← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 54

Khi Alex và Barbara đi xuống thì chiếc Jaguar bệ vệ đã chờ sẵn trước cửa khách sạn. Người lái xe gân guốc đưa tay lên vành mũ.

“Cái xe đẹp thật,” Alex nói. “Ở nước này phải rất giàu mới dám có nó.” Anh vỗ vỗ vào lớp đệm bọc da màu đỏ. “Anh chỉ ngạc nhiên là nó không phải Mercedes hay Rolls”.

“Anh ấy để chúng ở Franco,” Barbara nói. “Giờ thì anh hãy tỏ ra dễ mến và đừng có giễu cợt nữa đấy, và vì Chúa, xin anh hãy nói tiếng Anh. Juan rất tự hào vì khả năng tiếng Anh của anh ấy. Đừng có chọc tức anh ấy bằng thứ tiếng lóng Tây Ban Nha, chỉ để gây ấn tượng cho anh ta vì anh đang mặc áo choàng vải tuýt thay vì trajes cortos. Sự khoa mẽ chẳng đưa anh đến đâu, ngay cả khi ngược lại.”

“Tại sao?” Alex nói nhẹ nhàng, “Anh mặc vải tuýt chỉ vì anh không có trajes cortos. Hôm nay anh không định đánh bất kỳ con bò nào, với đám khách du lịch còn lại. Nhân nói đến trajes cortos, liệu anh có thể nói rằng trông em rất quyến rũ trong bộ quần áo của em được không?”

Quả thật, trông cô rất nổi bật trong ranchero, một kiểu y phục của vùng này. Chiếc mũ Cordobés rộng vành màu xám đội nghiêng trên mái tóc vàng mà cô đã túm gọn và buộc chặt bằng một cái nơ, cổ áo sơmi dựng đứng nghiêm túc và gần như hơi trẻ con. Cà vạt hẹp màu đen chỉnh tề trên ngực áo sơmi xếp nếp, áo vét bolero màu xám chim câu.

Khăn thắt lưng màu đen bó gọn phần eo mảnh dẻ của chiếc quần kẻ sọc với màu từ trắng đến xám, theo kiểu quần của những chủ ngân hàng. Chiếc quần ngắn, chia ra ở mông, tiếp nối với cái botas bằng da chưa thuộc ở ngay dưới bắp chân.

“Em đã đặt may bộ đồ này khi nào vậy?” Alex hỏi.

“Ngày thứ hai sau khi em đến đây,” cô nói. “Người ta không bao giờ biết được khi nào sẽ có một người đàn ông tốt bụng mời mình tới tienta. Em không muốn nhận lời mời trong bộ quần áo bằng vải tuýt. Dù sao đi nữa, Juanillo thường bảo là anh ấy muốn dạy em đấu bò, và em không thể học nó trong một cái váy được.”

“Olé cho bà mẹ Virgen của Macarena,” Alex nói và nhận được sự hưởng ứng của người lái xe. Alex kết luận ngay rằng người lái xe chẳng mấy để ý đến sự hiện diện của anh.

Cuộc hành trình qua những cánh đồng lúa mì bằng phẳng chẳng đem lại cảm giác gì đặc biệt, trừ bụi. Andalusia chỉ là phần kéo dài của Bắc Phi, những ngọn đồi giống như lưng lạc đà và những vùng đầm lầy trải dài cũng buồn tẻ y như vậy. Xứ sở lạc đà, Alex nghĩ. Lạc đà, dê và bò. Mặt trời và sỏi đá. Những bụi cây và những dòng suối nhỏ. Xứ sở của những con bò tót - bắt chúng đi qua đá để tới nước - và luôn có một ốc đảo ở giữa.

