CHƯƠNG 110
Thật đáng đời mình vì đã quan tâm tới phân dơi, Alex thầm nghĩ. Đó là tất cả những gì mình cần để làm cho cuộc đời mình thập phần hoàn hảo, một hiểu biết đầy đủ về những hang động đầy phân dơi. Không Bukavu, không Lake Kivu, cho cậu bé này đêm nay. Không tiểu Thuỵ Sỹ, ở châu Phi, không bồn tắm nước nóng, không quầy rượu thân quen. Không có gì hết, với chiếc xe jeep thảm hại này, với người lái xe kiêm thợ máy thảm hại này và với dòng sông Lualaba chết tiệt đang tràn bờ. Stanleyville, tại sao lại là mi và khi nào? Không phải những hang dơi ở Mount Hoyo không thú vị, nếu người ta say mê những động phân dơi.
“Cas de passage không còn xa nữa,” lái xe người Cônggô nói bằng thứ tiếng Pháp ngọng nghịu. “Chúng ta sẽ nghỉ đêm ở đó, có lẽ trong một hai ngày nước sông sẽ xuống.”
Alex nhăn mặt.
“Tôi cũng đoán thế,” ông nói. “Chắc chắn là ta không thể đi được xa hơn trên ba cái bánh và một cái gậy này. Cậu có biết mà mang bộ đồ nghề đi không đấy?”
“Tôi sẽ vặn lại ngay sáng sớm mai. Chúng ta sẽ dừng ở Cas de passage, hein”
“Ăn mày làm sao đòi được xôi gấc,” Alex đáp. “Chúng ta dừng ở cas de passage. Tôi sẽ là Tarzan. Còn cậu là vật thay thế đáng thương hại cho Jane.”
“Oui”, người lái xe nói và toét miệng cười, còn Alex thì nghĩ ông chưa từng mong được nghe thứ tiếng Pháp trong sự càu nhàu của người da đỏ châu Mỹ.
Chí ít thì cas de passage sẽ có mái, có cái gì đó đại loại như giường, và có bữa trưa, thậm chí có lều ăn tối. Không xà phòng, không nước uống, không thức ăn, không khăn trải giường, nhưng ít ra còn có một túp lều tranh vách đất và có thể có một ít nước đục ngầu để rửa ráy. Ngày mai họ có thể vá tạm xe, chờ nước sông rút xuống, và ông có thể tìm được một chuyến bay nào đó từ Bukavu tới Stanleyville. Ông đã mệt mỏi vì bị nhồi lắc trong chiếc xe jeep.
Họ thất thểu đi vào cas de passage - một đám những túp lều tồi tàn - đúng lúc trời vừa nhập nhoạng. Chẳng có ai ở đó ngoại trừ người coi lều và hai bà vợ của ông ta. Người coi lều đang say sưa với khẩu phần rượu cọ hằng ngày của mình, nhưng ngọn lửa cũng đã đun nóng được chút nước, và Alex đã xoay xở kiếm được hai cái đèn bão lờ mờ ám khói. Phần còn lại của túp lều giống như hầu hết những túp lều ông đã từng thấy - một cái tổ ong trát bằng bùn lỗ chỗ những vết nứt lớn với mái rạ tồi tàn mà thằn lằn tặc lưỡi và, đôi khi, lại có một con rắn rơi xuống. Giường được làm từ những tấm ván chưa bào, với tấm đệm rơm bẩn thỉu được bện cẩu thả. Hai chiếc ghế được một thằng ngốc nào đó đóng từ gỗ thùng hàng còn cái bàn là một thùng hàng được chắp thêm chân một cách muộn màng. Tuy nhiên, trên xà nhà có mấy cái móc để treo đèn, và một cái chậu bằng đất nung rẻ tiền nằm trên bàn.
“Đến nhà rồi,” Alex nói ngắn gọn với người lái xe. “Mang équipage ngoài xe vào.”
Món équipage đầu tiên là một hòm rượu, nửa gin, nửa whisky, được ưu tiên hàng đầu khi di chuyển. Tiếp đến là chaguls, những túi nước được buộc chặt vào bađờsốc của xe, từ mũi tới lái, những bao vải bạt đồ ăn thức uống. Tiếp đến là những can dầu và nước dự trữ, rồi đến một thùng toàn đồ hộp, một thùng thuốc lá, khẩu súng lục và súng trường nhỏ, đạn dược và cuối cùng là giường xếp. Đến giờ thì Alex đã biết đầu tiên người ta thường lấy trộm cái gì. Máy chữ là vật được khuân vào sau cùng.
