← Quay lại trang sách

Chương 1

Mỗi sáng bạn hãy nhớ rằng bạn không thể kéo dài một ngày, Và mỗi tối với bạn không thể kéo dài một đêm.

ENGRAVED PLAQUE

Một hàng sọ được đặt trên tường từ trên xuống. Dù biết giờ đang là tháng sáu và mặt trời chói chang trên đường phố Paris, trên đầu cô. Bác sĩ Maura Isles cảm thấy ớn lạnh khi đi bộ dọc theo con đường với mờ mờ, những bức tường chỉ cao quá đầu người một chút. Cô đã quen, thậm chí quá quen với cái chết và đã đối mặt với nó không biết bao nhiêu lần trên bàn mổ, nhưng cô vẫn thấy run run khi đứng trong không gian nơi đây, khi thấy số lượng xương người khổng lồ dưới những đường hầm bên dưới kinh đô ánh sáng này. Chuyến du ngoạn một kilômét chỉ đưa cô qua được phần nhỏ của hầm mộ. Bên ngoài tầm mắt của du khách là cả đống các đường hầm khác với những căn phòng đầy xương, những cái miệng với om đang há ra bên trong cánh cổng khóa kín. Đây là số còn lại của sáu triệu người dân Paris đã từng được cảm nhận ánh mặt trời trên khuôn mặt, những người đã biết đến đói khát và tình yêu, những người đã cảm nhận được nhịp đập của trái tim trong lồng ngực, cảm nhận được không khí ra vào phổi mình. Chắc hẳn họ không thể tưởng tượng nổi một ngày xương của họ được đào ra khỏi nơi yên nghỉ và chuyển tới nơi đây, bên dưới thành phố hoa lệ này.

Và ngày đó, họ đã bị phơi bày, dưới ánh mắt của những du khách hiếu kỳ.

Một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, để lại một dòng người đông đúc tới những nghĩa trang quá tải của Paris và người ta phải chuyển những nắm xương này xuống dưới hầm mộ của thành phố, dưới lòng đất.

Những người vận chuyển hẳn đã rất cẩn thận đặt chhúng thành các hàng khác nhau nhưng chắc chắn họ không có khiếu để biến chúng thành cái gì đó lạ lùng hơn. Như những thợ đẽo gọt đá khó tính, họ đã xây dựng những bức tường cao xếp đầy những hàng sọ và xương ống, biến những thứ sắp phân hủy thành những tác phẩm nghệ thuật. Và họ đã treo những bảng mỏng có vài lời trích dẫn để nhắc nhở những vị khách tham quan rằng Thần Chết chẳng tha cho bất kỳ ai.

Một trong những tấm biển đó đập vào mắt Maura, và cô dừng lại giữa dòng người đến tham quan để đọc nó. Khi cô đang cố gắng dùng vốn tiếng Pháp còn rơi rớt lại từ thời trung học để dịch các từ thì cô nghe thấy tiếng cười khúc khích của trẻ con vọng lại trong hành lanng vắng và giọng mũi của một anh chàng người Texax nào đó nới với vợ mình.

- Em có tin là có chỗ này không Sherry? Lạy Chúa!

Cặp đôi Texas đã đi, giọng của họ chìm vào im lặng. Maura ở trong phòng một mình, cảm thấy bụi của hàng thế kỷ trong từng hơi thở. Dưới ánh đèn mờ mờ, những hàng sọ người hiện ra, lần lượt dưới cái nhìn của Maura. Một lỗ đạn mờ mờ giữa trán của một cái sọ, trông y như con mắt thứ ba.

Tôi biết anh đã chết như thế nào.

Cái lạnh lẽo của hầm mộ ám vào xương của Maura nhưng cô không dời đi, nhất định phải dịch được dòng chữ đó, để thử thách danh dự của mình như kiểu giải những ô chữ thông minh vô bổ. Cố lên Maura. Ba năm học tiếng Pháp ở trường mà mày không thể tìm ra chữ nào sao? Giờ thì chỉ là thử thách cá nhân thôi, tất cả những suy nghĩ về sự bất tử đang treo lơ lửng và đột nhiên nghĩa của các từ hiện ra, cô cảm thấy máu mình lạnh đi.