Ốc đảo là cảnh tượng kỳ diệu. Một hòn đảo bất ngờ của màu xanh chào đón họ khi người lái xe rẽ khỏi con đường lớn đầy bụi vào khúc lượn nhỏ còn bụi bậm hơn. Anh ta dừng xe để mở cổng, lái xe qua, rồi xuống xe để đóng cổng lại. Những chấm đen của đàn bò hiện ra trên những khúc quanh dài của bãi cỏ. Sự thừa mứa của màu xanh đến gần hơn, và lúc này con đường được trải bằng hoa trong những chậu lớn - hoa phong lữ thảo - và khi họ đến gần ngôi nhà, những luống cresta de gallo lớn - hợm hĩnh khoe ra những đoá hoa to và cứng như ổ bánh mì, đỏ như ruột lựu mọc ra từ thân cây màu xanh bóng loáng xen kẽ với những trái cam như quả cầu vàng.

Casa grande là ngôi nhà trát vữa màu trắng chìm trong đám hoa giấy màu đỏ và tía. Đó là phong cách Morơ Tây Ban Nha cổ điển, trải ra trên một vùng màu xanh mát mắt, lợp ngói đỏ; có lối vào qua cổng tò vò, trong vòm cửa có cột chống và lợp mái. Bể bơi nhấp nháy con mắt màu xanh da trời với bên trái - cây cối tỏa bóng mát xuống ngôi nhà lớn. Một hàng hiên rộng bao quanh nhiều cửa, tất cả đều uốn hình vòng cung. Những chú chim bồ câu trắng chao liệng và gây ra những luồng gió nhẹ qua mái nhà lợp ngói đỏ. Trên khúc quanh của lối lái xe vào nhà, những chiếc Cadillac, Jag, Benley và Mercedes Benz đậu ngay ngắn. Trông như một vườn hồng, rồi lại một vườn cam, chanh và oliu. Xe dừng lại.

“Gracias para su bondales,” Alex nói khi họ ra khỏi xe. “Donde esta la ruta para los cokteles.”

“Este lado,” người lái xe nói và đưa tay lên vành mũ.

“Thế nghĩa là gì?” Barbara hỏi.

“Không có gì nhiều. Anh chỉ cảm ơn lòng tốt của anh ta, và hỏi anh ta đường đến chỗ nhậu nhẹt. Anh cảm thấy anh ta không ưa anh. Anh không mặc quần áo đấu bò của xứ sở này, và hình như anh xen ngang vào chuyện bạn gái của ông chủ.”

“Anh thôi đi nào,” Barbara nói. “Anh thôi ngay đi. Đừng có châm chọc và trịch thượng nữa. Chúng ta là khách ở đây, và anh là người mới.”

“Anh hiểu,” Alex nói. “Và anh cảm thấy như người mới. Không sao. Anh sẽ tử tế, chỉ nói tiếng Anh và có lẽ nên nói một ít tiếng Tây Ban Nha bồi để tỏ ra mình là khách du lịch. Anh ước gì mình đã đội cái mũ Cordobés của mình, trừ việc nó quá nghịch mắt với bộ quần áo Ailen bằng vải tuýt, em có nghĩ thế không?”

“Anh...” Barbara im bặt khi một người đàn ông cao lớn có nước da nâu bước xuống lối đi lát đá được rào bằng hoa để đón họ, hai tay giang rộng.

“Barbara!” Anh ta nói. “Thật vui là em đến được và mang cả bạn em theo.” Anh ta nắm lấy hai bàn tay cô, rồi cúi chào và hôn tay phải của cô, cái hôn rơi vào ngón tay cái của chính mình. Anh ta quay sang Alex, cúi chào rồi chìa bàn tay đàn ông của mình ra.

Cái bắt tay rất chặt. Đôi mắt xanh của người miền Nam, trong sáng trên khuôn mặt nâu rám. Bộ ria vạch một đường đen nhánh trên đôi môi đỏ, hàm răng trắng bóng. Trên người mặc trajes cortos nhưng là chủ nhà, Juan Mendoza đã tự cho phép mình thắt cà vạt màu đỏ. Nó hợp với chiếc sơmi diềm xếp nếp và bộ vét ngắn màu xám. Juan chìa tay ra với Alex.