“Cậu đi kiếm lửa về đây,“ ông nói với người lái xe, và ta sẽ đốt một đống lửa trại bập bùng.”
“Sao cơ?” Người lái xe, một người Bakongo có khuôn mặt rỗ hoa tỏ ra bối rối như mọi bận. Alex nhắc lại với anh ta bằng tiếng Anh. Người lái xe đáp, và chẳng mấy chốc đã quay về với một xẻng than đầy.
“Để xuống đó,” Alex chỉ vào phía trước túp lều. “Giờ thì cậu đi kiếm ít gỗ về để nhóm nó lên. Chúng ta sẽ có một cuộc picníc vui vẻ.”
Ông rót một lượng lớn rượu Scotch vào chiếc cốc nhựa màu đỏ, pha nó với chút nước mới chỉ hơi âm ấm, kéo chiếc ghế ra trước ngọn lửa đang yếu ớt nhen lên, và treo chiếc đèn lên một cành cây gần đó. Giờ đây, sau khi uống thêm một ly nữa, ông sẽ ăn chút gì đó trong mấy cái hộp kia - cá mòi, bánh qui, nước sốt, pho mát đóng hộp, rau ngâm giấm, đậu nguội, hoặc món salát khoai tây trộn đóng hộp kinh tởm với nước sốt sền sệt.
Không phải là ông không hài lòng. Mặt trăng lúc ẩn lúc hiện giữa những đám mây nghịch ngợm, những ngôi sao rụt rè lấp ló trôi qua. Ngọn lửa đã bén; và rượu whisky cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng trong dạ dày ông. Người ta thường học được nhiều niềm vui đơn giản khi bước đi trên mặt đất, những điều mà người ta sẽ không thể đánh giá đúng nếu chỉ bay qua.
Một con chim đêm nào đó cất tiếng kêu, và được đáp trả bằng tiếng của một con thú, chắc cũng thuộc loài ăn đêm. Tiếng dế kêu ri rí khắp nơi. Có tiếng linh cẩu tru xa xa, và tiếng ủn ỉn của lũ hà mã ngoài sông. Cũng có cả tiếng muỗi vo ve. Nhưng Alex đã biết cách đi ủng vải bạt để bảo vệ vùng mắt cá chân dễ bị tấn công, còn khuỷu tay và cổ ông đã khá dày dạn với vết đốt của côn trùng. Lũ muỗi sẽ đi đời sau khi đốt. Ông chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện nằm màn. Cho dù bạn có giắt màn cẩn thận đến đâu đi nữa, luôn luôn có một con muỗi tìm được cách chui vào với bạn.
Thật kinh ngạc là người ta luôn học được cách làm việc trong điều kiện thiếu thốn đủ thứ, nếu người ta đã quen với việc đi đây đi đó. Ông có đủ thuốc trong túi thuốc để chữa khỏi bất cứ bệnh gì ngoại trừ một viên đạn xuyên qua tim. Có whisky, có thuốc lá, có nước, có lửa, có túi ngủ, và một chiếc giường xếp khá chắc chắn - tiếng Swahili gọi là tinni kata. Một chiếc panga - dao rựa lớn dùng để cắt móng chân và cũng dùng để chặt củi. Alex có khá nhiều chăn cho chiếc túi ngủ. Vì vậy người ông hôi hám, còn đầu tóc thì ngứa ngáy, chiếc áo khoác đi rừng của ông nhàu nhĩ, nhờn bóng và đỏ lên vì bụi, nhưng nó đã qua một hành trình bổ ích. Chí ít thì ông vẫn còn sống. Và ông đã nhìn thấy ối người chết ở Cônggo kể từ “L'independence”[54].
Alex giơ tay ra trước ngọn lửa, nhấp một ngụm rượu nữa, và móc tay vào túi lấy bao thuốc lá mới. Ngón tay ông chạm vào một tờ giấy. Lạy Chúa, đó là lá thư mới đây nhất, Alex nghĩ. Và mình vẫn chưa trả lời. Ông rút ra và ngắm nghía nó bằng đôi mắt lơ đãng. Phong bì đã nhàu nát và nhờn bóng vì thuốc đuổi muỗi. Ông đã đọc nó nhiều lần, nhưng vẫn chưa nghĩ ra câu trả lời.
