← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 63

Giờ đây, lao nhanh trên đường cao tốc - trời buổi chiều khá ấm áp - với hai người phụ nữ xinh đẹp ngồi sát cạnh nhau trên chiếc ghế trước khá rộng bọc da màu đỏ bên cạnh, anh thấy rõ cái cảm giác sôi nổi khỏe khoắn. Anh đang về nhà, và anh đang về nhà để làm việc. Cái lương tâm hay cằn nhằn của anh đã dịu lại, và bữa trưa no nê sưởi ấm dạ dày anh.

Hai người phụ nữ im lặng, lắng nghe tiếng lạo xạo của lốp xe và tiếng radio văng vẳng.

“Penny,” Di Lawrence đột ngột nói.

“Sao hả mẹ?” Giọng Penny ngái ngủ.

“Không phải con. Mẹ hỏi có phải bác Barr đang nghĩ đến người trùng tên với con không. Điều gì đang làm vướng bận tâm trí nhà văn thế? Alex, chiều thu hôm nay thật rực rỡ cơ mà?”

“Chẳng có gì cả. Tất cả mọi thứ. Anh chỉ ngẫm nghĩ thôi. Trường học này. Tuổi trẻ này. Không chắc chắn. Tất cả trôi qua mới nhanh làm sao. Chủ yếu là anh tự hỏi không biết khi nào Luke mới quay lại. Sáng nay anh mới gọi điện cho anh ấy.”

“Luke là ai ạ?” Giọng Penny đã hoàn toàn tỉnh táo.

“Luke hả? Bác ấy là nửa kia của nơi ẩn dật của bác. Luke là Luke Germani, cựu hạ sỹ quan, USNR, người Italia thế hệ thứ hai, người hùng của hàng nghìn cuộc chiến đấu với dải băng đỏ Hải quân, và trong một thời gian dài là người đem trật tự vào công việc của bác. Luke điều hành cuộc sống của bác những khi bác tới Jersey, và bác ấy lại điều hành Jersey mỗi khi bác đi khỏi đó để lao vào những cuộc chiến ở Manhattan, châu Phi, hoặc một nơi tối tăm nào khác. Tóm lại, Luke là sếp đầu bếp và cọ chai kiêm thư ký quản gia người hầu của bác.”

“Anh giải thích rõ hơn đi xem nào. Sao em chưa bao giờ thấy anh nhắc đến anh ta.” Dinah hỏi, cũng với giọng hoàn toàn tỉnh táo.

“Cũng chẳng có gì nhiều. Luke và anh cùng tham gia Đại chiến. Anh ấy là nhân viên của ông đô đốc của anh, và anh phần nào đã chỉ định anh ấy làm thư ký riêng để trông nom những thứ vĩ đại như gọt giũa các mệnh lệnh, làm rối tung các hồ sơ cá nhân. Chàng trai người Ý gầy dơ xương - thông minh như quỷ sứ - làm bất kỳ việc gì mà người ta cần đến trong văn phòng. Pha cà phê rất ngon. Anh không được tin gì của anh ấy cho mãi đến sau chiến tranh, vào khoảng thời gian anh xây ngôi nhà ở Jersey. Điều đó phần nào cũng thật kỳ lạ. Anh vừa mới chuyển đến, và gặp khá nhiều vấn đề trong công việc nội trợ - những người giúp việc ở thành phố ghét phải đi đi về về, và không thể trông mong nhiều vào sự giúp đỡ của người da trắng trong vùng, Anh cần có cô nữ thư ký ở thành phố, còn Amelia không thích cái ý tưởng về cuộc sống ngoài trời sôi nổi trên hồ Jersey. Cô ấy cũng ghét cả việc nấu nướng. “Thế rồi anh nhận được thư của Luke nói rằng anh ấy đã nghỉ hưu với hàm cựu hạ sỹ quan. Luke nói đã đọc một hai cuốn sách của anh, và anh có thể cho anh ta cái gì đó phối hợp giữa ghi tốc ký với câu cá, đi săn và không khí trong lành không? Anh bảo anh ấy đến gặp anh; rằng có lẽ anh đã nghĩ ra việc gì đó.”

