← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 111

Chao ôi, khách sạn New Stanley cũ kỹ thật giống như một ngôi nhà và một người mẹ, nếu như bạn có nhà và bạn yêu quí mẹ của mình. Alex biết chắc mình có phòng; mấy ngày trước từ Musony ông đã điện cho Burrows, và đã nhận được điện trả lời: Khách sạn đầy rượu champagne cho ông. Viên quản lý có một khu phòng tầng mái có máy nghe nhạc, một quầy bar và một tầm nhìn tuyệt vời về thành phố. Vào thời điểm này mình có thể làm tồi hơn nhiều, Alex nghĩ và cảm thấy khi lão John, cựu nhân viên khuân vác, đón chào anh với một Jambo Bwana, và cô lễ tân xinh đẹp nói, “Mừng ông đã trở lại. Ông Barr. Ông Burrows để lại chìa khóa và lời nhắn cho ông.”

“Tôi mừng vì đã đánh điện,” Alex nói. “Không có khách sạn tự trọng nào cho tôi vào nếu thiếu giấy thông hành của người quản lý.” Ông nhăn mặt và chỉ vào bộ quần áo kaki bẩn thỉu, bao súng săn mòn vẹt, chiếc túi dệt đầy bụi, hộp máy chữ cũ kỹ.

“Một bồn tắm nước nóng sẽ sửa sang tất cả,” cô gái xinh đẹp nói. “À, mà người coi nhà chưa khóa cửa phòng ngủ dành riêng cho khách có quần áo của ông trong ấy đâu. Đây là lời nhắn của ông Burrows.”

Lời nhắn được viết nguyệch ngoạc vội vã: “Mấy cuộc điện thoại bắt buộc (phụ nữ). Tôi sẽ quay về vào khoảng sáu giờ. Thư từ của ông được cất giữ an toàn. Có rượu ở quầy, đá trong xô. Chúc mừng ông trở về nhà. B.”

Phòng của viên quản lý rất rộng rãi, ngăn nắp với đồ đạc giản dị và sạch bóng, song nó đầy những giá sách và Alex có thể nhìn thấy xô đá ở góc quầy rượu, còn trên bàn cà phê xếp ngay ngắn những chồng báo và tạp chí mới.

“Đặt cái hộp xuống đó,” ông nói và chỉ vào căn phòng còn trống có cánh cửa đang mở toang. Ông thưởng tiền cho người khuân vác rồi bước ra cái ban công bé xíu để xem liệu Huân tước Delamete đã bị hạ xuống khỏi bệ hay chưa hoặc liệu có điều gì xảy ra với Khomosque trong khi ông vắng mặt hay không. Và ơn Chúa là vẫn không có gì thay đổi. So với mình, Alex thầm nghĩ, thì những người Do Thái lang thang thật chẳng mùi gì.

Có lẽ phải có cả đống thư, ông nghĩ trong khi trút bộ quần áo bẩn thỉu vào xó nhà để Murungwa lấy đi dhobi vào ngày mai. Đã hai tháng nay mình chẳng nhận được tin ai, nhưng mình cũng không dám chắc những nơi mình đã ở trong hai tháng qua có chỗ nào có thể nhận được tin của ai đó. Ở Cônggô chẳng còn sót lại một trạm bưu điện nào, và thậm chí cho mãi đến trước khi đánh điện cho Burrows từ Musoma mình mới biết mình sẽ đi đến hồ Victoria. Ồ, mà có ai đó đã nói, “Không có tin tức là một tin tức tốt”, ông nghĩ và khoan khoái ngâm mình trong bồn tắm. Chốc chốc ông lại nhấp một ngụm gin pha tonic[56] và ngẫm nghĩ rằng về tầm quan trọng thì sự sùng đạo phải xếp sau tính sạch sẽ. Nửa giờ sau, khi ông trèo ra khỏi bồn tắm, thì ngấn đất để lại khiến ông nhớ đến sông Tana phía Ấn Độ Dương, khi những trận lụt lớn cuốn trôi lớp đất màu mỡ của Kenya ra biển.

Ông đánh răng cho đến khi lợi chảy máu, và cạo râu hai lần. Móng chân tay vẫn cần kỳ cọ thêm chút nữa, nhưng cuối cùng, quấn mình trong chiếc kiko sạch - một loại xarông đa năng của Somali - ông sung sướng được giẫm bàn chân trần trên mặt sàn và bật máy nghe nhạc. Thật tuyệt khi được trở về Nairobi, kết thúc những chuyến đi, rũ bỏ sạch công việc, những cuốn sách lớn đã được định hình vững chắc trong đầu, quay lại với London và Jill, rồi về với Jersey với Luke, với vại bia buổi chiều và một cuốn sách tuyệt vời và dầy dặn. Một cuốn sách đang gào thét đòi được chào đời. Ông đã đi gần trọn một năm, mà mới chỉ có một loạt mười hai bài báo của mình. Ông đã gộp cuốn sách đó vào cùng, và sau đó thực sự bị mắc kẹt vào dự án yêu thích của riêng mình. Alex Barr cảm thấy thật trẻ trung và hoàn toàn không nôn nóng một tẹo nào khi ông bạn Burrows, viên quản lý, phục phịch bước qua cửa, vác theo đến cả kiện thư từ. Ông quẳng những bó thư buộc giây thừng to tướng xuống bàn cà phê.

“Nào, nào,” Burrows nói. “Một kẻ lang bạt kỳ hồ. Habari? Tôi cứ ngỡ ông đã bị thương trong cuộc chiến ở Kasai cho mãi tới khi nhận được điện từ Musoma. Cái gì đã đưa ông đến Tanganyika vậy?”

