← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 62

Alex Barr, mặc chiếc áo vét kiểu cưõi ngựa có mảng vá bằng da, quần vải flanen xám và đi ủng bằng da bê lộn cao đến đầu gối, ra khỏi taxi vừa lúc chiếc xe chở mấy người khách của anh đỗ xịch phía sau. Anh nhìn bà mẹ và cô con gái với vẻ tán thưởng; Dinah gọn gàng trong bộ tuýt màu xám, Penny mặc bộ đồ đi đường bằng vải gabardin màu xanh xám.

“Làm ơn trông hộ tôi mấy cái túi, Red,” anh nói với người gác cửa. “Đến hai giờ tôi sẽ đưa nó lên xe tôi.” Rồi, quay sang hai người phụ nữ: “Của tôi, nhưng chúng ta không mong một kỳ nghỉ dã ngoại cuối tuần, và hôm nay thật là ngày thích hợp cho việc ấy.”

“Chúng tôi hiểu anh bằng vào lời anh nói, thưa quí ngài,” Dinah Lawrence nói. “Anh đâu có nói điều gì võ đoán. Em hy vọng chúng ta không tham gia vào một bữa tiệc những bộ lông chồn. Em cảm thấy có cái gì đó giống hệt một quán rượu ở Anh.”

“Trông em đáng yêu hơn bao giờ hết,” Alex nói. “Còn tiểu thư Penny thì như người mẫu quảng cáo trên tờ Vogue vậy. Đi thôi, hãy vào cái động ăn chơi này và buộc chặt túi đựng đồ ăn lại.”

Anh nhường cho hai người phụ nữ đi trước, vượt qua mấy bức tượng người cưỡi ngựa bằng sắt nhỏ, và mở cánh cửa quay nặng. Một người đàn ông cao da sẫm ủ rũ và một người nhỏ bé béo tròn hồ hởi đứng sau quầy tiếp tân. Khuôn mặt của người đàn ông ủ rũ sáng lên, còn khuôn mặt của người đàn ông nhỏ bé hồ hởi toác ra thành một nụ cười lớn khi họ bước vào.

“Vui mừng thấy ngài trở về nhà, ngài Barr, chào các quí bà,” người đàn ông cao nói. “Bàn như thường lệ của ngài chứ, ngài Barr?” Người đàn ông nhỏ bé hồ hởi nói. “Gần đây ngài hay lảng tránh chúng tôi.”

“Chào, Monte. Chào, Jimmy. Vâng, cảm ơn. Rất vui được gặp lại các anh. Thật sự là tôi không lảng tránh các anh đâu. Tôi bận việc; phải đi nhiều. Gia đình các anh thế nào?”

“Ổn cả,” cả hai người đàn ông nói. “Đi lối này, thưa các quý bà.”

“Cảm ơn,” Alex nói và để một thanh niên cao gầy dẫn họ vào cái hang tối mát mẻ, phòng đầu tiên trong số ba phòng trên trần có treo quả khí cầu hiện đại và tường treo những bức tranh biếm họa của Peter Arno và, trong các hốc tường, đặt rải rác những chiếc cốc vại uống rượu kiểu cổ.

Alex gật đầu và mỉm cười với khoảng năm sáu nhân viên, tất cả bọn họ đều nói giống hệt nhau, “Chào mừng ngài đã trở về, ngài Bar.” Một người đàn ông cao, rám nắng với những nếp nhăn li ti nói khi họ bước tới quầy bar. “Chào, Alex,” ông ta nói, “ông đã trở thành người lạ thực sự rồi. Chắc ông không còn yêu quý chúng tôi nữa?”

“Chào, Peter,” Alex nói. “Tôi vẫn yêu quý anh. Tôi chắc anh đã biết bà Lawrence. Nhưng tôi không chắc là anh đã biết cô Lawrence. Đây là Pete Kriendler, một trong năm nghìn người họ hàng trong quán. Mọi người thế nào?”

Peter Kriendler dẫn họ vào chiếc bàn nhỏ nằm giữa căn phòng phía trước.

“Không thay đổi nhiều. Mac đang nhậu nhẹt ở châu Âu. Bob đang trong một cuộc tập trận tàu ngầm nào đó. Charlie và Jerry đang ở đâu đó. Sheldon và tôi làm tất cả mọi việc. Ông lại đang vùi đầu vào một quyển sách khác?”

“Ít nhiều. Hy vọng tự khai quật khá sớm.” Anh nhìn quanh. “Khá đông khách vào buổi sớm như thế này.”

“Phần lớn những khách quen trở về từ châu Âu và Hampton,” Peter Kriendler nói. “Vincent, bê cho những người vui vẻ đó một ly hộ tôi. Rất mừng được gặp các quý cô. Alex, cuối năm nay đi săn vịt hoặc gì đó đi. Mong gặp anh.”

Trong lúc tạm được yên tĩnh đầu tiên, Dinah Lawrence nói:

“Anh đã không đến đây bao lâu rồi?”

“Khoảng hai tháng,” Alex nói.