Alex bẻ quặt tay lái tránh được cú đâm thẳng vào một chiếc xe tải, anh châm thuốc bằng chiếc bật lửa kiểu cách.

“Mọi chuyện thành ra lại theo đúng một vòng. Luke đã là người bạn thân của anh trong chiến tranh, và rõ ràng không có ai ở cái ragazze địa phương quanh Scranton, Pa, thỏa mãn được sở thích sau chiến tranh của anh ta. Anh đoán là anh ta suy sụp vì phụ nữ, và rất có thể bị suy sụp vì hòa bình. Một hạ sỹ quan chỉ huy trên tàu hoặc trên trạm gác bờ biển có rất nhiều quyền, và việc trở thành một nhân viên phụ trách trên bờ sẽ không hấp dẫn được người đang vận hành máy móc trên tàu vận tải. “Vậy là Luke sống ở Jersey với anh trong phần lớn thời gian. Anh ấy vẫn là người đánh máy nhanh, mặc dù chính tả không được vững cho lắm. Nhưng anh ấy thích bổ củi, nhóm lửa và câu cá ở hồ, và điều quan trọng nhất là anh ấy không muốn làm một nhà văn. Anh ấy nấu ăn không ngon lắm, nhưng người ta có thể sống được bằng món mì ống và thịt băm viên nếu buộc phải thế, và anh cũng là một đầu bếp kha khá trong những món đơn giản như bít tết và trứng bác. Anh hy vọng nhờ trời Luke sẽ mang về nhà một hai công thức món ăn mới, kiểu như món sò rất ngon, từ lần gần đây nhất về thăm bà mẹ và năm bà chị gái của anh ta. Nhưng chủ yếu giữa thực phẩm đông lạnh và đồ hộp, chúng ta sẽ được ăn đồ ăn kiểu nam Âu.”

“Một phức hợp kỳ lạ: Thư ký thủy thủ đầu bếp,” Dinah nói.

“Không lạ lắm đâu. Phần lớn những người Ý lớn lên trong bếp. Họ không thấy việc quẩn quanh với đám xoong nồi có gì là hạ cấp. Trong phần lớn những năm hình thành tính cách họ đã quen thấy mẹ họ trước bếp lò.”

“Em hy vọng người giúp việc tuyệt vời của anh sẽ mang về cho anh những công thức nấu ăn mới thay vì mang về một cô vợ,” Dinah nói. “Em không muốn nhìn thấy sự xâm lược của bất kỳ người đàn bà nào vào cái thiên đường toàn đàn ông đó.”

“Đừng lo,” Alex Barr nói và rẽ khỏi đường cao tốc. “Chẳng có gì đáng lo cả. Nếu có vợ, thì Luke phải ra đi, và Luke biết điều đó.”

“Đó đúng là tính hẹp hòi của anh,” Dinah nói. “Một kẻ ghét người kinh khủng.”

“Trời ơi, thị trấn mới đáng yêu làm sao,” Penny nói. “Nhìn những cái cây tuyệt diệu kia xem. Chúng đang xoay kìa.”

Họ đã tiến vào con đường cấp hai, hai bên san sát những cây thích và cây sồi với tán lá đỏ pha vàng, tương phản với cái nền thẫm của cây thường xanh. Những thân cây bulô trắng bạc như những cọc rào sáng lóa giữa đám cỏ cây xanh thẫm, bên trên là những đám lá muôn màu sắc của mùa thu. Không khí trở nên mát mẻ hơn, mặt trời đang từ từ chìm xuống sau những ngọn đồi xanh xa xa hắt lên bầu trời những tia nắng cuối. Sự thay đổi chỉ trong ít phút từ một thành phố công nghiệp đầy khói bụi và con đường cao tốc đầy nghẹt xe cộ làm người ta sửng sốt.

“Đó là lý do tại sao anh yêu nơi này,” Alex nói. “Chỉ hai lần rẽ là đã được ở Kenya. Vài phút nữa là chúng ta sẽ về tới nhà.”

