← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 106

Alex đứng dậy khỏi chiếc máy chữ, vươn vai, và lấy mấy ngón tay bóp bả vai phải đang đau ê ẩm. Ông gập cánh tay phải vào, đưa lên đưa xuống vài lần. Ông luôn nói khi viết xong một bài phóng sự nóng hổi. Mặc dù từ lâu ông đã qua cái thời làm một phóng viên tin nhanh. Giờ đây, gần mười hai năm sau, cứ mỗi khi ông tức giận đá chiếc máy chữ vì cáu kỉnh với câu chuyện mà mình đang viết, thì vai ông lại đau và lưng mỏi như dần. Còn hôm nay thì ông thấy người nhức nhối như mọc nhọt.

“Một bài viết khá hay, đầy tính thời sự cho một nhà văn già“, ông lẩm bẩm, và đi tới chỗ bàn để với lấy bình cà phê bằng bạc. Bình cà phê nguội ngắt. Ông nhún vai, xoa bóp bên vai đau lần nữa, rồi đổ chừng hai đốt tay rượu Scotch vào chiếc ly đã hơi mờ xỉn. Đá đã tan trong chiếc tô lớn, vì thế ông đổ chỗ nước lạnh vào ly. Ông nhấp một ngụm, và châm thuốc. “Một bài báo khá hay,“ ông lại nói. ”Mình tự hỏi liệu ai sẽ đọc nó trong năm nay?”

Bây giờ mỗi khi gọt bút chì, môi ông thường mấp máy theo, và đôi lúc vai ông hơi giật nhẹ khi gặp một động từ mạnh hoặc một tính từ đúng. Đấy là cái mà trong những ngày đáng hài lòng hồi xưa ở văn phòng người ta vẫn gọi là “loại bài tâm huyết của Bar”.

“Cái ấy là để khởi đầu,” Alex Barr nói trong khi gấp tập giấy đã chỉnh lý và nhét nó vào chiếc phong bì giấy màu nâu có ghi chữ Bản thảo đầu tiên ở góc, sau đó đặt chỗ giấy than đã chỉnh lý vào một phong bì thứ hai có đánh dấu Bản thảo thứ hai. Chiếc máy bay đầu tiên có thể bị rơi: khả năng bức thư mới đây không đến nơi là một triệu trên một. Ông với điện thoại, định gọi người đến lấy bài, nhưng giọng nói của người trực tổng đài đã cắt ngang yêu cầu của ông trước khi ông kịp bắt đầu.

“Tôi vừa mới gọi cho ông, ông Barr,” điện thoại viên nói. “Có ông Burrows.”

“Nối máy cho ông ấy đi,” Alex Barr nói. “Sang chỗ tôi đi, Brian. Tôi vừa làm xong một việc thực sự là nặng nhọc. Trong những ngày này tôi là một nhà văn nhàn rỗi, bây giờ tôi đã có một trợ lý thực địa rồi.”

“Đó là chuyện khiến tôi phải gọi cho ông,” viên quản lý nói. “Tôi có một bức điện gửi ông đây. Ông không còn người trợ lý nữa. Anh ta vừa mới chết. Tôi mang điện đến cho ông nhé.”

Đó là Burrows, tái nhợt và dữ tợn. Alex đưa cho ông ta cốc rượu và giơ bức điện ra trước ánh sáng. Ông đọc to, theo thói quan, như thể để tự thuyết phục mình rằng không có điều gì phải giấu giếm. Bức điện được đánh số G371 WASHDC454566512 TRDIO. Nó viết:

“ORDE ĐÃ BỊ SÚNG MÁY CỦA QUÂN ĐỘI CÔNGGÔ GIẾT CHẾT KHI ĐANG LẤY TIN VỀ TRẬN CHIẾN BAKWANGA. ĐANG GỬI TỚI MỘT TRỢ LÝ MỚI DƯỚI QUYỀN, CẬU CÓ ĐỀ NGHỊ GÌ ĐẶC BIỆT KHÔNG? CHÀO SCHELL.”

