CHƯƠNG 104
Alex quyết định sẽ tản bộ thong thả dọc đại lộ Chính Phủ và thưởng thức bầu không khí mát mẻ sảng khoái đang nhanh chóng bao phủ Kenya vào lúc bảy giờ tối. Ở đây anh sẽ không dừng lại để uống một ly: hàng hiên của Norfolk sẽ đầy những kẻ thô lỗ trong những chiếc quần dải rút, những bộ soóc xắn cao nói về việc quay trở lại Nam Phi, và họ sẽ cãi nhau khản cổ. Những người anh quen trong thành phố trước đây giờ không còn tới Norfolk thường xuyên nữa. Hình như họ khoái New Stanley hơn kể từ khi Burrows chuyển đại bản doanh của ông về đó, và Grill quả thực là một tiệm ăn ngon, hơn tất cả các tiệm ở châu Phi và gần bằng những tiệm ở London. Ơn Chúa, thật tuyệt lại được bảnh bao, đi ăn tối ở tiệm Grill yên tĩnh, mong nhìn thấy một vài người dễ chịu mà anh đã quen khi đi ngang dọc trên khắp lục địa này. Nairobi là trung tâm đầu não của giới thạo tin châu Phi; có lẽ người ta chỉ chịu đựng được Cônggô và Tây Phi nhiều đến thế trước khi quay về để bộ tóc được cắt cho đúng kiểu và thân hình khô ráo sạch sẽ. Thành phố đã phát triển vượt bậc trong mười năm trở lại đây và giờ đây người ta không còn lạ gì khi nhìn thấy những khuôn mặt đen ở Grill hoặc ở phòng ăn tối trên gác - như những khách hàng thay vì như những người phục vụ.
Xem xem nào. Ngày mai anh cần gọi điện thoại cho Jill mặc dù anh sợ việc ấy. Trước đó anh đã gọi điện cho cô một vài lần từ những thành phố khác nhau trên lục địa này, và kết quả luôn như nhau. Sau một hồi chờ đợi dài lê thê, cuộc nói chuyện lúc nào cũng bị ngắt quãng. Đường truyền kém dần và bạn phải kết thúc cuộc gọi với sự chán nản, vì một người trực tổng đài người Phi hay Á nào đó đã cắt liên lạc đúng điểm ngừng đầy hàm ý trong cuộc trò chuyện. Một lần họ đã ngắt cuộc nói chuyện của anh - và nó đã bị ngắt trong hai ngày - đúng lúc
Marc Mantell đang nói: “Và giá của bộ phim là đôi lúc phải cố mà chợp mắt với chỗ bỏ lửng đó, anh nghĩ, nhất là nếu bạn đang cần tiền.”
Đúng, ngày mai chắc chắn anh sẽ gọi điện cho Jill, người hẳn là đang ủ rũ vì sự vắng mặt của anh còn kéo dài thêm mấy tháng nữa. Trừ phi viên đại tá tốt bụng, tên ông ta là gì ấy nhỉ, Smather hay gì đó đại loại như thế, vẫn chăm nom cô ấy. Viên đại tá - giờ thì anh đã nhớ ra, tên là Chalmer - là người thay thế nhạt nhẽo cho sự sôi nổi đầy ấn tượng mà Alex Barr phải tạo ra. Viên đại tá đội mũ quả dưa, còn Alex Barr đội mũ rộng vành hoặc mũ nồi kiểu cảnh sát ngang tàng. Viên đại tá bán cổ phiếu, trái phiếu và hằng ngày tới City, trong khi Alex Barr uống rượu ngọt beneđictin trong lều với những ông vua thổ dân to béo, viết những bài báo, dựng những cuốn sách lớn và hay, và - ngươi thật đê tiện, Barr - đôi khi ngã vào giường với một cô ả tình cờ quen biết trong một khách sạn Cônggô, nơi có cánh cửa được canh gác bởi hai thần hộ pháp đen như gỗ mun. Viên đại tá mang cà vạt của trường cũ, còn Alex Barr mang cái không khí vui vẻ hung hăng. Nhưng viên đại tá thật hữu ích, và Alex Barr thật sự vui mừng vì chí ít người đàn bà yêu dấu của anh có việc để làm vào những buổi tối, trong khi Alex Barr còn đang mải ba hoa như ngài Richard Burton về cuộc phiêu lưu mạo hiểm của mình.
