia những cuộc đấu thể thao thô bạo của lũ trẻ lớn hơn cùng lớp, mà cậu cũng không có thuyền, chó hay súng hoặc những vật dụng linh tinh khác như đám thanh niên khỏe mạnh. Nhưng cậu yêu lùm cây hình tháp, nơi ông nội Barr một lần đã giữ con bò sữa kém cỏi; cậu yêu cái cối xay nước với những cái cánh đang mất dần, và cậu yêu những con chim kêu ồn ào; những chú chim giẻ cùi màu xanh lóe xoé, những con chim két cánh đỏ, những vệt màu đỏ tươi của chim tanager và ánh lông vàng lấp lánh của chim hoàng anh. Cậu thường đi vào rừng với một quyển sách, và căm ghét bầu trời khi bóng chiều đã tắt sau dải rừng xanh và cậu phải lê bước về nhà để gặp Emma trong bữa ăn tối được chuẩn bị rất tồi mà Lil, tuỳ vào cảnh ngộ của Pudding và Buster, có thể hoặc không thể nấu được.
Emma Barr là một phụ nữ đẹp có nước da sẫm theo kiểu cuối thế kỷ mười chín, đó là để nói rằng bà bị quá cân mất bốn mươi pao, và lớp da xanh xao bao lên đó một cách trôi chảy, và bà tấn công căn phòng với một sức lực dư thừa. Trên thực tế bà là cái sản phẩm thảm hại của thời gian của bà; nhiều năm sau này Alex tin rằng nếu đồng tính ái nữ được coi là một bệnh khá bình thường của phụ nữ, thì mẹ anh sẽ tạo ra một kẻ đồng tính ái nữ xuất sắc.
Mẹ của Alex không bị lay chuyển, không trệch hướng, không thỏa mãn, và đáng ghét. Bà có biệt tài nhúng mũi vào cuộc sống riêng của người khác, và theo Alex vào tận buồng tắm để bật một cái công tắc vô tích sự nào đó. Bà không cho phép cậu đọc nhiều, và cấm tiệt việc đọc sách ban đêm, khi đi ngủ. Alex đối phó với sự ngăn cấm này bằng một cái đèn pin mà cậu bị buộc phải lấy trộm, vì số tiền trong túi quá ít ỏi. Cậu đọc giấu giếm trên giường dưới chiếc chăn trong căn nhà gỗ.
Có nhiều điều mà Alex không hiểu được về mẹ cậu. Cậu không thể hiểu tại sao mẹ cậu luôn đẻ ra những đứa trẻ đã chết, ngoại trừ đứa em kế Martin - khi sự khinh bỉ của bà với ông bố James nhu nhược đã hoàn toàn rõ ràng, và ác cảm của bà với việc làm mẹ cũng rõ ràng không kém. Không thể nói rằng Alex Barr có thể nhận ra tất cả những điều ấy cùng một lúc, nhưng hình như Emma làm thui chột những ý tưởng bất chợt, bà mang những đứa trẻ đã chết như một lời trách móc ông chồng bà. Bà thường nói những con mèo làm cho bà hoảng sợ; một hôm Alex đã thả một con mèo con vào vai bà, và nhiều năm sau bà vẫn còn kết tội anh là đã giết chết một đứa em.
Khi mẹ của James Barr chết vì bệnh hen, lập tức Emma cũng mắc bệnh hen. Lúc đó, bệnh hen, trong lĩnh vực dược lý phối hợp còn lỏng lẻo, được điều trị bằng thuốc an thần, và thực sự không cần đến đơn thuốc của bác sỹ. Và Emma Barr, vì có người anh nổi tiếng, một bác sĩ phẫu thuật, và những hoạt động tài trợ khuếch trương nổi tiếng của bà đối với các bệnh viện, sự có mặt thường xuyên của bà ở bệnh viện, khuynh hướng đưa mọi người nằm dưới sự bảo trợ của bà vào bệnh viện, sự quen biết rộng rãi của bà với các bác sĩ, hiếm khi cần đến đơn thuốc để chữa khỏi căn bệnh ưa thích mà bà đã đánh cắp được của bà mẹ chồng. Bà chỉ đơn thuần là đến hiệu thuốc, và về nhà với một gói giây nhỏ mà chắc chắn bà sẽ cần đến khi hơi thở của bà trở nên rít lên và móng tay chuyển thành màu xanh.