Ông đứng dậy và rót thêm whisky, rồi kéo ghế lại gần ngọn đèn. Ông đọc chậm rãi, như thể cố tìm kiếm ý nghĩa ẩn dưới những con chữ li ti kiểu học trò.
Anh thân yêu,
Đã bốn tuần trôi qua kể từ khi em được tin anh ở Stanleyvile và thành thực mà nói em đang rất lo sợ. Em không thể hình dung được là trong chừng ấy thời gian anh lại không viết dòng nào cho em, và em chỉ có thể đoán rằng thư đã thất lạc hoặc là anh đang ốm. Báo chí ở đây đăng đầy những chuyện khủng khiếp từ Cônggô và em không dám nghĩ đến những mối nguy hiểm mà anh đang phải đối mặt. Em đọc tất cả mọi thứ mà em kiếm được về Châu Phi, và những giấc mơ của em đang trở thành những cơn ác mộng.
Đã gần chín tháng kể từ khi anh đi, và đến giờ em hy vọng rằng anh sẽ quay trở lại và chúng ta sẽ thúc đẩy kế hoạch của chúng ta. Em biết anh ghét phải đọc điều này, nhưng xin đừng ghét em vì đã viết như thế. Có anh chỉ để rồi mất anh quá nhanh và trong một thời gian dài đến nỗi khiến em vô cùng khổ sở, ngoài nỗi lo thắt ruột về những mối nguy hiểm mà anh đang phải gánh chịu. Em có cảm giác anh đã thực hiện quá phần việc theo hợp đồng với nhà xuất bản, và liệu anh có gặp may hơn nữa được hay không?
Hãy về nhà đi, anh yêu, và về sớm vào, trong khi em vẫn còn nhớ dáng hình của người đàn ông mà em yêu. Tấm ảnh chụp nhanh đặt trên bàn trang điểm của em đây chỉ là vật thay thế khốn khổ cho Alex bằng xương bằng thịt của em. Em cứ nghĩ khí hậu nước Anh thật kinh khủng, và đến giờ chắc anh đã quen với khí hậu nhiệt đới, sẽ thật tuyệt nếu chúng ta mua một ngôi biệt thự phù hợp ở Tây Ban Nha hoặc ở Ý (một việc vô hại trong khi cỗ máy đáng sợ đang tiến triển) trong khi anh hoàn tất cuốn sách về châu Phi. Em hứa sẽ không làm phiền anh trong giờ làm việc. Nhưng giá mà việc ly hôn diễn ra trôi chảy và cũng trong thời gian ấy anh gửi nốt bản in thử cuối cùng cho nhà xuất bản thì hay biết mấy! Đó là món quà cưới mà em luôn mong muốn!
Xin anh hay giữ gìn sức khỏe và mau trở về
Mãi là của anh Jill.
TB: Có lẽ em sẽ tự ghét mình vì đã nói điều này, nhưng em không cho là em có thể chịu nổi ý nghĩ rằng em sẽ tiếp tục sống và hy vọng nếu chúng ta không có nhau. Lúc này em đã quen sống không có anh, và thấy điều đó là có thể chịu đựng được nếu em có thể nghĩ, dự kiến và tự nhủ rằng rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp, rằng anh chưa hết yêu em, rằng anh sẽ trở về và sẽ tiến hành việc ly dị, cũng như em biết anh ghét ý nghĩ phải cắt đứt với Amelia sau chừng ấy năm. Em hoàn toàn tôn trọng những cân nhắc của anh đối với Amelia, nhưng em không thể kéo lê mãi một niềm hy vọng mơ hồ duy nhất để sưởi ấm trái tim và chiếc giường của em. Nếu chúng ta không được là của nhau, hãy nói cho em biết ngay bây giờ trong khi em vẫn quen sống không có anh.
Yêu anh thật nhiều!
J.