Người hạnh phúc là người đối mặt với giờ tử của mình mãi mãi.

Và chuẩn bị cho cái chết mỗi ngày.

Đột nhiên cô nhận thấy sự im lặng bao quanh mình. Không có tiếng nói, không có tiếng bước chân vọng lại. Cô quay lưng bỏ đi khỏi căn phòng. Làm sao cô có thể lạc khỏi các du khách khác xa đến thế, để lang thang một mình trong đường hầm và một mình đối diện với cái chết. Cô nghĩ về những vụ nổ hầm mỏ vô tình, về việc lạc lối trong bóng tối đen thẫm. Cô đã nghe về những công nhân Paris một thế kỷ trước đã lạc đường trong hầm và chết vì đói khát. Cô vội vã bước để cố gắng bắt kịp với những người khác, để hòa nhập lại với sự sống. Cô cảm thấy cái chết trong hầm này thật quá gần. Những cái sọ dường như đang nhìn chằm chằm vào mặt cô, một giai điệu của sáu triệu người chết cho sự tò mò của cô.

Chúng tôi đã từng sống như cô. Cô nghĩ là cô có thể thoát được định mệnh cô đã thấy trước ư?

Rốt cuộc thì cô cũng ra khỏi đường hầm và bước vào đại lộ Rue Remy Dumoncel chan hòa ánh nắng, cô thở dốc. Lần đầu tiên trong đời cô thấy vui mừng khi nghe tiếng xe cộ ồn ào, tiếng đám đông như thể cô vừa mới được cho cơ hội sống lần thứ hai trong đời. Ánh mặt trời dường như sáng hơn và mọi người dường như thân thiện hơn. Ngày cuối cùng của mình ở Paris - cô nghĩ - và chỉ bây giờ mình mới thực sự trân trọng vẻ đẹp của thành phố này. Gần như cả tuần trước cô mắc kẹt trong những buổi họp, tham gia Hội nghị quốc tế về pháp y. Chả có mấy thời gian để đi dạo, ngay cả các tour mà ban tổ chức hội thảo sắp xếp cũng liên quan tới chết chóc, bệnh tật, những bảo tàng y học và những rạp chiếu phim cổ lỗ về phẫu thuật.

Và những hầm mộ.

Trong ký ức về Paris, thứ đọng lại là những bộ phận cơ thể người. Như vậy không tốt cho sức khỏe, cô nghĩ khi đang ngồi ở một quán cà phê ngoài trời, nhấm nháp nốt cốc cà phê Espresso và một lát bánh dâu. Trong vòng hai ngày mình sẽ trở lại phòng phẫu thuật, vây quanh là thép không gỉ và không có ánh sáng mặt trời. Chỉ thở không khí lạnh lẽo từ những cái máy. Ngày hôm nay giống như thiên đường vậy.

Cô đành thời gian để ghi nhớ những điều đó. Mùi cà phê, mùi bơ. Những doanh nhân bảnh bao với điện thoại dính chặt vào tai, những dải khăn voan phấp phới quanh cổ những phụ nữ. Cô thưởng thức cảm giác tuyệt diệu nhảy nhót trong đầu bất cứ người Mỹ nào khi họ ở Paris: Sẽ thế nào nếu mình bỏ lỡ chuyến bay và ngồi đây, trong quán cà phê này, ở thành phố hoa lệ này trong suốt cuộc đời mình nhỉ?

Nhưng cuối cùng thì cô cũng phải đứng dậy và vẫy một cái tắc xi về sân bay. Cuối cùng thì cô cũng phải rời xa cảm giác thần tiên ở Paris để tự hứa với mình rằng cô sẽ quay lại một ngày nào đó. Cô chỉ chưa biết là khi nào thôi.

Chuyến bay về nhà của cô bị trễ ba tiếng. Cô nghĩ thầm khi đang ngồi ở Charles De Gaulle - lẽ ra ba tiếng này mình có thể dùng để đi bộ dọc sông Sen, đi quanh Marais hay là Les Halle. Thay vào đó cô lại kẹt ở cái sân bay đông đúc với cả đống hành khác mà chẳng biết ngồi ở đâu. Cuối cùng khi cô đã yên vị ở máy bay của Air France, cô thấy mệt mỏi và kiệt sức. Một ly rượu trong bữa ăn nhẹ trên máy bay cũng đã làm cô chìm sâu vào giấc ngủ mà chẳng mộng mị gì cả.