“Đây là nhà của ông,” chủ nhà nói. “Ông nói tiếng Tây Ban Nha thật tuyệt, Senho Barr. Rất ít người Mỹ làm được như thế; điều đó luôn khiến người ta ngạc nhiên. Rất vui được gặp ông. Barbara đã kể cho tôi nghe nhiều về ông. Kể cho anh nghe đi, guapa, bộ phim thế nào rồi?” Anh ta chuyển hướng sự chú ý của mình. “Không, để sau đã, đầu tiên chúng ta phải đi gặp những người bạn khác, uống một ly và em phải kể cho anh nghe tất cả đấy. Xin mời đi đường này, tới nơi mà các bạn nghe thấy tiếng ồn ào.”

Barbara nhìn Alex đầy đe dọa khi họ đi tới nơi đó. Anh đã hứa là sẽ tử tế, đôi mắt nheo nheo nói. Và không làm một con lừa thông thái về chuyện bò, Tây Ban Nha hoặc bất kỳ cái gì khác.

Alex gật đầu, và họ nhập vào đám đông. Quầy rượu đặt trên một hàng hiên khác được bao hai bên bằng những bình đất sét lớn phong lữ thảo và được viền trong những luống lớn hoa păngxê và những khối hoa lớn, với hoa hồng phủ đến tận ngọn cây. Hàng hiên này nằm ngay cạnh bể bơi và quầy rượu được che bằng một loại mái lều của người Polynesi làm bằng lá cọ và lá mía.

“Trước tiên chúng ta hãy uống đã, rồi tôi sẽ giới thiệu,” chủ nhà nói. “Có quá nhiều người mà tôi thì rất tồi trong khoản giới thiệu. Một số người thì em đã biết từ buổi tiệc trước, Barbara: Pepe, Chelo, Teresa, Ramon, Ygnacio, Blanca, Abundio, Paco, Linda, Pilarin. Những người khác phần lớn là người Ingles và tất nhiên là cả đạo diễn của em, có lẽ có một hay hai người đến từ Madrid - một hoạ sỹ và một nhà viết kịch nổi tiếng, anh nghĩ vậy, và có hai người đấu bò đang đi nghỉ cuối tuần. Một người không tồi. Còn người kia...” anh ta nhún vai. “Nhưng simpático. Em muốn uống gì nào?”

“Martini, với vodka,” Barbara nói. “Nếu anh có.”

“Tất nhiên là có rồi. Thế còn ông?”

“Tôi không nghĩ là ông có rượu gin hồng?” Alex có thể kiềm chế mình để không tỏ ra thô lỗ, nhưng có cái gì đó ở bộ ria và hàm răng của Don Juan chọc tức anh. Hơn nữa quần áo của anh ta lại quá hợp.

“Tất nhiên là chúng tôi có rượu gin hồng. Tôi đã từng học ở Anh,” Don Juan nói. “Ông có muốn tự pha lấy không? Mặc dù Eladio ở đây”, anh ta ra hiệu về phía người pha rượu ở quầy, “là một chuyên gia có thể tin tưởng được.”

Touché, Alex nghĩ. Lấy một để biết một. Anh cúi đầu lễ phép về phía người pha rượu và nói tiếng Tây Ban Nha, nhưng là với anh ta. “Tôi rất vui lòng,” anh nói, sử dụng thể cầu khẩn, “được đặt mình trong bàn tay tài hoa peon de confianze của ông”

“Một martini nguyên chất với đá,” chủ nhà nói, “và một gin hồng, ala Inglésa.”

Eladio - người pha rượu hơi mỉm cười với Alex khi anh xoay chiếc ly để Angostura[40] lan đều. Mình không nghĩ là người pha rượu thích thằng chó đẻ này, Alex nghĩ, rồi anh lại nghĩ: Tại sao mình lại nghĩ anh ta như một thằng chó đẻ nhỉ? Ghen ghét một người chưa làm hại gì mình, hoặc chỉ ở ngoài tầm hiểu biết của mình với rất nhiều chất quí tộc Tây Ban Nha? Những người đánh đập các con bê trong ngày chủ nhật để tiêu khiển? Những người chưa bao giờ cố thử lao động trong đời? Thôi đừng trẻ con nữa. Trước đây mi đã trải qua điều này rồi, trong trường đại học.