Alex gấp lá thư lại, nhét vào túi, và thở dài. Dàn giao hưởng dế đang lên dần tới đỉnh điểm - tiếng violon, kèn ô boa, kèn fagốt, tiếng trống. Đâu đó từ bóng đêm xa xa vẳng lại tiếng trống gõ Iirialih mềm mại, trầm ngâm. Những con bướm đêm kỳ lạ bay vụt qua ngọn đèn. Dội lại, tiếng linh cẩu than van, giờ đã gần hơn, có lẽ bị thu hút bởi mùi thịt, mà người coi lều say mèm và người lái xe của Alex - đang ngồi xổm nướng một miếng thịt lớn. Lũ hà mã thở phì phò, khụt khịt, rồi rống lên. Mặt trăng đã ló ra khỏi đám mây và lơ lửng treo trên bầu trời, những ngôi sao sáng lấp lánh.
Alex đứng lên, ném một thanh củi vào giữa đống lửa, và rót thêm một cốc rượu nữa.
“Mình không thể rời khỏi đây vào lúc này,” ông lẩm bẩm. “Mình không thể và sẽ không rời khỏi đây đúng lúc này. Mình không sợ nguy hiểm và mình sẽ bảo cô ấy như thế, trong khi mình còn đang tràn ngập rượu whisky và những âm thanh của đêm tối. Ít ra mình cũng có thể gửi thư khi tới Stanleyville. Còn nhiều điều, rất nhiều điều mình chưa được thấy.” Giọng ông vang lên trong không khí buổi đêm nghe thật xa lạ, như thể ông đã nghe trộm một người lạ đang nói.
Ông đi vào lều và kéo khóa lấy ra chiếc máy chữ xách tay hình vuông trên cái bàn bằng vỏ thùng hàng. Ông thọc tay vào túi đi làm lấy giấy và giấy than, cẩn thận đặt cốc rượu bên cạnh, ông châm thuốc và xoa xoa tay. Ông gãi đầu, và bụi đất rơi lả tả từ móng tay ông. Bức thư này sẽ không dễ dàng, không trôi chảy, không...
Ông thận trọng chạm vào chiếc máy chữ, lướt qua các phím, và bắt đầu gõ:
Một nơi nào đó ở Cônggô. Jill thân yêu!
Anh không thể xin lỗi em sao cho đủ vì đã nhận chuyến đi tệ hại này, nhưng ở phần lớn những nơi mà anh đã qua mới đây thì rõ ràng là bọn anh gặp rất ít thùng thư, còn ở một vài chỗ hiếm hoi khác mà quả thật anh có thể tới bưu điện, thì anh có linh cảm là mọi bức thư đều bị ăn trộm tem và bị vứt vào sọt rác. Anh đã chuẩn bị nửa tá giấy than (mà anh thậm ghét giấy than trong cái tiết trời nhơm nhớp này) và gửi những câu chuyện của anh thành nhiều bản từ nhiều thành phố khác nhau, vạn nhất xảy ra trường hợp chỉ một bản tới được đó. Nhưng đúng là anh đã tìm được một công việc ổn định tuy khó khăn vì ở đây chẳng có gì nhiều để tán gẫu ngoại trừ đám ni cô mới bị cưỡng hiếp và đám thầy tu mới bị cắt tai. Những câu chuyện ấy chẳng thể làm nên một tác phẩm hay và anh ghét phải chất lên em gánh nặng của bản kê khai về những đợt giun móc hay WAWA của anh. “WAWA” theo nghĩa trào phúng kỳ lạ của chúng ta có nghĩa là “Tây Phi lại thắng”. Cho tới nay anh chưa bị bệnh hủi cũng như chưa kết giao với một người phụ nữ bản xứ nào.
Nghiêm túc mà nói, thật khó giải thích được mảnh đất chết chóc này hút người ta chặt đến mức nào. Anh đang dần dần bị nhiễm chứng bệnh thông thường kỳ lạ nhất, sự ghen tị châu Phi, nghĩa là nếu em sống ở đây đủ lâu em sẽ cực kỳ ghen với bất cứ người nào đến được những chỗ mà em chưa từng đến, hoặc biết những điều mà em không biết về một phần của thứ sự thật trần trụi. Anh luôn có cảm giác rằng chỉ ngay sau ngọn đồi tiếp theo hoặc khu làng tiếp theo kia sẽ có một điều gì đó mới mẻ, và tính cách của đứa trẻ cực kỳ độc ác mang tên châu Phi này là đầy nham hiểm dưới vẻ bề ngoài quyến rũ.