Alex Barr đọc lại bức điện, rồi vò nát và ném vào sọt giấy vụn. Ông đi đến chỗ chiếc máy chữ, gài một tờ giấy trắng xuống dưới trục lăn. Ông gõ nhanh trên các phím chữ, rồi rút tờ giấy ra. Ông đưa nó cho viên quản lý Burrows.

“Gửi đi hộ tôi, gấp nhé,” ông nói.

Burrows ra hiệu chào cẩu thả và đi ra cửa. “Ông là người rất kiệm lời,” ông ta nói.

Người trực phòng đã đến, để đáp lại, nhận tiền thưởng, và đi khỏi. Alex Barr pha cho mình một ly rượu mới vào một cái cốc sạch, rồi ngồi xuống đivăng. Ông gác chân lên bàn cà phê, và mở khóa cho ý nghĩ chảy tràn. Rồi ông với lấy bài báo vừa viết nhưng không gửi và đọc lại nó thật chậm rãi.

Cần phải có sơ lược tiểu sử của Orde trong bài viết này. Nó sẽ hợp tuyệt vời với bài báo. Châu Phi đã lấy lại cái của nó. Tất cả mọi người đều bình đẳng dưới ba thước đất. Hoặc ở đoạn cuối của sợi dây. Câu chuyện của Peter Poole đã lặp lại. Cái này có hợp với cái kia không? Có thể trộn họ vào nhau không? Họ có chung điều gì, ngoài mảnh đất châu Phi? Poole đã giết và đã bị giết như một sự trừng phạt. Châu Phi đã giết Poole cũng là châu Phi đã giết chàng trai Orde - cũng là châu Phi đã giết những nhà truyền giáo, những người khai phá và những thổ dân hoang dã của nó trong những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, trong bão tố và nạn đói; đem cái chết đến bằng thú dữ, bằng sốt, bằng rắn độc, bằng tên, bằng giáo, bằng sự buồn chán, bằng sốt rét, đái máu, kiết lỵ, sốt rét, bệnh mất ngủ và rượu. Châu Phi ôm lấy mọi thứ trong vòng tay ẩm ướt vĩ đại của nó, trong vòng tay ẩm ướt hôi thối nóng nực của nó, giống như một bà mẹ ghen tuông, chỉ cho phép những đứa con lang thang trong tầm với của mình và sẵn sàng gọi chúng về để bóp nghẹt chúng.

Mình hy vọng họ sẽ chôn cất cậu ấy. Alex nghĩ. Thịt không giữ được lâu trong cái khí hậu này. Ông biết gì về Larry Orde nhỉ? Larry Orde mới gần ba mươi tuổi, mà cũng có thể cậu ta đã ba mươi. Chàng thanh niên vừa mới bắt đầu sự nghiệp và đang phát huy cái trí tuệ người lớn của mình. Và Alex Barr nhớ tới những ngày xa xưa, khi ông hồi hộp vênh vang trước kiến thức uyên thâm của một người khác. Hồi ấy hình như tất cả đều rất khó khăn và vô cùng kích động để được chịu đựng. Cuộc đời hạnh phúc ngắn ngủi của Larry Orde, người đã không thể đợi để chết.

Đúng, đó là một chàng trai hấp dẫn, đủ to cao để làm một lính thuỷ đánh bộ giỏi - quá trẻ đối với cuộc chiến tranh lớn mới đây, và hầu như quá trẻ đối với một cuộc chiến lớn hơn Triều Tiên. Cậu ta thật sắc sảo. Chẳng cần phải nói nhiều với cậu ta. Không nghi ngờ gì là cậu ta xuất thân từ một gia đình tử tế, nhưng bị hành hạ bởi niềm say mê báo chí, và nhất là, rất đặc biệt, cậu ta muốn trở thành một phóng viên nước ngoài. Chắc hắn cậu ta đã đọc tất cả các sách và xem một số bộ phim. Chàng trai cười to trong chiếc áo tơranhcốt lem luốc, chiếc mũ phớt mềm bẹp rúm và cái máy chữ xách tay - đó là chàng trai luôn cợt nhạo đã từng sải bước trên mặt đất, được dòng máu nuôi dưỡng và bị bắn gục bởi một tràng súng xa lạ.