Chỉ đến khi máy bay chuẩn bị vào sân bay Boston cô mới tỉnh dậy. Đầu đau như búa bổ và ánh mặt trời buổi sáng làm cô thấy hoa mắt. Cơn đau đầu càng dữ dội hơn khi cô đứng ở chỗ lấy hành lý, nhìn hết cái vali này tới cái khác mà chẳng thấy cái nào của mình cả. Đầu óc cô cứ đập bùng bùng trong khi cô xếp hàng để điền tên vào danh sách thất lạc hành lý. Cuối cùng cô cũng vào được tắc xi chỉ với một cáitúi xách tay, trời với lắm rồi và cô chẳng chờ đợi gì hơn là được tắm nưóc nóng với một liều Advil. Cô ngả người ra ghế, lại một lần nữa, chìm vào giấc ngủ.

Cái xe thắng gấp làm cô giật mình tỉnh dậy, cô nghe thấy tiếng tài xế.

- Chuyện quái gì vậy nhỉ?

Lồm cồm ngồi dậy, cô nhìn bằng đôi mắt lờ đờ qua ánh sáng xanh. Phảỉ mất một lúc cô mới nhận ra mình đang nhìn cái gì. Sau đó cô nhận ra là họ đã đến con phố cô ở, rồi cô ngồi bật dậy như đồng hồ báo thức do quang cảnh trước mặt. Bốn xe cảnh sát Brookline đã đậu ở đó từ bao giờ, ánh đèn nhấp nháy trên đầu xe như chém vào màn đêm.

- Có vẻ như có vụ khẩn cấp nào đấy - tài xế nói - đây là phố nhà cô phải không?

- Nhà tôi ngay dưới đó, khoảng giữa của dãy nhà.

- Vậy những cái xe cảnh sát này ở đâu chui ra vậy? Tôi không nghĩ là họ sẽ cho chúng ta qua đâu.

Và như để minh chứng cho lời của tài xế, một cảnh sát tiến đến, vẫy họ tránh ra xa.

Lái xe thò đầu ra khỏi cửa sổ nói.

- Tôi có một hành khách nhà ở đây, tôi cần đỗ lại, cô ấy sống ở ngay phố này.

- Xin lỗi nhé anh bạn, cả tòa nhà này bị phong tỏa rồi.

Maura rướn người lên phía trước và bảo với tài xế.

- Thôi được, tôi xuống ngay đây cũng được.

Cô đưa cho anh ta vé và lấy túi hành lý, ra khỏi xe. Chỉ một lúc trước thôi cô cảm thấy mệt mỏi và lạnh lẽo thì giờ đây, đêm tháng sáu ấm áp dường như lạnh đi. Cô bước lên vỉa hè, cảm giác lo lắng lớn dần khi cô đến gần chỗ đám đông đang tụ tập và khi cô nhìn thấy một đống xe cảnh sát đậu trước cửa nhà cô. Có chuyện gì vớihàng xóm nhà mình sao? Một cảnh tượng khủng khiếp bỗng lướt qua đầu cô. Tự sát. Giết người. Cô nghĩ đến Tulushkin, một kỹ sư rô bốt chưa lập gia đình bên cạnh. Không phải là trông anh ta rất u sầu khi cô gặp anh ta lần cuối cùng sao? Cô cũng nghĩ đến Lily và Susan, hai luật sư đồng tính, mục tiêu với cao của những nhà hoạt động vì quyền lợi của giới gay. Sau đó cô nhìn thấy ngay Lily và Susan đứng ở bên rìa đám đông, trông rất khỏe mạnh và nỗi lo âu của cô tập trung ngay vào Telushkin vì cô không thấy anh ta trong đám đông.

Lily nhìn ra ngoài và thấy Maura đang tiến lại. Cô ta không vẫy mà chỉ nhìn cô chằm chằm, không nói nửa lời và huých cho Susan một cái. Susan quay ra nhìn Maura, cô ta lập tức buông thõng hai tay đang khoanh trước ngực. Giờ thì những người khác cũng quay sang nhìn cô, và tất cả khuôn mặt của họ đều có vẻ ngạc nhiên cực độ.