Anh đã nhìn thấy nhiều điều, phần lớn là ghê tởm, một số đẹp choáng người, và vô khối những cuộc sống và cái chết trần trụi. Anh nghĩ cái chết của chàng thanh niên Larry Orde mà anh đã viết, gây cho anh ấn tượng mạnh hơn cả về sự không bất tử của con người, hơn tất cả mọi cái chết kể từ hồi chiến tranh, mà sự ngẫu nhiên theo đó cuộc sống bị chấm dứt và cái chết được lập trình ở châu Phi ngày nay là một trải nghiệm choáng váng cho chú khướu già ở quảng trường Berkeley với trà và bánh nướng bên lò sưởi. Chắc em nghĩ anh đang đánh trống lảng. Anh liều làm em chán ngấy bằng lời mở đầu dài lê thê này như câu trả lời cho bức thư mới đây nhất của em, nhưng anh nghĩ anh đang đến gần tới cuốn sách lớn mà anh đã đi tìm trong suốt cuộc đời cầm bút và anh không biết làm sao mình quay về nhà vào đúng lúc này, khi quanh anh cuộc sống đang xáo động nhiều như thế. Đặt một vài bài tạp chí cùng vào cuốn sách đã ký hợp đồng là việc vô cùng đơn giản và có thể làm được với vài băng ghi âm và một bao bút chì, nhưng cuốn sách mà anh muốn viết sẽ lớn hơn, sâu sắc hơn và nhiều chiều hơn so với cái nghề viết báo mà anh đã làm trong suốt chín tháng qua.
Anh hy vọng có thể làm cho em hiểu được rằng công việc ấy sẽ đòi hỏi thời gian và sự tập trung, được giải phóng khỏi những căng thẳng và phiền toái. Anh muốn sớm bắt tay vào cuốn sách ấy, và từ kinh nghiệm của chính em, em yêu, hẳn em biết rằng bầu không khí của thủ tục li hôn không phải là chất dẫn lý tưởng để cảm hứng văn chương tuôn trào. Cũng như ý tưởng làm một “nhà văn nửa buổi” trong tuần trăng mật không chính thức ở Tây Ban Nha hay Ý sẽ là nỗ lực lý tưởng lấy đi mọi thứ mà anh sẽ có trong sáu tháng lao động miệt mài, và anh sẽ phải lựa chọn thứ mà anh cảm thấy là một cơ hội để anh làm được điều gì đó thực sự đáng kể trong nghề mà anh đã chọn.
Em không biết nhiều về những nhà văn, em yêu, nhưng họ là những kẻ tò mò nhất, đồng bóng nhất, với những thói tật cố hữu và tính khí thất thường. Anh có thể viết một truyện ngắn hoặc một bài báo trong phòng khách sạn hoặc trong một ngôi nhà xa lạ, nhưng một cuốn sách lớn đòi hỏi đồ đạc gia dụng ở mức tối đa, những tiện nghi quen thuộc và bầu không khí quen thuộc. Vì thế anh cho rằng, và hy vọng em sẽ đồng ý với đề nghị mà anh sắp nêu ra đây, anh sẽ quay về Mỹ và mặc kệ kẽ hở thuế má, sống bình dị trong nơi ẩn cư quen thuộc ở Jersey với những cuốn sách tham khảo và những vật dụng khác cần cho sáng tác văn chương, hoàn thành cuốn sách này, và sau đó tiến hành li dị Amelia với đôi tay rảnh rang và cái đầu sáng suốt. Sẽ chỉ mất thêm vài tháng nữa, mà vài tháng thì đâu có là gì so với những năm chúng ta không được sống bên nhau, và với những năm chúng ta hy vọng sẽ được sống bên nhau.
Xin hãy hiểu điều này, em yêu, thật sự anh không phải là kẻ nhát gan hoặc đang cố tránh đối mặt với Amelia, cũng như với việc li hôn và những phiền toái của nó, nhưng như anh đã nói đấy, em không thể viết một cuốn sách trong khi em còn bận chia những con chó và thư viện ra làm đôi, tính đếm đồ đạc và đóng tài khoản ngân hàng, dành phần lớn thì giờ ban ngày cho các luật sư và phần lớn thì giờ ban đêm để mơ thấy các luật sư. Còn có một thực tế nữa cần xem xét là anh không thể thu xếp việc li dị từ xa và sẽ phải đối mặt với kết cục kinh khủng là sẽ thua và mất tất cả cho Amelia.