Alex thậm chí không biết Orde đã học ở trường đại học nào, hoặc thậm chí liệu cậu ta có học đại học hay không. Nhưng chắc là có, vì chắc hẳn gia đình cậu ta phải có đủ tiền. Vào thời buổi này tất cả mọi người đều có đủ tiền. Quê cậu ta ở đâu đó ở miền Tây. Trước đâu cậu ta đã từng làm cho một trong những tờ báo tỉnh lẻ, và sau đó chuyển sang Big Apple làm một phóng viên Washington rất trẻ cho một trong những đài phát thanh miền Tây. Sau đó cậu ta được đưa lên làm việc cho Cục thông tin. Trong một thời gian rất ngắn cậu ta đã vượt qua những người khác, những người mệt mỏi hơn, và trở thành - đã trở thành - cho mãi tới vừa mới đây, cậu bé chạy việc vặt dành riêng cho tin trang nhất, vì lòng nhiệt tình vô giới hạn và sự lĩnh hội hoàn hảo.

Đó là cuộc đời đang yêu của một chàng trai trẻ chưa có người phụ nữ nào cầm chân ở nhà. Một phóng viên nước ngoài nắm bắt được tất cả sự hứng khởi của chiến tranh, ngoại trừ việc người ta không được dính líu vào một cách quá cá nhân khi xem những người khác đánh nhau. Nhưng nguy hiểm đã tăng lên, cho dù bạn là người tốt và thường tới những nơi có tiếng súng.

Giờ thì Larry Orde đã chết. Chết bởi bàn tay của một người mà anh ta chưa bao giờ biết, có lẽ thậm chí hiện giờ người ấy cũng không biết mình đã bắn vào ai hoặc vào cái gì và liệu có bắn trúng hay không. Bị giết chết bởi một kẻ mọi rợ nào đó sẽ xẻ thịt anh ta ra để nướng nếu hắn có đủ thời gian. Có lẽ Larry Orde đã bị giết chết bởi một cây cung, một cái giáo, một cái chông có tẩm thuốc độc trong hố, hoặc một cái thòng lọng. Nhưng đã bị giết chết, lạy Chúa, cái chết mà Adolf Hitler, Hiroshito, Joseph Stalin hoặc Mao Trạch Đông đã nhìn thấy.

Chẳng có gì chết hơn là cái chết, Alex thầm nghĩ, cho dù họ có chặt cổ anh, buộc anh trên ghế điện, ném bom H vào đầu anh hay làm cho anh nhiễm loại virus gây bệnh hoàn toàn mới. Lawrence của Ả rập đã sống rất thọ và rồi bị tóm trong một tai nạn giao thông; vỏ chuối và bồn tắm hằng ngày vẫn vẫy tay với nấm mộ. Nghĩ về tất cả những người quen biết giờ đã ra đi, đột nhiên Alex Barr cảm thấy mình thật già nua, mệt mỏi và cô đơn.

Rồi ý nghĩ của Alex đột nhiên dừng lại. Có lẽ Larry Orde không định sống lâu đến mức trở nên giễu cợt mọi thứ, kể cả khả năng chết. Chết đi, theo hàm ý vĩnh viễn, có nghĩa là không còn người đàn bà nào nữa, không còn miếng bít tết lòng đào nào nữa, không còn ánh trăng và ánh mặt trời nào nữa; không còn ý thức nào về hương vị mơ màng trong trẻo mùa thu; không còn sự rung động nào về những thiếu nữ đương thì mơn mởn của mùa xuân; không còn cái lạnh giá của mùa đông; không còn cảnh thanh bình yên ả với người đàn bà bên ngọn lửa hồng; không còn giấc ngủ tháng Tám thiếp đi bên người tình ngọt ngào và dịu dàng.

