CHƯƠNG 108
“Đôi chân”. Alex Barr lầm bầm. “Đôi chân khốn nạn,” ông nói. “Đôi chân chết tiệt. Đôi chân mà mình không có thêm nữa.”
Thật nực cười là chân của một phóng viên lại quan trọng hơn cái đầu của anh ta. Người đã nói câu ấy - chàng thanh niên Orde, giờ đã chết và chẳng còn chân - đã hứa rằng anh ta không dám đảm bảo về cái đầu, nhưng dám đảm bảo rằng anh ta có một đôi chân dài. Schell đã cử Orde tới để thêm chân cho Alex, và giờ thì Alex, vì sự kiêu ngạo của tuổi trung niên, đang có thêm cho mình cả chân lẫn đầu.
“Xuẩn thật,” Alex Barr tự nhủ và lóng ngóng bước vào cái buồng tắm bé xíu cáu bẩn. Alex Barr biết khá rõ loại buồng tắm trong loại khách sạn ở loại thành phố của loại đất - nước mà ông đang tạm trú, trong cuộc tìm kiếm vô ích tuổi trẻ - cái ý nghĩ cho rằng nếu người ta kết hợp được ý muốn trả thù với hành động siêu nhân, người ta sẽ có thể trở lại thành Larry Orde. Tất nhiên, không phải là bạn có thể mang Larry Orde trở lại. Nhưng bạn có thể mang Alex Barr trở lại trong hình hài của Orde. Cùng với đôi chân. Đôi chân chết tiệt.
Khi nằm dài trong bồn tắm, Alex xem xét đôi chân mình, ở nghề báo, người ta có một từ: chân chạy. Chân chạy là vị trí mà hồi mới bắt đầu chập chững vào nghề, Alex đã từng làm, một anh chàng với rất nhiều tinh quái và khả năng vô hạn để chạy quanh, chờ đợi một điều gì đó xảy ra.
Giờ thì đôi chân còn có ý nghĩa hơn thế. Đôi chân bây giờ có nghĩa là bao nhiêu lâu bạn lại phát ốm vì thứ đồ thừa cần tống khứ từ từ trong vô số khách sạn - hoặc không trong khách sạn nào cả. Đôi chân có nghĩa là bạn không chịu được thứ tỏi địa phương, thứ nước địa phương, thứ rượu địa phương. Đôi chân có nghĩa là bao nhiêu chuyến bay bạn bỏ lõ trong một ngày - bao nhiêu cuộc liên lạc điện thoại mà bạn không thể thực hiện, bao nhiêu mẩu tin mà bạn không thể nhận được qua bưu điện địa phương, bao nhiêu chiếc xe mà bạn không thể thuê. Đôi chân có nghĩa là bao nhiêu thứ bạn phải mua, phải hối lộ và đôi khi phải ăn trộm.
Alex Barr ngắm nghía đôi chân. Ông đang nằm trong cái bồn tắm bé xíu duy nhất của cái khách sạn tồi tàn - và duy nhất ở một vùng bẩn thỉu có tên là Kismayu ở Somali. Trước đó, một cô ả da đen đòi tiền ông vì ông đã ngồi ở quầy bar tệ hại nhất của cái khách sạn tệ hại nhất ở cái thị trấn tệ hại nhất của một trong những vùng tệ hại nhất của một đất nước khó mà chịu đựng được trên thế giới. Cô ả đòi tiền, vì, cô ta nói đơn giản: “Tôi là người da đen.”
Ông đã sống sót qua cuộc đấu dao với một tên săn trộm thuộc shiftas Somali. Shiftas - những băng cướp hoành hành ở vùng biên giới - muốn lấy chỗ nước của Alex, được chứa trong mấy cái can trên xe. Chúng đã bắt lạc đà lại và đề nghị được lấy chỗ nước đó, bằng mấy con dao. Alex không có một thứ vũ khí nào ngoại trừ cái panga[53]. Panga, ông ngẫm nghĩ, hoàn toàn được nếu nó không bị mạ thiếc, và cái của mình thì lại bằng thiếc nguyên chất. Nhưng dù sao trông nó cũng đáng sợ, khi mình vung con dao chặt mía cũ kỹ đó lên với gã cưỡi lạc đà, ít nhất thì nó cũng đánh lạc hướng sự chú ý của hắn đủ cho anh bạn thợ săn da trắng của mình bắn vỡ sọ hắn bằng một ánh chớp. Mình không biết chắc Mike thường đã dùng loại pin gì cho ánh chớp ấy, ông nghĩ, nhưng chúng hẳn phải chứa rất nhiều chì.
Hôm nay chúng ta chỉ bị bắt có ba lần trong cái đất nước Somali đáng yêu mà giờ đã tự do này, và tất cả những trợ lý có học đến thăm đều là sỹ quan quân đội từ Cairo, một dạng ảnh hưởng văn hóa. Chí ít thì chúng cũng quát tháo và chào hỏi theo cách mà không một trợ lý có giáo dục nào từng được học. Vì thế ngày mai mình sẽ lại tới nhà giam, Alex nghĩ. Mình chán ngán việc phải tới nhà giam trong khi chúng đọc ngược tài liệu. Mình không thể hình dung ra bọn Wop muốn gì ở cái thiên đường đáng nguyền rủa này. Phải chăng chúng muốn khoanh vùng biên giới phía bắc của Kenya. Có thêm chuồng cho lạc đà, cho dù chúng phải giết những con voi.