Một lần khi Alex đang học năm cuối cùng ở trường trung học bà đã đến gần anh, theo kiểu giữa đàn ông với nhau, và nói.
“Con có muốn Chúa gửi cho con một đứa em trai không?”
“Con không nghĩ là Chúa sẽ gửi xuống một đứa em trai, ” Alex nói. “Mà nếu ông ấy làm thế, thì liệu nó có nghiện ma tuý không?”
Emma Barr nhìn quanh tìm cái gì đó để vụt thằng con. Khi không tìm được gì cả, bà bắt đầu khóc, và bế Martin lên giường, thằng bé trông như hình vẽ trên hộp kẹo, với đôi má như hai quả đào, mái tóc vàng mềm rũ xuống và khả năng khóc nhèo nhẽo trong bất kỳ tình huống nào.
Điều may mắn là trước khi Martin ra đời, cha của Barr được ra khỏi Asheville, với thông báo rằng rút cục ông chưa bao giờ bị bệnh lao, và rằng đó là một nhầm lẫn của y học. Emma tức điên vì sự xúc phạm này đối với khả năng chẩn đoán siêu việt của bà, và tính sĩ diện của bà chỉ dịu đi khi James Barr trình diện bà với sự suy sụp thần kinh, một cách thay thế nhẹ nhàng hơn cho bệnh lao. Sự suy sụp thần kinh của James Barr xảy ra gần như đồng thời với sự ra đời của Martin, do đó càng làm cho vợ ông tin rằng ông đang ở tình trạng tốt nhất, không ổn định.
Lý do suy sụp thần kinh cho phép Emma Barr về gia đình bà, hăm dọạ theo kiểu con gái, và thuyết phục cha bà, một nhà buôn khá ngờ nghệch nhưng thạo vũ khí, cầm cố ngôi nhà nhỏ của ông trong ngôi làng bên bờ biển, nơi ông đã sống từ khi bà vợ bị chết vì đột quị. Lúc đó Emma rất giận cha. Ông Edmund Davis đã ở lại công ty với một goá phụ trẻ tóc vàng, có phẩm hạnh đáng ngờ, và Emma cảm thấy rằng đây là điều lăng mạ kỷ niệm về kho thuốc vẫn còn nằm trong phòng tắm của mẹ bà.
Khi bị dồn ép, Emma Barr là một phụ nữ không chống lại được, và vì thế bà kỷ niệm sinh nhật Martin với một lượng lớn loại thuốc giảm đau mà bà đã nghiện, một sự tuyên bố tịch biên tài sản cầm cố của cha bà, sự nghèo khổ hoàn toàn về phần bà đã ảnh hưởng tới chồng, một lớp vữa mới trong ngôi nhà gỗ lớn trong hạt, sự kết tội đồng lõa trong việc tham ô các quỹ của bệnh viện mà bà đã thu, mà vì nó nhiều vị chức sắc trong thành phố đã bị vào tù.
Đó là năm Alex Barr tốt nghiệp với bằng danh dự cao nhất lớp, và được trắc nghiệm chứng minh là có IQ[22] cao nhất bang. Đó là năm 1929.
[20] Quân Ly khai: Quân của các bang miền Nam ly khai với miền Bắc gây ra cuộc nội chiến những năm 1860.
[21] Walter Scott: Nhà thám hiểm nổi tiếng người Anh.
[22] IQ: Intelligence quotient - Điểm đánh giá trí thông minh.