“Em hy vọng thế,” Dinah nói. “Bộ xương già của em bắt đầu ớn lạnh rồi.”

Anh ngoặt lái vào con đường rải sỏi, uốn cong giữa những cây bulô sáng bạc rực rỡ và chằng chịt dây tầm xuân, với những cây thông và linh sam lớn tạo thành một mái vòm trên lối đi. Hết con đường anh đạp phanh kêu ken két và dừng chiếc Cadillac một cách khéo léo sau ngôi nhà xây bằng đá. Rừng cây bulô gần như chiếm hết phần sân sau trải sỏi.

“Đến nhà rồi,” anh nói và đi vòng ra sau xe lấy hành lý. “Chúng ta đi lối cổng hậu, đúng như những người thành phố. Vào nhà qua đường bếp, tôi luôn nói thế, và xem xem ai đang ở trong nhà chính.”

Anh mở khoá cửa, ấn công tắc đèn. Căn bếp có vẻ thật vĩ đại, đầy những kỳ vật tráng men trắng bóng.

“Đây đúng là căn bếp tự tạo, ” anh nói. “Cái tủ lạnh đó đủ sức chứa một hai con bò đực thiến. Thậm chí một người lớn có thể nấu trong bếp lò, mà dù sao thì chúng ta cũng quay tất cả mọi thứ ở ngoài trời. Đi vào tổng hành dinh nào. Tốt hơn nên có một ngọn lửa, hoặc tôi sẽ lột da gã người Ý của tôi.”

Anh vứt phịch đống hành lý xuống cạnh hành lang rộng dẫn tới một khoảng không nhìn thẳng ra hồ. Nhưng khoảng không đó lại có một cái sàn lát đá và một lò sưởi bằng đá ở phía bên phải, và còn bị giới hạn bởi hai tấm kính lớn. Khung cảnh trông ra sườn và đỉnh một ngọn núi, với mặt hồ xanh lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời ở giữa. Chỗ dốc từ bậc cửa kính đến hồ hoàn toàn thẳng đứng. Bể bơi cạn hết nước trơ ra lớp đá lát đáy nằm bên trái, và tất cả được bao bọc bằng những cây bulô trắng bạc.

“Chúa ơi!” Dinah nói. “Em cứ nghĩ mình đã bước vào vũ trụ. Ở đây anh có một cảnh hoàn toàn chỉ là của anh. Làm thế nào mà anh xuống được dưới hồ? Lặn à?” Alex đang cúi xuống nhóm lò sưởi. Anh ngoái lại.

“Rất dễ. Em không thể nhìn thấy nó từ chỗ mỏm đất đặc biệt này, nhưng chỗ dốc xuống bên tay phải thực sự rất thoai thoải, và phong cảnh thì ít nổi bật hơn nếu nhìn từ những phòng khác. Trừ phòng trên gác. Anh xây chỗ này hơi nghiêng.”

Anh đứng thẳng dậy, vì miếng vỏ cây quăn queo của những khúc gỗ dùng làm củi bắt đầu kêu lách tách.

“Chỉ lát nữa là nó sẽ quay chín chúng ta. Anh có máy điều nhiệt dành cho mùa đông thực sự, nhưng anh ghét hơi nóng khi không cần lò sưởi cũng đã đủ ấm. Ở đây bọn anh hay ăn ngoài trời. Trong mùa đông ở đây nhận được nhiều ánh nắng. Còn bây giờ là quầy rượu.”

Anh quay lưng lại với cảnh vật, bước qua tấm gỗ sồi dài, trèo lên trên chiếc tủ chiếm đến một nửa tường phòng. Một cái đầu thú săn, một con vật có bờm màu đen với cái cổ hình cung và cặp sừng cong đen dài, ngạo mạn nhìn sang một góc hồ.

“Con gì đấy?” Dinah hỏi. “Nai sừng tấm ạ?”

“Không, không phải nai sừng tấm. Đấy là con chồn zibelin.”

“Ồ,” Penny nói. “Đây là con vật mà người ta đã làm ra những chiếc áo khoác rất đẹp!”