Việc đi tới nhà giam có vẻ hơi ngu ngốc, nhưng chừng nào mình và Mike còn trở đi trở lại đó, thì bọn chúng còn tỏ ra hài lòng. Mike có rất nhiều sáng kiến hay, mặc dù cậu ta thường phải trả bằng giá đắt. Chẳng bao giờ biết cái gã đã chầu trời vì phát súng của cậu ta. Vì thế bây giờ mình sẽ trở lại nhà giam và có thể chúng sẽ để Mike về tắm rửa. Nhà tù rất thiếu chỗ tắm, mình tin như thế. Không biết nhà tù có giống ở Mogadisu không nhỉ? Đừng nói cho tôi biết vội; tôi sẽ tìm hiểu.
“Chúng vừa để luật sư của chúng ta vào xong,” Mike nói tại khu phòng Aga Khan của khách sạn Langham ở Johanesburg. “Ông có nghĩ đã đến lúc chúng ta đi không?”
“Tôi nghĩ thế,” Alex Barr nói. “Cậu cũng biết câu thành ngữ cũ nếu mùa đông tới, vân vân. Việc bảo lãnh như thế nào?”
“Ông không biết là tôi đang ăn ở với một nữ tiếp viên hàng không à,” Mike nói. “Chúng ta đang trên chuyến tốc hành chạy tới Nairobi.”
“Nhìn này,” Alex nói với Mike. “Đây là Ethiopia, và ông bạn cũ là Hoàng đế. Cậu phải cúi chào khi đi vào. Cố đừng đi qua những con sư tử nuôi trong nhà khi cậu cúi chào để đi ra.”
Mike đảo mắt nhìn quanh.
“Và ông phải nhớ là tôi vẫn thường bắn chúng để kiếm sống,” anh ta nói.
“Bắn cái gì?”
“Sư tử và bọn Wog,“ Mike nói. ”Tôi nghĩ chúng ta cần một chiếc cà vạt cho dịp này?”
“Dứt khoát là thế rồi. Người ta không ra mắt Vua mà không thắt cà vạt. Chưa nói tới những con sư tử trong cung.”
“Nghe nói ở đây tỷ lệ bệnh hoa liễu là chín mươi bảy phần trăm,” Mike nói.
“Tôi không biết. Nhưng tài sản thật sự là sở hữu chín mươi bảy phần trăm số nhà cửa. Hắn ta sở hữu chúng dưới tên của bà vợ. Bao gồm cả khách sạn này.”
“Thế còn những mỏ vàng, cùng với nô lệ?”
“Không đứng tên vợ. Của cải hằng tuần được chở đến Thụy Sỹ bằng máy bay riêng của hắn.”
“Chúng sẽ đưa chúng ta tới Ogaden?”
“Ồ, lạy Chúa, không.” Giọng Alex đầy vẻ khiếp sợ. “Đó là nơi cấm lui tới. Đó là vùng đất không bóng người. Ngay cả Vua cũng không tới đó, nếu không họ sẽ cắt”.
“Thế là đủ cho tôi,” Mike nói. “Chỉ có hai chủ và một khách, còn tôi là khách của chính tôi. Thế còn những người Nga ở đây thì sao?”
“Cậu có thể nhìn thấy ngôi nhà mới của họ,” Alex nói. “Thuê mượn.”
“Nhưng tiền chẳng còn giá trị gì nữa, ngay cả trong đất nước của chính chúng.” Mike nói.
“Tất nhiên là không rồi,” Alex trả lời. “Họ sản xuất tiền ở Tiệp Khắc.”
“Nhưng đây là Guinea.”
“Họ vẫn đang sản xuất tiền ở Tiệp Khắc.”
““Thế họ dùng loại tiền nào?”
“Đôla,” Alex nói. “Hoặc có thể là franc Thụy Sỹ. Nhưng cậu biết không?”
“Biết gì?”
“Đừng có vứt chỗ tiền Somali cũ đi. Chúng vừa với máy thu tiền đậu xe ở Nairobi đấy.”
“Giờ chúng ta đang ở nước nào?”
“Tôi không biết. Tôi chưa xem hộ chiếu. Chúng ta đang ở Ruandi Urundi hoặc Đông Phổ. Thực ra tôi nghĩ là Angola. May quá, phố chính đây rồi.”
“Nó tên là gì?”
“Uouixlbura hoặc Luanđa...”
“Tôi tưởng Luanda là ở Buganda.”
“Đừng có ngớ ngẩn thế. Buganda là ở Uganda. Impala, hoặc Kampala, hoặc gì đó ở Ngay gần Dares Salaam.”
“Nhưng Dares Salaam là ở Yemen, bên kia sông. Nơi tất những người già Somali đến để chết. Đó là nơi mà người Anh tin rằng họ có Aden.”
“Ồ, không, người Anh tin rằng họ có Singapore. Và có lẽ Kahawa nằm ở Kenya.”
“Kenya ở đâu? Tôi hơi ngờ ngợ cái tên này. Tôi nghĩ tôi đã từng làm việc ở đó.”
“Kenya ở Cônggô. Thủ đô của nó là Schweitzerville.”
“Ở bờ kia sông của Leopoldville?”
“Ồ, không, Leopoldville ở Zanzibar. Nó là thuộc địa của Coasta Strip ở Gabon.”
“Còn Gabon?”
“Tôi mù tịt. Họ ghi một chữ ”o“ nữa và sau đó là tên một loài rắn đuôi chuông?”
“Thế chuyện gì xảy ra ở phần còn lại?”
“Người Nga đã mua nó, nhờ thế Trung Hoa đỏ có chỗ để bành trướng, còn giờ thì Hungary đang chiếm giữ.”
[53] Một loại dao to lưỡi nặng làm công việc lao động kiêm vũ khí, phổ biến ở Nam Phi.