Tại sao họ lại nhìn mình như thế nhỉ? Maura tự hỏi. Mình đã làm gì?

- Bác sĩ Idles?- Một cảnh sát đứng gần đang nhìn cô hỏi - là cô... phải không?

Ồ đó là một câu hỏi ngớ ngẩn thật đấy, Maura nghĩ và nói:

- Ùm... đó là nhà tôi. Chuyện gì xảy ra vậy anh cảnh sát?

Tay cảnh sát thở một hơi rồi nói.

- Ừm, cô nên đi với tôi.

Anh ta nắm lấy tay cô và dẫn cô đi qua đám đông. Những người hàng xóm lập tức dạt qua một bên như thể dành đường cho một tù nhân. Họ im lặng một cách đáng sợ và chỉ có âm thanh từ máy bộ đàm của cảnh sát. Cả hai tiến đến dải băng vàng cảnh sát chăng ra giữa những lối đi, một vài cái băng đặt trước sân nhà Telushki. Anh ta rất tự hào về bãi cỏ của mình và chắc chắn chả thích chuyện này đâu - Đó là những gì Maura nghĩ. Tay cảnh sát kéo dải băng lên và cô chui qua nó, bước vào một khu vực mà giờ đây cô nhận ra đó là quang cảnh của một vụ án.

Cô biết vậy bởi bì cô thấy nhân vật quen thuộc ở trung tâm. Ngay từ lúc băng qua bãi cỏ, Maura đã nhận ra cảnh sát hình sự Jane Rizzoli. Giờ đang mang thai tháng thứ tám, với cỡ người trung bình trông Jane như quả lê chín trong cái quần dài. Sự có mặt của cô ấy lại là một chi tiết nữa. Cảnh sát hình sự Boston làm gì ở Brookline ngoài những vụ việc hình sự đơn thuần.

Rizzoli không thấy Maura đang đến, ánh mắt cô đang dán vào cái xe đậu bên ngoài căn nhà của Telushkin. Cô đang lắc đầu, rõ ràng là rất thất vọng, mái tóc sẫm màu xổ tung khỏi nếp.

Cộng sự của Rizzoli, Barry Frost nhìn thấy Maura trước tiên. Anh nhìn cô, rồi nhìn đi chỗ khác rồi đột ngột quay lại nhìn, gương mạt trắng bệch nhìn cô chằm chằm. Không nói năng gì anh ta lắc tay đồng sự của mình.

Rizzoli sững sờ ngay tắp lự, ánh sáng từ chiếc đèn cao áp phản chiếu gương mặt thất kinh của cô ta. Cô ta cắm đầu đi, qua lối vào tới chỗ Maura.

- Bác sĩ? - Rizzoli nói khẽ - là chị đấy à?

- Thế có thể là ai khác nữa? Tại sao mọi người cứ hỏi tôi thế nhỉ? Tại sao tất cả các anh chị cứ nhìn tôi như thể tôi là ma vậy?

- Bởi vì... - Rizzoli dừng lại, lắc đầu rũ mái tóc không nề nếp - Lạy Chúa, tôi đã tưởng chị là ma.

- Cái gì?

Rizzoli quay qua gọi lớn.

- Cha Brophy?

Maura không thấy viên mục sư đang đứng ở bên ngoài. Giờ thì anh ta đi ra khỏi chỗ bóng tối, cổ áo viền trắng. Khuôn mặt đẹp trai thường thấy trông có vẻ hốc hác và sốc nặng. Tại sao Daniel lại ở đâỵ? Những mục sư thường không được gọi đến những vụ án trừ khi gia đình nạn nhân yêu cầu. Hàng xóm của cô, Telushkin, đâu phải người theo đạo Thiên Chúa giáo, anh ta là người Do Thái mà, chả có lý do gì mời mục sư cả.

- Cha có thể đưa chị ấy vào trong nhà không, thưa Cha?

- Ai đó làm ơn cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra được không?

- Vào trong nhà đi bác sĩ, chúng tôi sẽ giải thích sau.