“Bác e là không,” Alex mỉm cười. Anh đã gặp hàng trăm lần câu nói này. “Con vật mà người ta làm ra những chiếc áo khoác đẹp là một loại chồn đen sống ở Nga. Còn đây là một loại linh dương chồn châu Phi, nó được gọi là ”chồn“ chỉ vì nó có màu đen.”

Giờ anh đã ở sau quầy rượu, trước một dãy chai lọ và đồ thuỷ tinh sáng lấp lánh xếp ngay ngắn trong các ngăn phía sau.

“Hai cô gái đang rét cóng muốn dùng gì nào?”

“Bất kỳ cái gì với gin, ” Dinah nói. “Chứ Gibson bây giờ thì rắc rối quá phải không?”

“Không đâu nếu em có thể đợi một giây để lấy đá,” Alex nói và biến mất trong bếp. Anh quay lại với ngón tay chảy máu và một cái xô mạ kẽm dùng trên máy bay, đặt phịch cái xô lên lỗ trống trên mặt quầy. Anh mút ngón tay bị chảy máu.

“Đã lâu rồi không có ai làm tan đông những thứ ở đây,” anh nói. “Luke bảo rằng một thằng ngốc trong làng có đảo qua đây mỗi tuần một lần. Anh đoán là hắn say khướt.”

“Anh muốn dán một miếng cao vào ngón tay đó? Em cho rằng chúng ta cũng có chúng dưới quầy.” Dinah nhấp một ngụm rượu. “Anh pha Gibson khéo lắm. Rất ngon.” Cô bước lại chỗ lò sưởi và quay lưng áo sơmi về phía ngọn lửa đă bắt đầu cháy đượm. “Em không biết tại sao phụ nữ lại luôn bị lạnh lưng hơn những chỗ khác, nhưng đó là vấn đề thực sự khoa học.”

“Khi em đã ấm lên đôi chút, anh sẽ chỉ cho em những phần khác của ngôi nhà, cũng như phòng của em,” Alex nói. “Trong khi đó, em trông kìa”, anh chỉ tay sang bên hồ phía xa. Năm con hươu, ba con đã lớn và một đôi hươu con một tuổi đang rón rén xuống uống nước. Cùng lúc đó, một đàn vịt đen bay đến đậu xuống mặt hồ làm nước bắn lên tung toé.

“Đó là điều anh muốn nói về nơi này,” anh nói. “Đây thực ra vẫn là thôn quê.”

“Không bắn thì chúng có bị xua đi mất không?” Penny hỏi.

“Chúng ta không săn bắn quanh vùng hồ này. Có khá nhiều hươu - quá nhiều nữa là khác trong vòng một dặm quanh đây, và chúng ta chỉ bắn những con vịt di cư ở cái ao đằng sau kia.”

“Em phải công nhận là ở đây rất đẹp,” Dinah nói. “Người ta có thể nghĩ mình đang ở cách xa quảng trường Times hàng triệu dặm.”

Trần nhà cao vút, còn phòng thì rộng mênh mông. Chiếc bàn vĩ đại chiếm trọn một góc phòng có kích thước bằng cả một căn phòng nữa.

“Chúa ơi, đây có phải là nơi tất cả những con voi già đến để chết không?” Dinah nói. “Penny, chúng ta lạc vào một vườn bách thú rồi.”

Alex có vẻ hơi buồn bã.

“Anh yêu mến những con vật của mình,” anh nói. “Con sư tử này là người bạn riêng của anh. Con voi này...” anh chỉ vào cặp ngà vĩ đại nằm bên trái lò sưởi, “con voi này anh đã mất gần hai tháng săn lùng. Còn con hổ này...” anh búng ngón tay vào con thú nhồi lông kỳ dị trên lò sưởi, “suýt nữa thì làm anh đứt họng. Nhưng phần nào chúng đã vỗ về anh. Ít ra chúng không làm anh nhớ đến những biên tập viên, nhân viên và nạn kẹt xe.”