Cuốn sách còn quan trọng về nhiều mặt khác nữa, về mặt tài chính, Amelia sẽ làm anh gần nhẵn túi, như quyền cô ấy được hưởng sau chừng ấy năm, và một cuốn sách lớn không dính dáng đến Amelm sẽ là một thứ của hồi môn để chúng ta bắt đầu cuộc sống chung. Nhưng đó không phải là mặt quan trọng nhất. Trước khi là bất kỳ người nào khác, anh là một nhà văn, một nhà văn chuyên nghiệp, và nếu anh chưa hài lòng về cuốn sách hiện đang nung nấu trong anh, thì anh sẽ không còn tâm trí để làm chồng em hoặc bất kỳ người đàn bà nào khác. Anh hy vọng em hiểu điều này, và sẽ đồng ý rằng thêm một vài tháng không thể tạo ra sự khác biệt lớn trong cuộc đời, rồi sẽ cho phép chúng ta bắt đầu một cách trong sạch và mới mẻ về tất cả mọi mặt.
Một hai tháng nữa anh sẽ xong việc ở đây, và sẽ bay ngay về London để chúng ta cùng bàn bạc kỹ hơn về chuyện này. Sau đó anh sẽ bay về New York, xúc tiến trước tiên là cuốn sách, sau đó là việc li dị, và rồi chúng ta có thể mua một lâu đài ở Tây Ban Nha hoặc một biệt thự Rome, vì anh yêu em, anh muốn lấy em và sau đó muốn sống hạnh phúc mãi mãi.
Thư cho anh hãy nhờ ông Burrows ở New Stanley chuyển giúp và xin hãy kiên nhẫn thêm chút nữa với anh chàng lang thang đang gửi thư cho em, cho dù thật tiến thoái lưỡng nan,
Yêu em vô cùng, Alex.
Alex Barr đọc lại câu trả lời của mình, sửa nó gần như vô thức bằng bút chì, và quyết định không cố cải thiện cấu trúc lỏng lẻo của nó. Ông đã viết nhiều bức thư riêng, đặc biệt để trả lời cho những bức thư nhõng nhẽo một cách ít e thẹn hơn. Tất nhiên ông hiểu quan điểm của Jill. Ông đã đi quá xa, quá quá xa; thật sự ông nên về nhà và đối mặt với Amelia. Ông đã làm quá công việc của mình; ông đã có một đống tư liệu đủ cho hai tá bài báo thay vì mười hai bài đã hợp đồng, vì ông đã lang thang khắp lục địa này, gần như luôn một mình, cố ý tránh đám phóng viên nhập khẩu đang chiêu đãi nhau ở Leopoldvirle, Nairobi, Stanleyville và Johannesbourg. Ông đã từ chối hầu hết những cuộc phỏng vấn chính thức, và tất cả những cuộc họp báo. Ông bị chết ngạt, bị nhồi nhét, bị tọng đầy Châu Phi, và ông vẫn chưa thỏa mãn. Ví dụ, ông không tìm được đủ thời gian để xử lý vấn đề Mozambique, cũng như chưa tới được Seychelles. Ông chỉ vừa mới cày xới vùng duyên hải miền Tây. Và còn nhiều vùng của Kenya mà ông chưa thấy - chẳng hạn như đảo Lamu, vùng đất nô lệ Ả rập cũ ở đất mũi ven biển.
Và tất nhiên là Cônggô - Cônggô đang thay đổi từng ngày, đôi khi với một chính phủ kép, và cuộc chiến lớn giành quyền lực giữa Lumumba nhìn dữ dội và Gizenga nhìn lạnh lùng, Kasavubu ù lì, Belgophile từng trải, Tsombe, ở Katanga, nơi những khoản tiền lớn mọc lên trong sào huyệt của Union Minière. Địa ngục chắc chắc sẽ nổ ra ở Katanga, mới ly khai khỏi chính phủ cũ, vì Katanga có phần lớn những tài nguyên giàu có của Cônggô, và Moise Tsombe không thể chiếm được nếu không đánh nhau. Câu chuyện chấn động tiếp theo sẽ là Katanga, và ông không định bỏ lỡ nó.