Maura rời khỏi bàn tay của cha Brophy đang vòng qua lưng cô, cái cách tiếp cận chắc chắn của anh ta khiến cô cảm thấy khó mà chống đỡ vào lúc này. Nhưng cô phải nghe lời thanh tra cảnh sát thôi. Cô để anh ta dẫn mình đến cửa trước và nhận ra sự liên hệ bí mật giữa họ, hơi ấm của anh ta chạm vào người cô. Cô biết anh ta đang đứng cạnh mình khi đôi tay cô run rẩy tra chìa khóa vào cửa trước. Mặc dù họ đã là bạn nhiều tháng liền rồi nhưng cô chưa bao giờ mời Daniel Brophy vào nhà mình cả, và phản ứng của cô lúc này là một lời nhắc nhở tại sao cô lại cẩn thận với anh ta như vậy. Họ bước vào trong, vào phòng khách nơi đèn tường đã bật sáng do được cài chế độ tự động. Cô dừng lại một lát gần đi văng, lưỡng lự không biết phải làm gì tiếp theo.

Cha Brophy bèn chủ động.

- Ngồi đi - anh ta chỉ xuống đivăng - Tôi sẽ lấy cho cô cái gì để uống.

- Cha là khách trong nhà tôi mà, để tôi mời cha.

- Không phải trong trường hợp này.

- Thậm chí tôi còn chẳng biết trường hợp này là gì.

- Rizzoli sẽ nói cho cô biết.

Anh ta rời khỏi phòng và trở lại với một ly nước trên tay - đó không phải là lựa chọn của cô lúc này, nhưng thôi, không thể yêu cầu một mục sư mang cho mình một ly vodka được. Cô uống một ngụm nước, cảm thấy không thoải mái lắm trước cái nhìn của anh ta. Anh ta ngồi vào cái ghế đối diện với cô và nhìn cô như sợ cô biến mất vậy.

Cuối cùng cô cũng nghe thấy Rizzoli và Frost bước vào nhà, nghe thấy tiếng họ thì thầm trao đổi với người thứ ba, một giọng mà Maura chẳng nhận ra. Cô nghĩ: lại bí mật. Sao mọi người cứ phải giữ bí mật với mình nhỉ? Họ không muốn mình biết điều gì đây?

Cô nhìn lên khi hai thám tử bước vào phòng khách với một người thứ ba mà tự giới thiệu mình là thanh tra Eckert, cái tên cô chẳng nhớ nổi quá năm phút. Sự chú ý của cô hoàn toàn tập trung vào Rizzoli, người mà cô đã từng cùng làm việc.

Người phụ nữ cô thích và nể.

Các thanh tra đều ngồi vào ghế, Rizzoli và Frost ngồi đối diện với Maura qua bàn cà phê. Cô cảm thấy quá sức, bốn người bọn họ đang nhìn cô. Frost lôi ra giấy bút. Sao anh ta lại mang giấy bút ra ghi chép? Tại sao cứ như anh ta bắt đầu hỏi cung mình vậy?

- Cô ổn chứ bác sĩ - Rizzoli hỏi, giọng mềm mại bởi sự quan tâm thật lòng.

Maura cười với câu hỏi đó.

- Tôi nghĩ mình sẽ cảm thấy khá hơn nhiều nếu tôi được biết điều gì đang diễn ra.

- Tôi có thể biết là với nay chị đã ở đâu không?

- Tôi vừa từ sân bay về.

- Sao chị lại ở sân bay?

- Tôi bay từ Paris về, sân bay Charles De Gaulle. Chuyến bay dài và tôi không thể trả lời hai mươi câu hỏi đâu.

- Chị ở Paris bao lâu?

- Một tuần. Tôi bay qua đó thứ tư tuần trước.

Maura chợt nghĩ có dấu hiệu buộc tội trong câu hỏi của Rizzoli và cô chuyển sang tức giận.

- Nếu cô không tin thì cô có thể hỏi trợ lý của tôi, Louise. Cô ta đã đặt vé chuyến bay cho tôi đấy. Tôi đến đó để tham dự một cuộc họp.

- Hội thảo pháp y quốc tế, đúng không?

Maura ngạc nhiên.

- Cô biết rồi à?

- Louise nói với tôi.

Họ đã điều tra về mình, ngay cả trước khi mình về nhà, họ đã nói chuyện với thư ký của mình.