Alex nâng ly. “Chúc sức khỏe,” anh nói, lần này bằng tiếng Anh. “Cạn cốc.” Anh nhấp rượu, và lại nâng cốc với người pha rượu.

“Rượu pha thật tuyệt,” anh nói bằng tiếng Tây Ban Nha. “Chắc bà nội anh là người Anh.”

Nụ cười của người pha rượu trở nên cởi mở hơn.

“Irlandesa,” anh ta nói “Ailen, thưa sênho.”

“Giờ thì chúng ta hãy đi làm quen với những con người dễ mến này,” Juan Mendoza nói. Anh ta đỡ khuỷu tay Barbara. “Anh không nghĩ là em đã gặp anh Tomás, cũng như cô em họ Carolina của anh.”

Thực ra chẳng có điều gì sai, Alex thầm nghĩ - chẳng có gì sai cả. Nhưng chưa bao giờ mình thực sự có cảm giác nhập cuộc. Mình biết mình là ai, và mình làm gì, mình biết mình có cái gì và làm thế nào để có cái đó, cũng như biết ai đang khâm phục mình về việc mình đang làm và cái mình đang có. Có những cái đầu bò không tai trong ngôi nhà gạch mát lạnh đáng yêu với những xà rầm màu đen tương phản với màu trắng của vôi vữa và màu đỏ của những bông hoa trong bình này. Có những cái đầu hươu lấm tấm vết mọt, đầu dê rừng và đầu lợn trên lối hành lang dài, và mình còn có cả những cái đầu hổ, sư tử, voi và báo gấm. Ở đây người ta gọi săn bắn là caza grande, và cảm thấy như thể họ có một ngày trọng đại nếu họ bắn được một con ciervo khốn khổ nào đó với bộ sừng trên đầu. Họ vung tiền đi bằng cách xem một cậu bé miệng còn hơi sữa trong chiếc quần bó giết một con bò - ba mươi ngàn người trong một plaza de toros đang chết lây trong khi cậu bé mặc chiếc áo chẽn vàng và chiếc quần bó phất mảnh vải đỏ trước con bò tót và chấp nhận khả năng cậu ta có thể mất cả tuổi trưởng thành của mình. Nếu cậu ta có mất một cái gì, thì đó là sự ngu ngốc.

Và giờ đây chúng ta đang tụ tập cùng nhau trong cái bữa ăn trưa không bao giờ kết thúc này - Chúa ơi, Gazpacho, gambas, zarzuela, pollo, judias, filete, ensalada, patatas, pan, flan... cả một lô những thứ chết tiệt, với ba loại rượu vang trong những cái cốc vại bằng gốm, trước khi chúng ta dùng đến anis del mono - nhằm tạo ra một loại cảm giác thèm ăn khác để đi tới trường đấu bò tư nhân xem mội gã cưỡi ngựa xuyên ngọn giáo vào một con bê. Rồi một lũ say rượu, những kẻ nên đi ngủ trưa sẽ nhào xuống trường đấu, người chủ sẽ giữ một đầu chiếc áo choàng, còn cô gái đẹp nhất sẽ giữ đầu kia và họ sẽ chơi trò đấu bò tót với những con bê.

Chỉ là những con bê cái, tất nhiên. Họ không đấu với những con bò đực nhỏ, và họ chỉ cho những con bò đực nhỏ ba nhát varas, vì họ không muốn làm mất sự căm hờn của chúng đối với người đàn ông trên lưng ngựa - người đàn ông trên lưng ngựa mà họ sẽ gặp sau hai năm nữa khi họ còn chơi mãi và con bê đực nhỏ, đã bị tuyên án về lòng dũng cảm, sẽ đi tới đấu trường xinh đẹp đó để được trở thành món bít tết. Có thể cho người nghèo, hoặc có thể được bán trong những cửa hàng thịt như carne de toro - thịt bò tót - thay vì đơn giản được trở thành carne già.

“Ông biết gì về bò tót?” Chủ nhà lịch sự hỏi. “Ông đã bao giờ trông thấy corrida chưa?”