Alex đề địa chỉ lên bì thư, dán bản gốc và hai bản sao (mà ông sẽ gửi từ những thành phố khác nhau), rồi quay lại chỗ đống lửa. Giờ đây khi đã viết được bức thư và quyết định xong, ông bỗng thấy đói cồn cào. Ông lục túi đồ và lấy hộp nước sốt kiểu Vienna, pho mát Úc có mùi xà phòng, và một hộp cá mòi. Ông rót một cốc Scotch nữa, coi như món rượu vang khai vị, và vui vẻ ngồi nhai dưới trời sao, vẩn vơ nghĩ rằng ông không bị chứng khó tiêu của tuổi già, và ông đã xơi tất cả mọi thứ từ giòi chiên (cũng không tồi, hơi hơi giống vị tôm chiên) tới món mà ông ngỡ là một thứ súp nấu từ nguyèn liệu xương ống chân người.
Alex cảm thấy vô cùng hài lòng, thậm chí hồ hởi, mặc dù sự hồ hởi có thể là kết quả của ba cốc rượu mà ông đã uống. Ông có được cảm giác hồ hởi (Đặc biệt này nhờ Châu Phi, và ông có thể hiểu người dân miền núi ở Mỹ cảm thấy thế nào về khoảng không và sự vắng mặt của con người. Guthrie đã viết tuyệt hay về điều này trong cuốn Bầu trời bao la. Người ta hẳn sẽ mãi mãi hạnh phúc khi được tôn vinh với một tác phẩm như thế. Ông tự hỏi Guthrie đã có cảm giác ấy ở đâu. Guthrie là một hình mẫu, và tất nhiên đã được nghiên cứu rất nhiều, nhưng cảm giác là cái gì đó mà người ta phải đi tìm cho riêng mình, và ông đã dành toàn bộ danh tiếng cho chuyến đi lang thang ở châu Phi để đạt được điều này.
Ông đã sẵn sàng cho cuốn sách lớn, ông nghĩ - không chỉ một, mà là một loạt, một saga[55] liên hoàn, một cuộc lần theo dấu vết gia đình. Ý tưởng cơ bản về tiến trình không có gì mới; Galsworthy đã làm việc này, và Faulkner cũng vậy, nhưng chưa có ai làm điều đó ở châu Phi, chưa ai làm điều đó qua đôi mắt tinh tường của người ngắm nhìn những ngọn núi được mang tên chính họ. Châu Phi chính là lò luyện đan, và nó bỏ quên các nhà văn trong khi vẫn giết chết nhiều người.
Alex uống nốt cốc rượu, đi vào nhà và trải túi ngủ lên tấm đan bằng dây da của khung giường. Ông quẳng tấm nệm rơm vào một xó. Có Chúa biết nó là nơi trú ngụ của những giống vật gì. Ông vừa nằm xuống vừa nghĩ rằng ngày mai họ sẽ cố vá chiếc xe jeep đủ để bò được tới Bukavu, rồi ông nhắm mắt lại. Nhưng trí óc ông vẫn sáng rõ, và ông trằn trọc dưới lớp chăn vì giấc ngủ đã bỏ rơi ông. Những dự định lướt qua tâm trí ông, và sự hào hứng càng làm ông tỉnh như sáo. Ông nhẩm lại lá thư gửi cho Jill và tự nhủ một lần nữa rằng ông có lý. Cho dù phải thừa nhận là ích kỷ, thì ông vẫn đúng.
Ông không thể thực hiện một dự án lớn, đặc biệt là tập đầu tiên của saga mà ông đang dự định, tác phẩm để đời của ông, trong ngôi nhà đầy những rắc rối về luật pháp, đầy nước mắt và những lời trách móc to tiếng của vợ. Ông không thể bắt tay vào việc bằng dư vị cay đắng của cuộc hôn nhân cũ trộn với cảnh nghèo túng đáng phàn nàn của cuộc hôn nhân mới, trong bầu không khí mới, theo hoàn cảnh mới. Khi làm việc Alex là người lao động toàn tâm toàn ý. Ông không là người tình mà cũng chẳng thể là hoạt náo viên nơi phòng khách. Ông mải mê, say sưa, và hoàn toàn bị ám ảnh bởi các nhân vật và hành động của họ. Về điểm này thì Amelia thật tuyệt. Cô chẳng bao giờ xâm phạm hoặc chia sẻ, theo cái cách ít mang tính phụ nữ vào công cuộc lao động văn chương của ông.