“Trời đất,” Dinah nói, “em cứ nghĩ ít ra đã hai năm rồi.”

“Có phải anh chưa bao giờ,” Dinah Lawrence nói, “làm điều gì như một đợt kiêng rượu ở Manhattan? Tất cả những gì anh nói hoặc làm, tất cả những việc anh giải quyết, tất cả những chuyện anh viết, tất cả những chuyến anh bay anh đi đều được thực hiện quanh một quán rượu, phải không? Để đạt được thành công anh không cần đến trí thông minh; cái anh cần là bộ gan đúc bằng sắt và cái dạ dày phủ kẽm.”

“Ồ, chẳng có được cái nào trong hai cái đó, anh có triển vọng không mấy dễ chịu là tự đặt mình lên chiếc xe cũ cho đến khi công việc được tiến hành. Anh chỉ không thể làm được hơn nữa - ý anh là uống và công việc.”

“Khi nào thì thử thách này bắt đầu? Em chỉ có thể đi lại giao thiệp với anh có mức độ. Em biết rõ là em uống quá nhiều, mà em mới chỉ bước vào nghiệp văn chương.” Dinah nói vẻ nghiêm túc.

“Thứ ba, anh đã nói rồi. Anh phải gặp Mantell vào thứ hai, mà người ta không bao giờ thành công bằng nước lã. Và anh có thể phải gặp một vài biên tập viên trong bữa trưa hoặc bữa cocktail với Mantell. Nhưng vào ngày thứ ba anh là một chú bé rất ngoan, lảo đảo nhưng quý phái. Và anh nghĩ đến điều đó mà thấy sợ.”

“Hai người nói cứ như là một cặp ứng cử viên cho Hội những người nghiện rượu vậy,” cô con gái nói. “Việc thỉnh thoảng uống một ly chẳng bao giờ làm cháu lo lắng.”

Alex và Dinah nhìn nhau.

“Đôi khi tôi rất ghét bọn trẻ con,” Alex nói.

“Nhất là vào buổi sáng,” Dinah nói. “Nào, đây có món cua và một thùng rượu. Hãy để chúng tôi hoãn sự hy sinh lại đến tuần sau, còn bây giờ thì hãy vui vẻ mà chè chén đi thôi.”

Bữa ăn được phục vụ với sự chính xác như thường lệ, xứng đáng với giá cả, và cứ chốc chốc lại có ai đó trong số những thực khách dừng lại cạnh bàn để gật đầu chào và hỏi thăm về cuốn sách sắp ra. Alex đã đứng dậy để hôn vào má một vài quý bà xinh đẹp - phần lớn bọn họ là diễn viên hoặc là người của một ngành nghệ thuật nào đó tương tự, ca sĩ, các biên tập viên - và theo lời giới thiệu của anh với các vị khách thì với Penny hình như họ đều rất nổi danh trên truyền hình, màn bạc và sân khấu. Các quý ông khác nhau, những người đàn ông tai to mặt lớn hoặc mặc bộ đồ màu xanh thành phố trang trọng với cà vạt lụa xám hoặc rõ ràng hơn là trong bộ đồ vải tuýt ngày thứ bảy. Họ trả lời y như nhau về việc liên doanh, sản xuất, chế tạo hoặc quảng cáo. Đối với Penny hình như ông bác Alex biết tất cả những người có vai vế ở New York, và tất cả bọn họ đều vui mừng được nhìn thấy ông và được gặp những người bạn của ông.

“Quỷ quái thật, khó mà ăn được trong cái lồng này,” Dinah nói. “Em nghĩ anh đã nói gì đó về cái bàn hy vọng?”

“Con thì cho là mọi thứ đều tuyệt vời,” Penny thở dài. “Khi ở trường bọn con thường lang thang đến các quán bình dân hoặc những quán mì xào và một nửa thời gian là tới quán ăn Đức. Thật thú vị khi không phải nhìn thấy quá nhiều những cái đầu húi cua. Con đã gần như quên mất rằng đàn ông có đeo cà vạt.”

“Đừng có để con bị hư đi vì cuộc sống trí tuệ này,” mẹ cô nói. “Đi thôi, hãy đi vệ sinh đi trước khi chúng ta lên đường.”

“Nó nằm ở góc bên tay trái,” Alex lơ đãng nói.

“Em biết là nó ở bên tay trái,” Di nói gay gắt. “Penny mới là người chưa từng đến ”21“, chứ đâu phải em.”

Alex đi lại chỗ quầy bar để nói chuyện về bóng chày với Henry và Emil, hai người phục vụ, và tự cho phép mình uống ly cô nhắc do một đám đàn ông ngồi trong góc mời. Thật tốt là đã quay trở lại vùng đất riêng của mình, anh thầm nghĩ. Anh đã chủ tâm lảng tránh những nơi quen thuộc cũ, những chỗ mà anh chỉ tới cùng với Amelia hoặc những bạn làm ăn. Sự chào đón hân hoan của mọi người không có gì là khó hiểu; anh đã không tới bar “21” kể từ khi gặp Barbara Bayne.