Ông vẩn vơ nghĩ về những cô gái mà Larry Orde đã quen. Trẻ và đẹp trai như thế, hẳn cậu ta phải quen ối cô gái. Trong số hàng trăm cô sẽ có bao nhiêu cô nhỏ lệ? Hẳn phải có hơn một người đã tuyệt vọng chia tay cậu ta. Một số đã biết cái dáng vóc ấm áp của tấm thân trai trẻ đó, cái nắm tay đầu tiên và những nụ hôn vội vã, rồi sau đó sự quen biết đảm bảo cho thói quen, cho mối thân tình kiểu anh tiện tay với hộ em cái khăn tắm. Không còn gì dành cho Larry Orde nữa, không còn những buổi dã ngoại tắm nắng trên bãi biển, với hương vị mằn mặn, ấm áp và sạch sẽ của một cô gái; không còn cái khít khao của chiếc áo khoác cắt khéo mặc bên ngoài chiếc sơmi mới giặt hồ bột cứng mát lạnh âu yếm vuốt ve cơ thể và cảm giác hưng phấn của một ly martini trước bữa tối. Không còn golf, không còn lướt ván, không còn săn chim; không còn những cuộc trò chuyện thú vị bên ly whisky trước ngọn lửa hồng. Không còn hồi hộp khi máy bay hạ cánh xuống những vùng đất xa xôi kỳ lạ; không còn sự hào hứng đến thắt ruột khi tới vùng đất xa xôi, mới mẻ và kỳ lạ này, để vật lộn với những vấn đề mới; không còn những cái vẫy tay tạm biệt, không còn những nụ cười chào đón. Không còn gì cả, không ánh sáng, không âm thanh, không mùi vị, không cảm giác. Chỉ còn một khoảng không đen ngòm vĩ đại bị lãng quên đời của những bước đi nặng nhọc theo thời gian về nơi vô tận.

Ồ, mà tất cả những điều này đã trở nên thông thường với người như Peter Poole, đúng không? Anh ta đã giết hơn một người Phi, có lẽ là một số người, với sự công bằng. Nhưng người cuối cùng đã bị giết một cách bất công, như Larry Orde đã bị giết một cách bất công, và thế là tối hôm qua họ đã treo cổ anh ta vì điều đó. Nhưng cả hai người ấy đều đã chết, và cái khoảng không dành cho Larry Orde cũng sẽ dành cho Peter Poole.

Chuyện này chẳng làm ông đi đến đâu cả. Ông đặt giấy vào máy và xoa hai tay vào nhau, sắp xếp lại ý nghĩ, chờ cho các con chữ tuần tự xuất hiện. Giống như trên trang báo. Các con chữ luôn xuất hiện. Bằng một cách nào đó, nó sẽ xuất hiện. Giờ thì nó đã xuất hiện:

Larry Orde là một thanh niên đầy tham vọng, khả năng và may mắn. Alex viết: Anh may mắn vì anh đã không sống lâu đến mức trở nên mỉa mai chua chát với điều mà anh đã yêu, đó là sự nghiệp của anh, cái đã làm anh ngã xuống trong một khu rừng rậm gần thị trấn nhỏ Bakiuanga của tỉnh Kasai ở Cônggô thuộc Bỉ. Cùng chết với anh là một thành niên người Anh có tên là Peter Poole, người vừa bị treo cổ tối hôm qua ở nhà tù Nairobi vì tội đã giết một người Phi. Cả hai chàng thanh niên có một điểm chung: Châu Phi đã giết chết cả hai người bọn họ như châu Phi đã và đang giết biết bao người, bất kể tội lỗi của họ, sự vô tội của họ và màu da của họ.