- Cô ấy nói với chúng tôi là chị sẽ hạ cánh ở sân bay Logan lúc 5 giờ chiều nay. Giờ đã gần 10 giờ rồi, chị đã ở đâu?

- Chuyến bay bị muộn từ sân bay De Gaulle, có vụ kiểm tra an ninh gì đấy và các máy bay thì đậu đầy ở đó, chúng tôi may mắn vì đã cất cánh chỉ chậm ba tiếng.

-Vậy là chậm ba tiếng à?

- Tôi vừa nói với cô rồi.

- Chị xuống sân bay lúc mấy giờ?

-Tôi không biết, khoảng 8 giờ 30.

- Chị mất một tiếng rưỡi để từ sân bay Logan về đây ư?

- Tôi chẳng tìm thấy hành lý của mình đâu cả, tôi phải làm thủ tục với Air France để tìm hành lý.

Maura dừng lại, đột nhiên thấy giới hạn chịu đựng đã đến rồi.

- Xem này, khỉ thật, tất cả chuyện này là gì? Trước khi tôi trả lời thêm bất cứ câu hỏi nào tôi có quyền được biết. Các vị buộc tội tôi chuyện gì đây?

- Không đâu bác sĩ, chúng tôi không buộc tội gì chị cả. Chúng tôi chỉ đang cố vạch ra một khung thời gian thôi.

- Khung thời gian cho cái gì?

Frost hỏi cô.

- Cô có nhận được bất cứ lời đe dọa nào không, bác sĩ Idles?

Cô nhìn anh ta trân trối.

- Cái gì?

- Cô có biết ai có thể có động cơ để hại cô không?

- Không.

- Cô chắc chứ?

Maura cười mệt mỏi.

- Ồ, có ai dám chắc?

- Chắc là chị có vài vụ ở tòa mà lời chứng của chị có thể làm ảnh hưởng tới ai đó - Rizzoli nói.

- Họ chỉ có thể bị ảnh hưởng bởi sự thật thôi.

- Chị có thể có kẻ thù ở tòa vì chị giúp buộc tội.

- Tôi chắc là cô cũng thể đấy Jane, chỉ cần cô làm việc của mình thôi.

- Chị có nhận được lời đe dọa cụ thể nào không? Thư hay là điện thoại gì đấy?

- Số điện thoại của tôi không được công bố và Louise thì không cho ai biết địa chỉ của tôi.

- Thế còn những lá thư cho chị từ một văn phòng xét nghiệm y học nào đấy?

- Chỉ là những lá thư rắc rối thôi. Chúng tôi vẫn nhận được thường xuyên mà.

- Rắc rối?

- Người ta viết về người ngoài hành tinh hay là vật thể lạ, hoặc là buộc tội chúng tôi che giấu thật về pháp y. Chúng tôi bỏ chúng vào những ngăn lưu trữ. Trừ khi có một cái gì đó vượt quá mức bình thường thì chúng tôi gửi cho cảnh sát.

Maura thấy Frost chăm chú ghi chép và cô tự hỏi anh ta ghi cái quái gì thế không biết. Giờ thì cô giận dữ thật sự, cô muốn nhoài người qua bàn và giật lấy cuốn sổ của anh ta.

- Bác sĩ - Rizzoli nói nhẹ nhàng — chị có chị em gái gì không?

Câu hỏi đường đột quá và Maura kinh ngạc nhìn Rizzoli chằm chặp.

- Xin lỗi?

- Chị có chị em gái gì không?

- Tại sao cô hỏi thế?

- Tôi chỉ muốn biết thôi.

Maura thở hắt ra.

- Không, tôi không có chị em gái nào hết. Và cô biết là tôi được nhận nuôi còn gì. Khi nào thì các vị mới cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra đây?

Rizzoli và Frost nhìn nhau.

Frost gấp cuốn sổ của anh ta lại.

- Tôi nghĩ đã đến lúc cho cô ấy biết rồi.