“Thực sự bác đã bắn tất cả những con vật này à?” Giọng Penny có đôi chút kính sợ. “Như cái con gì xấu xí màu đen to tướng trên tường kia? Bác có bị sợ gần chết không?”

“Bác nghĩ vào lúc đó thì có đấy, đặc biệt là với cái con màu đen to tướng kia. Chúng được gọi là trâu mũi Cape. Thường thì đầu tiên người ta bị kích động, còn sau đó thì hoảng sợ. Bác nhớ là sau khi bắn con sư tử kia bác đã ngã nhào vào sau bụi cây.”

“Còn em chắc sẽ ngã nhào vào sau bụi cây trước khi em bắn con sư tử đó,” Dinah lẩm bẩm. “Anh thật sự có thể sống dễ chịu với tất cả những con vật mà anh đã... như chúng ta vẫn nói, tước đoạt tự do và săn đuổi hạnh phúc?”

“Em sẽ ngạc nhiên nếu biết anh có thể sống với chúng dễ chịu đến chừng nào. Chúng ngày càng ăn sâu vào máu thịt anh. Và nếu điều này có an ủi anh chút nào, thì phần lớn bọn chúng sẽ chết khá sớm. Chúng là những con đực già, đã qua tuổi sinh sản, bị xua đuổi khỏi bầy, và là biểu trưng cho những gì mà một người già nua ốm yếu sẽ gặp phải.” Giọng anh đột nhiên hơi nóng nảy.

“Cháu nghĩ là có sự khác nhau,” Penny nói, “ý cháu là nếu bác già, ốm, sắp chết và cô đơn...”

“Em không có ý tự kiêu,” mẹ cô gái nói. “Nhưng có phải em đang nhìn thấy ở đây ảnh hưởng của văn phong Hemingway?”

Alex dẫn họ đến ngồi trên chiếc ghế bành màu xanh đặt trước lò sưởi, và ngồi xuống đối diện chiếc bàn uống cà phê hình tròn, một cái lò than củi kiểu Ả rập bằng đồng. Anh đặt ly rượu lên trên.

“Anh cũng nghĩ thế,” anh nói. “Anh cũng đã từng bị buộc vào tội đó. Cả hai chúng tôi đều là người viết văn. Cả hai chúng tôi đều là thợ săn. Cả hai chúng tôi đều tranh giành trong đoạn kết thương mại của nghề nghiệp. Họ dựng lên những bộ phim tồi tệ về cái mà cả hai chúng tôi đã may mắn bán được, và chúng tôi được an ủi bằng tiền bạc. Cả hai chúng tôi đều thích cuộc sống lang bạt. Và dù sao đi nữa, ông ấy cũng là bạn cũ của anh.”

“Ô hô, em nghĩ là em đã chạm vào đúng chỗ đau,” Dinah nói khẽ. “Xin lỗi, em không có ý thô lỗ. Em có thể xin thêm một chút thứ rượu gin rất ngon này, và xem phần còn lại tòa lâu đài của anh được không?”

“Em đã được tha thứ,” Alex nói và đi về phía quầy rượu. Anh ngoái đầu lại và hất cằm. “Phòng vệ sinh nữ ở kia, nhưng anh e là em sẽ thấy một con lợn lòi châu Phi nhìn em chằm chằm khi em dùng cái phòng đó. Nếu em dễ bị chết khiếp vì lũ lợn rừng thì có một phòng vệ sinh khác ở ngay ngoài hành lanh bên cạnh, bên tay phải. Không có lợn lòi.”

Bà mẹ nhìn cô con gái.

“Em nghĩ là chúng em cũng có đủ bản lĩnh,” cô nói.

“Cháu nghĩ bác khá khủng khiếp,” Penny quay sang mẹ, “Bác ấy cũng rất tự hào về ngôi nhà của mình... và con nghĩ, bác ấy cũng cô đơn trong đó, bất kể bác ấy đã nói gì về cái ông Luke kia.”

“Chúng ta sẽ cố bù đắp cho bác ấy,” Dinah nói, “Bác ấy mang rượu quay lại kìa.”