Larry Orde... Alex đều đều gõ lên bàn phím. Đấy sẽ không phải là một đoạn chèn thêm quá dài, vì ông biết rất ít về người mà ông đang viết. Nhưng nó sẽ vừa xinh với đoạn trước. Mà những điều ông biết về đất nước này thì quá dài và quá phức tạp để đưa vào câu chuyện về một chàng thanh niên táo tợn và vui vẻ đã đột ngột yên nghỉ vĩnh viễn bởi một viên đạn vu vơ ngu ngơ của một tên mọi rợ đang hú hét. Hình như ông đã viết xong chỉ trong vài phút ngắn ngủi, ngắn ngủi như cuộc sống trong cái thời buổi này.

Ông đóng máy chữ lại, rót thêm cốc rượu nữa, và gọi điện xuống quầy lễ tân để kiểm tra lịch giờ bay tới Cônggô. Vừa kẹp ống nghe đang vo vo phát ra một giọng nói buồn tẻ, ông bắt đầu thu xếp hành lý, như ông đã thu xếp hàng ngàn lần trước đây. Chẳng có ai để chia tay: bây giờ ông sẽ tới Grill để ăn tối, rồi ông sẽ tới câu lạc bộ Equator uống vài ly, và sáng mai ông sẽ dậy sớm để đóng nắp vali, ký hóa đơn khách sạn, và lại bay tới Cônggô. Ông sẽ biết một vài người ở đó. Đột nhiên, đối với Alex Barr, việc đến Cônggô hình như vô cùng quan trọng. Một trong số các phóng viên sẽ đón ông, và ông sẽ viết một bài nữa thật chi tiết, chi tiết hết mức có thể, về cái chết của Larry Orde. Và sau đó ông sẽ tìm kiếm thêm một vài câu chuyện nữa, những câu chuyện sẽ không bị che phủ bởi dịch vụ điện báo và những phóng viên đưa tin đáng tin cậy đang chất đầy trang nhất các báo về những thay đổi tư tưởng của Patrice Lumumba.

Khi chiếc túi đeo vai bằng da của ông đã chất đầy những thứ cần thiết để viết lách, cộng thêm một bao thuốc, một chai whisky và một hai cuốn tiểu thuyết; khi chiếc túi hiệu Valpak của ông đã chật căng bộ áo vét và áo sơmi dự phòng, và khi chiếc vali đựng máy chữ đã mòn vẹt của ông đã đóng khóa chắc chắn, Alex Barr, tiểu thuyết gia, nhà báo lưu động, sẽ rời Nairobi để tiếp tục cuộc phiêu lưu của Larry Orde ở nơi mà nó đã đột ngột bị cắt ngang bởi viên đạn từ khẩu súng của một người lính Cônggô đang thèm khát uống dòng nước đầy chất độc của quyền độc lập.

Theo phản xạ ông đưa mắt kiểm tra phòng một lượt. Trên bàn viết có một tờ giấy mà không hiểu vì sao không bị cất vào cặp tài liệu. Alex nhặt tờ giấy lên, và đọc lại nó, theo thói quen cũ mỗi khi sắp xếp hành lý. Tờ giấy viết:

“TRUNG TÂM BÁO CHÍ COSMIC WASHDC GỬI SCHELL, KHÔNG GỬI, NHẮC LẠI KHÔNG GỬI TRỢ LÝ MỚI THEO DÕI CUỘC CHIẾN Ở VÙNG KASAI. ÔNG KHÔNG MUỐN TÔI MỘT MÌNH HÃY GỬI NGƯỜI MỚI RỒI THU XẾP CÔNG VIỆC ĐANG BỪA BỘN. CÁC MẶT KHÁC KHÔNG SAO BARR”

Alex quẳng bức điện đã gửi vào sọt giấy vụn. Chỉ đến khi lên máy bay ông mới nhớ ra rằng vẫn chưa thể gọi điện cho Jill Richard ở London.