“Tôi thử tìm hiểu xem liệu hồ Victoria có thực là thượng nguồn của sông Nile không,” Alex cười khi họ bắt tay. “Tôi không tin tưởng những phóng viên kiểu cũ. Có gì mới không? Columbus đã tìm ra châu Mỹ chưa?”

“Không, nhưng tôi có nghe nói về cái chết của Gladstone,” Burrows vừa nói vừa pha cho mình một cốc rượu. “Chào mừng ông trở về với ngôi làng bận rộn. Công việc thu vén xong cả rồi chứ?”

“Thu vén xong cả rồi. Ở đây tôi sẽ viết thêm một hai bài về những triển vọng uhuru của khu vực - đó chính là điều đã đưa tôi đến Tanganyika - rồi bay về London và sau đó về New York. Tôi có một số dự định lớn, một số dự định rất lớn.”

“Tại sao lại London?” Burrows thận trọng thốt lên. “Tại sao không bay thẳng về New York?”

“Hẳn là ông điên mất rồi,” Alex nói. “Tôi có một cô gái ở thành London. Cô gái mà tôi sẽ cưới đang sống ở London. Tôi đã ở một mình quá lâu đến mức không biết mình là đàn ông hay đàn bà nữa. Còn chỗ nào khác ngoài London nữa chứ?”

“Ngồi xuống đi,” Burrows nói. “Để đôi chân ông được nghỉ ngơi. Ông không nhận được bức điện nào trong số những bức mà tôi đã gửi đi à? - Leopoldville, Stanleyville, Usumbura - những nơi tôi nghĩ nhiều khả năng ông tới nhất?”

“Chẳng một bức nào cả,” Alex vui vẻ nói. “Chuyện quái gì xảy ra với ông vậy? Trông ông cứ như bị ai lấy mất hồn ấy.”

Burrows đứng lên và tháo dây buộc chồng thư tín. Một tờ báo - tờ Daily Express - được dùng làm giấy gói tập thư. Burrows rút chiếc phong bì màu nâu đựng bức điện nằm trên cùng của tập thư và đưa nó cho Alex.

“Vậy là ông không nhận được cái này”, ông nói. “Tôi rất tiếc. Ông sẽ không thích nó đâu.”

Alex cau mày và mở phong bì. Mắt ông nheo nheo khi ông đọc. Lá thư của anh thật rõ như ban ngày: Vĩnh biệt và chúc anh may mắn với cuốn sách. Jill. Ông đọc to lần nữa, không tin hẳn vào mắt mình.

“Tôi rất lấy làm tiếc, Alex,” Burrows nói. “Nhưng tôi cứ ngỡ ông đã biết. Tôi nghĩ thế vì đã gửi nhiều bản tới nhiều lãnh sự quán và nhiều khách sạn khác nhau... rõ ràng là ông không biết.”

“Tôi không,” Alex rít lên qua hàm răng nghiến chặt. “Tôi không hề nhận được một chữ nào từ sau khi tôi viết lá thư. Điều ấy chẳng làm tôi băn khoăn. Tôi nghĩ sẽ tìm được cả đống thư ở đây - từ lúc ấy tôi đã viết hai ba lần gì đó và đã gửi đi khi tôi có thể từ những nơi tôi có thể. Tôi không mong chờ câu trả lời. Chắc chắn tôi không mong chờ câu trả lời này. Không lẽ tất cả đã kết thúc?”

“Đúng thế. Đã kết thúc.”

“Ồ,” Alex bật lên. “Hãy cho tôi gọi điện ngay về London. Không thể kết thúc như thế được. Tôi sẽ làm sáng tỏ mọi chuyện. Chắc hẳn đã có sự hiểu nhầm - tôi đã đi xa quá, ông biết là thư từ thường như thế nào khi người ta đi xa rồi đấy, ông không liên lạc, ông ít viết thư, rồi cô ấy sẽ...”

“Tôi không nghĩ là nên gọi điện, Alex. Tất cả đã hoàn toàn kết thúc rồi. Đây này. Ông hãy liếc qua trang ba mà xem. Mục của William Hickey. Bức ảnh chính. Tôi rất tiếc.”

Alex cầm lấy tờ Express. Đám cưới của một nhà tài chính. Ba cột trên cùng của trang tin báo được dành riêng đăng ảnh của Jill, Jill của ông, đang ra khỏi nhà thờ với viên đại tá hào hoa, Miles Chalmers. Một chiếc Rolls Royce bóng loáng đỗ ngay bên. Cô dâu trông thật rực rỡ. Chú rể trông thật trẻ trung bất chấp bộ ria trắng cắt tỉa cẩn thận và mái tóc trắng như tuyết. Cô dâu mặc bộ váy có hình như là màu xanh lục, và đóa hoa gài ở ngực hình như là một đóa phong lan mà không nghi ngờ gì nữa có màu lục pha trắng ngà lấm chấm. Chú rể sung sức, người được mô tả là có Huân chương công trạng xuất sắc, có Bội tinh chiến công và là một luật sư, cài một đóa hoa cẩm chướng trên ve chiếc áo được may cắt cẩn thận.

“Tôi đoán là cô ấy chỉ mệt mỏi vì phải chờ đợi lâu quá,” lát sau Alex ngớ ngẩn thốt lên. “Tôi nghĩ phụ nữ không thích phụ thuộc quá nhiều vào những kẻ ham chơi. Tôi nghĩ...”

“Tôi nghĩ tốt hơn cậu nên rót một ly gin hồng lớn và quẳng món tonic ấy đi.” Burrows nói. “Tonic thường bốc ra mùi đàn bà.”

[56] Nước khoáng có pha hương vị quinin.