“Một ít. Tôi đã từng thấy một vài corrida.”

“Ông có thích họ không?”

“Rất thích. Khi người đó không làm hỏng con bò. Khi cặp sừng không bị trầy xước. Và không uống thuốc nhuận tràng quá nhiều trước khi con bò ra khỏi toril.” Tại sao mình lại nói điều ấy lúc này nhỉ? Alex tự hỏi.

Đôi lông mày lại nhướn cong lên.

“Ông đã xem ai?”

“Mới đây nhất là Belmonte, Manolete. Trước đó là Arruza, Dominguin - Luis Miguel - hồi sau chiến tranh. Trước nữa là Ordonez. Tôi không biết gì về cha anh ta trên cương vị quản lý. Gaona cũng thế. Một số người khác tôi biết ở Mêhicô. Như Silverio chẳng hạn.” Hoan hô mi, bậc thầy của những kẻ phô trương, el rey de los adornos.

“Có lẽ ông đã viết về bò?”

“Không.”

“Nhưng tại sao? Hình như ông rất am hiểu chúng?”

“Tôi không thể chịu đựng được những chuyện về ngựa.” Alex nói đùa nhạt nhẽo với cô gái người Anh ở bên phải anh.

Đôi lông mày lại nhướn lên. Ở đây người ta không có máu hài hước.

“Nhưng ông biết là bây giờ chúng ta cưỡi chúng?”

“Chính thế đấy.” Ôi, quỷ tha ma bắt mình đi, mình không thể làm gì được, Alex nghĩ. Anh ta dồn mình vào.

“Thực ra tôi ghét ngựa, và khi người ta thôi không nuốt chúng vào bụng, tôi đã phần nào từ bỏ một công việc đam mê. Cũng như khi người ta cắt dây thanh âm đến mức khách du lịch không thể nghe được tiếng chúng gào, nó hoãn cho tôi cú đánh của tôi.”

“Ố ồ”. Tiếng kêu khẽ của người ngồi đối diện bên kia bàn ăn.

Don Juan phá lên cười, nụ cười vui vẻ của người chủ nhà.

“Trong một lúc tôi đã nghĩ ông nói nghiêm túc. Bây giờ tôi mới biết ông đang nói đùa. Chúng tôi gọi nó theo tiếng Tây Ban Nha là ”chiste ingles“ - sự hài hước kiểu Anh. Thực ra thì tại sao ông không viết về bò?”

Alex nhún vai. “Thực ra thì tất cả những gì đáng viết về bò đểu đã được viết rồi. Hemingway, Tom Lea, Barnaby Conrad, một nữ văn sĩ nào đó mà tôi quên mất, một hai người Mêhicô, ít nhất là một nghìn người Tây Ban Nha và cuối cùng và một người Mỹ, một người bạn của tôi tên là Rex Smith, người đã viết tiểu sử về tất cả những con bò và những người đấu bò. Với tôi hình như chủ đề này đã bị khai thác hết - đã cạn kiệt. Bò giờ đây đang trở thành tài sản cho khách du lịch.”

Don Juan Mendoza lúc này đang chống giáo và gỡ nút.

“Vậy là bò không còn gợi cảm hứng cho ông nữa?”

“Không, chúng không còn gợi cảm hứng gì cho tôi. Cả người đấu bò cũng vậy. Không kể từ sau Manolete.”

“Và Manolete gợi cảm hứng cho ông. Tại sao vậy?”

“Vì cả người đấu và con bò đều trung thực. Ngày lại ngày người đấu thực hiện corida mà không để ý đến những cuốn sách bán chạy ở Mêhicô hoặc Venezuela. Còn con bò thì có bộ vó khỏe và cặp sừng không bị cắt.”

“Trước đây ông đã đến tientas bao giờ chưa?”

“Một vài. Nhiều lần.”

Đôi lông mày lại nhướn lên.

“Ông đã bao giờ thử với những con bò cái chưa? Ông có biết cái gì giống như cảm giác trong đấu trường với một con thú hoang dã - cho dù đó chỉ là một con bê hai năm tuổi.”