Ông đã giải thích trong bức thư viết cho Jill, và không thành công lắm, rằng các nhà văn không giống như những: người khác, những chủ nhà băng hay - người buôn chứng khoán chẳng hạn. Bầu không khí là thứ rất quan trọng. Đây không chỉ là vấn đề tính cách, mà hơn thế, nó là thói quen đã thành chai. Alex cần có Luke khi ông phải dồn sức vào công việc. Luke làm tất cả những việc mà Alex không muốn làm hoặc không có thời gian làm. Alex cần những cuốn sách - và trong dự án mới to lớn này, ông sẽ cần gấp đôi những cuốn sách của ông.
Alex vẫn thường dùng những cuốn sách riêng của mình như một thứ vũ khí trong thời gian dài làm việc ở Thư viện Công cộng. Ngay lúc này ông cũng có thể nhìn thấy chúng hiển hiện trước mắt - không được xếp theo vần abc, hoặc theo phân loại, mà được sắp xếp theo sự tiện dụng và sự cần thiết. Ông có thể bước đúng đến tập mà ông muốn, và mở ra đúng chỗ mà ông cần. Ông đã tích lũy được một thư viện phong phú và đắt tiền về châu Phi kể từ tháng lương đầu tiên của ông, và ông sẽ cần đến nó, tất cả, từ Baker, Speke, Selous, Teleki, Burton và Gordori, những nhà văn già tới Huxley và Cloete là những nhà văn hiện đại.
Ông sẽ cần đến lò sưởi, cần mặt hồ để tưới tắm cho tâm trí, cần Luke để đánh máy lại những bản thảo mà ông đã gạch xóa chi chít bằng bút chì. Ông sẽ cần Luke để trò chuyện khi hình thành những ý tưởng mơ hồ. Ông sẽ cần Luke cho bữa rượu nhàn tản cuối mỗi ngày dài vất vả, và ông sẽ cần sự có mặt của một người không gây cản trở, một người có những điếu thuốc không phải châm, có những ly rượu không phải pha, một người mà ta không phải làm tình khi trong đầu ta còn chứa đầy cốt truyện, lịch sử và đối thoại.
Đó, ông nghĩ, chính là lý do khiến tối nay ông viết bức thư Em thân yêu thật mùi mẫn, giữa tiếng rừng rậm gào rú, gõ máy chữ liên tục trên chiếc bàn đóng bằng vỏ thùng hàng trong một lữ quán đầy chấy rận. Jill là một người đàn bà tuyệt vời. Ông cố mường tượng ra hình ảnh cô, nhưng hình ảnh không hiện ra rõ ràng. Ông đã đi lâu quá rồi, ông nghĩ; ông không thể hình dung ra Amelia. Trí óc ông là một tấm chăn xộc xệch. Ông có thể thấy khá rõ Larry Orde, và ông nhớ Jim James như thể mới hôm qua. Ông có thể thấy Fran Mayfield, thậm chí cả ánh hồng đang tắt trên đôi gò má nâu lạnh giá của cô. Đêm nay không phải là loại đêm ngủ trong nhà.
Alex ngồi dậy và kéo chiếc giường xếp ra ngoài trời, bên đống lửa đang tàn. Ông rót một cốc rượu nữa, rồi vừa hút thuốc vừa nhấp từng ngụm nhỏ. Rồi nằm xuống dưới bầu trời đầy sao lấp lánh. Không khí thật mát mẻ; sương mù dần dâng lên từ phía sông. Lũ muỗi đã đi ngủ cả. Một con linh cẩu cất tiếng khóc, và hòa với nó là tiếng một con linh cẩu khác cười khăng khắc. Dàn giao hưởng dế tăng dần âm lượng. Và Alex dễ dàng thiếp đi.
[54] Độc Lập.
[55] Truyện dài nhiều tập (về các sự kiện hay cuộc phiêu lưu của một dòng họ, nhiều thế hệ...).