Rizzoli dẫn mọi người ra cửa trước, Maura bước ra ngoài, đêm hè ấm áp dưới ánh sáng của chiếc đèn cao áp. Cơ thể cô vẫn còn bị tác động bởi giờ Paris, bên ấy giờ đang là 4 giờ sáng và cô thấy mọi thứ qua một cái nhìn kiệt sức, ban đêm như một cơn ác mộng. Khoảng khắc cô bước ra khỏi nhà, tất cả những khuôn mặt quay ra nhìn cô chằm chặp. Cô thấy hàng xóm nhà mình văn tụ tập bên ngoài đường phố, nhìn cô bước ra khỏi dây chăng an toàn. Là một bác sĩ pháp y, cô quen với việcbị dò xét dưới đôi mắt của công chúng rồi, mọi cử chỉ của cô đều được theo dõi bởi cảnh sát và các phương tiện truyền thông nhưng đêm nay sự chú ý đó có vẻ khác thường, rầy rà hơn và đáng sợ hơn. Cô cảm thấy may mắn vì có Rizzoli và Frost ở bên cạnh, cùng với cô đi qua những ánh mắt tò mò ở lối đi và đến trước chỗ chiếc Ford Taurus đang đậu trước cửa nhà Telushkin.

Maura không nhận ra chiếc xe, nhưng cô nhận ra người đàn ông có râu đang đứng bên cạnh với bàn tay đeo găng dầy của anh ta. Bác sĩ Abe Bristol, đồng nghiệp của cô ở cơ quan xét nghiệm y học. Abe là một người đàn ông tốt bụng và vẻ ngoài của anh ta là minh chứng rõ ràng cho tình yêu vô bờ bến với thức ăn. Cái bụng của anh ta đã phình ra ngoài thắt lưng. Anh ta nhìn Maura và nói.

- Ôi Chúa ơi, đừng đùa với tôi chứ.

Anh ta hất đầu về phía chiếc xe.

- Tôi nghĩ cô nên sẵn sàng cho điều này, Maura.

Sẵn sàng cho cái gì?

Cô nhìn chiếc xe Taurus. Nó đậu phía sau ánh sáng đèn xe, bóng của nó như vượt qua bánh lái. Những vệt màu đen khó hiểu trong gió đêm. Máu.

Rizzoli chiếu đèn vào ghế sau xe. Đầu tiên, Maura không hiểu cô sẽ nhìn vào cái gì, sự chú ý của cô vẫn tập trung vào vết máu trên cửa sổ xe và cái bóng trong ghế người lái. Sau đó cô nhìn thấy rõ hơn khi đèn Magline của Rizzoli bật lên. Ngay dưới chốt cửa xe là ba vết cào song song, hằn sâu vào xe.

- Như vết cào vậy - Rizzoli nói, xoa xoa ngón tay như xoa vết sẹo.

Maura nhìn kỹ hơn các dấu vết đó. Không phải vết cào của người, cô nghĩ khi một cơn ớn lạnh tràn qua. Một vết cào của thú.

- Qua chỗ lái xe xem.

Maura không nói câu nào khi cô theo Jane đi vòng quanh chiếc Taurus.

- Biển số Massachusettes - Rizzoli nói, vung cây đèn quét sáng qua lốp xe, nhưng chỉ một chi tiết nhỏ thoáng qua. Rizzoli tiếp tục chiếu đèn xung quanh chỗ người lái và nhìn Maura.

- Đây là điều khiến chúng tôi băn khoăn đấy - Rizzoli nói và khua ánh đèn vào trong xe.

Ánh đèn chiếu thẳng vào gương mặt của người phụ nữ đang nhìn về hướng cửa sổ xe. Gò má phải của cô ta dựa vào bánh lái và đôi mắt vẫn mở.

Maura không nói được tiếng nào, cô nhìn vào làn da trắng ngà, mái tóc đen, cặp môi đầy, hơi xẻ rãnh và kinh ngạc. Cô hơi lùi lại, chân như không còn xương và cô thấy hình như mình đang bay lơ lửng, cơ thể không còn trên mặt đất. Một bàn tay nắm lấy tay cô, giữ chặt cô. Là cha Brophy, đang đứng ngay đằng sau cô. Thậm chí cô không nhận ra sự có mặt của anh ta.

Giờ thì cô hiểu tại sao mọi người nhìn cô kinh ngạc thế khi cô về đến nhà. Cô nhìn vào tử thi trong xe, gương mặt sáng dưới ánh đèn của Rizzoli.

Đó là mình, người phụ nữ đó là mình.