Ngày mai anh sẽ sắp xếp lại một lượt, và trong khi gọi điện cho Jill, anh sẽ xem liệu có thể nhân tiện gọi cho Amelia không. Nếu Jill lo cho sự an toàn của anh - mà cuộc chiến ở Cônggô hẳn phải là tiêu đề của vô số tờ báo, với cả nước Mỹ có dính líu vào đó - thì Amelia sẽ còn lo lắng hơn. Mà ít nhất đã sáu tuần nay anh không viết gì cho Amelia. Nếu anh không gọi điện cho cô - mà thật khó nói chuyện với cả vợ và người tình trong cùng một ngày - thì ít ra anh cũng nên bỏ phí một bức điện để báo rằng vẫn chưa có ai ăn thịt anh. Có lẽ cũng nên điện cho Marc để tỏ tường về người trợ lý mới. Việc đó anh sẽ làm sau khi sắp xếp lại đống thư từ mà không còn nghi ngờ gì nữa, hiện đang trên đường tới khu phòng của anh ở Norfolk. Đêm nay anh không muốn nín thở và nghĩ đến những lời kêu ca từ phía bên kia của thế giới. Anh không muốn biết những tin tức mới nhất về tai tiếng của cha anh, mẹ anh và em trai anh. Anh không muốn nghe bất cứ lời phàn nàn nào từ phía Amelia - và, thật kỳ quặc, anh không muốn đọc những bài tường thuật về mùa tụ hội của London hoặc những lời giục giã mong anh chóng trở về. Nhất là anh không muốn đọc bất kỳ lời nhắc nhở nào về việc vận hành bộ máy li dị khi chuyến công tác này kết thúc.Trong một lát, Alex Barr đã thành tâm hy vọng rằng chuyến công tác này sẽ không bao giờ kết thúc.
Ồ, anh đã ở đây, phố Hardinge, chen lấn giữa đám đông những kẻ nghiện rượu, trước tiền sảnh tiệm New Stanley sáng chói. Anh đi lên quầy bar trên gác, chứ không vào quầy bar lớn, nơi luôn đầy những tên thực dân già đê tiện bảo thủ luôn than thở vì thời thế đổi thay, và uống mội hai cốc với hạng khách vãng lai. Ở đó nhất định sẽ có một vài người mà anh biết - Peter Younghusband của báo Mail, Ross Mark ở tờ Express, một vài người của những tờ báo ba xu khác. Họ sẽ vui lòng trao đổi một vài tin tức - người ta không thể cùng một lúc biết hết mọi chuyện ở châu Phi. Có lẽ họ cũng vui lòng với một sự giúp đỡ nho nhỏ: ấy là có thêm một đôi chân nữa. Thế rồi triển vọng về một bữa tối ngon lành với Albért lịch sự mỉm cười, những người phục vụ địa phương vui mừng được thấy Bwana trở về nhà, và anh biết chính xác mình sẽ được ăn món gì. Anh sẽ được ăn khoảng ba mươi sáu con sò Mombasa nhỏ xíu, một con cá bơn Dover to như tấm thảm tắm, một đĩa salát xanh xanh với pho mát Rôcơpho, và một coupe Đan Mạch với ba nghìn calo trong nước sốt sôcôla của nó. Anh sẽ uống nguyên một chai Châtteauneuf du Pape, bất chấp món cá, vì tối nay anh thèm rượu vang đỏ. Anh sẽ uống một hai ly brandy và vui lòng với tất cả mọi thứ vì ông bạn Burrows của anh sẽ trả tiền. Rồi anh và Burrows sẽ tới Câu lạc bộ Xích đạo một lát, và cuối cùng tạt vào phòng của viên quản lý, uống rượu của viên quản lý và chơi nhạc của viên quản lý. Anh sẽ uống say và không quay về Norfolk, nhưng ngày mai anh sẽ thức dậy với cái đầu nặng như búa bổ và đối mặt với những việc vặt vãnh mà anh ghét nhất trần đời - đó là gọi điện về London để bảo Jill rằng anh chưa có ý định về nhà vào lúc này.