Alex lắc đầu, và châm thuốc.

“Không. Về cơ bản tôi đã đánh nhau với bò. Tôi đã bị húc một lần khi còn là trẻ con.”

Cả bàn ăn cười rộ lên, chỉ trừ có ba người không cười, đó là Alex, chủ nhà và Barbara Bayne.

Alex quay sang vị láng giềng người Anh của mình.

“Tôi thật sự không cố ý nói thế về những con ngựa,” anh nói. “Tôi yêu ngựa. Tôi vẫn thường đi săn với chúng.”

“Ồ,” một giọng lí nhí hỏi vẻ thật thà “Cáo à? Hay lợn lòi?”

“Không,” Alex hơi lên giọng. “Khi tôi cưỡi ngựa đi săn thì đó phần nhiều là voi châu Phi. Và có lần là sư tử.” Điều này sẽ chặn họng thằng chó đẻ, anh nghĩ, và bắt hắn tập trung vào món bánh của mình.

Chủ nhà vẫn chưa chịu thôi.

“Ông bắn voi và sư tử từ lưng ngựa?”

“Đúng. Và đôi khi cả tê giác nữa.”

“Nhưng ông lại sợ mấy con bò.”

“Đúng thế. Tôi hiểu được voi, sư tử và tê giác. Tôi chẳng thấy mấy con bò có điểm gì quyến rũ. Một cặp sừng hai mươi phân trên mông người ta cũng chỉ dài như cặp sừng tốt nhất của một con Miura bốn tuổi. Viễn cảnh đó không làm tôi thích thú.”

“Nhưng voi gợi cảm hứng cho ông.” Câu này được nói ra như một tuyên bố.

“Thường xuyên. Có lẽ tôi phải chạy trốn voi nhiều hơn là Rafael El Gallo chạy trốn mấy con bò. Trừ khi ông giao tiếp với voi, ông không có được người phục vụ đáng tin cậy để dụ con voi rời khỏi ông bằng cái áo choàng, và cũng không có callejon để nhảy qua. Nói chung tôi thường tìm một cái cây to để trốn vào đằng sau.”

Tất cả lại cười phá lên, vẫn trừ ba người.

“Thật đáng tiếc,” chủ nhà nói. “Tôi thích được xem người đàn ông đã từng cưỡi ngựa săn voi ném chiếc áo choàng lên một trong những con bê của tôi.”

“Rất tiếc vì phải làm ông thất vọng, Don Juan,” Alex nói. “Nhưng cơ bản tôi là một aficionado của những môn thể thao có khán giả. Nếu được ông cho phép, tôi sẽ ngồi trên ghế quan tòa, uống brandy và giỏng tai nghe những thành tích tốt nhất. Kể từ khi bị báo cắn tôi đã trở nên căm ghét việc gần gũi thú vật.”

“Một con báo đã cắn ông?” Lúc này cả đôi lông mày đều nhướn lên.

Mình phát ngán tất cả cái mierrda này, Alex nghĩ. Hãy kết thúc đi thôi.

“Ông có muốn xem những vết sẹo không?” Anh vén áo vét và xắn tay áo sơmi lên. Cánh tay trái chằng chịt và lỗ chỗ những vết thương cũ ngang dọc. Anh phác một cử chỉ trong chiếc áo khoác không cài khuy, rồi cười phá lên.

“Món quà của các quý bà,” anh nói. “Nhưng tôi còn một số vết tích rất thú vị trên ngực và bụng.”

“Tôi nghĩ chúng ta có cà phê ở sân trong,” chủ nhà nói và đứng lên. Barbara Bayne nhìn Alex Barr với vẻ mặt như cô đã nhìn anh khi anh đuổi đám đồng tính luyến ái kêu thét ầm ĩ. Cái nhìn ấy xác định rõ rằng Alex là không thể chấp nhận được về mặt giao tiếp.

[40] Angostura: Vỏ một loại cây thuộc họ cam dùng làm thuốc giải nhiệt và thuốc bổ.