← Quay lại trang sách

Chương 2 Khu Chợ

Trong Ngõ Trại giam, vào một buổi sáng mùa hè nọ, cách đây trên hai thế kỷ, dân Boston đứng xúm xít khá đông trên bãi cỏ trước nhà tù, mọi con mắt chăm chú đổ dồn vào cánh cửa gỗ sồi đóng đinh sắt kiên cố. Nếu là ở một dân tộc khác, hoặc ở một thời kỳ nào đó gần đây hơn trong lịch sử của miền Niu Inglơn này, thì cái vẻ nghiêm khắc dữ tợn đằng đằng sát khí trên những gương mặt râu ria bờm xờm của những con người kia hẳn đã là điềm báo trước một sự kiện gì đó kinh khủng lắm sắp xảy ra. Hẳn sẽ không thể là một cái gì dưới mức cuộc hành quyết một kẻ tội phạm nào đấy mà mọi người đều biết, mà bản án kết tội của pháp lý chẳng qua chỉ là sự thừa nhận lời phán quyết của công chúng phẫn nộ. Nhưng ở đây, trong thời buổi mang tính cách khắc nghiệt của xã hội Thanh giáo thuở ban sơ ấy, không thể hình dung lối suy luận như vậy một cách khẳng định. Sự thật có thể chỉ là một kẻ nô lệ lười biếng, hay một đứa trẻ ngổ ngược bị cha mẹ trao cho nhà chức trách, sắp bị đưa ra sửa tội bằng roi. Cũng có thể là một tín đồ Antinomian, một Quây-cơ, hay một kẻ cuồng tín của một thứ dị giáo khác, sắp bị đánh đòn đuổi ra khỏi thành phố, hoặc một người da đỏ ăn không ngồi rồi hay lang thang lêu lổng, sinh sự náo loạn giữa phố vì uống phải nước lửa của người da trắng sắp bị một trận roi vọt trừng phạt rồi bị tống cổ vào rừng sâu. Mà cũng có thể là một con mụ tính tình gay gắt ác độc, sắp bị xử tội chết dưới giá treo cổ. Dù là trường hợp nào đi nữa, thái độ của công chúng vẫn mang một vẻ trang trọng giống như nhau, vẻ đó thật thích hợp với những con người xem tôn giáo và luật pháp hầu như chỉ là một, cả hai điều đó hòa lẫn vào tính cách của họ một cách nhuần nhuyễn đến nỗi các biện pháp xử lý nhẹ nhất và nghiêm khắc nhất đều được xem là đáng tôn trọng và đáng kinh sợ như nhau. Nếu có sự thông cảm nào mà một người có tội có thể mong chờ ở những kẻ ngoài cuộc đứng xem quanh đoạn đầu đài, thì đó chỉ là tí chút thông cảm sơ sài và hờ hững. Ngược lại, một hình phạt mà trong thời đại chúng ta ắt sẽ bao hàm một ý nghĩa sỉ nhục nhạo báng và bông đùa giễu cợt ở mức độ nào đó, thì thời ấy có thể khoác một vẻ cũng trang nghiêm gần như là một vụ án tử hình vậy.

Có một tình tiết đáng chú ý trong cái quang cảnh buổi sáng ấy khi câu chuyện này của của tôi bắt đầu, là đám phụ nữ, có mặt khá đông đảo trong số người tụ tập trước cửa nhà tù, biểu lộ một mối quan tâm đặc biệt đến hình thức xử phạt nào đó mà người ta đang chờ đợi chứng kiến.

Thời ấy cũng chả có sự tế nhị gì nhiều lắm để khiến cho ý thức về sự bất nhã có thể ngăn giữ những con người mang váy lót và váy phồng đừng có sấn sổ bước ra giữa nơi công cộng và chen lấn để chêm cái thân hình chẳng mảnh mai gì của họ, nếu có điều kiện, vào giữa đám đông đứng sát bên đoạn đầu đài trong một vụ hành quyết. Về tinh thần cũng như về thể xác, lớp đàn bà và con gái ấy thuộc dòng dõi và lễ giáo của người Anh xưa mang tính chất thô lỗ hơn những con cháu tao nhã của họ cách họ một thời kỳ dài hàng sáu bảy thế hệ ; bởi vì, qua suốt hệ thống ấy của dòng họ, mỗi người mẹ kế tiếp lại truyền sang cho con mình một sắc hồng nhạt hơn, một vẻ đẹp thanh tú hơn nhưng chóng tàn hơn, và một khổ người thon thả hơn, nếu không phải là một tính cách yếu hơn và kém vững chãi hơn mình. Những người đàn bà hiện đứng trước cánh cửa nhà tù kia đang sống trong vòng không đầy nửa thế kỷ sau thời Elizabeth I, vị nữ hoàng đầy tính chất đàn ông nhưng không phải hoàn toàn thiếu tư cách tiêu biểu cho nữ giới. Họ là đồng hương của nữ hoàng đó? Và món thịt bò cùng thứ bia của quê hương họ, với một chế độ dinh dưỡng tinh thần cũng chẳng tinh tế hơn chút nào, đã tham gia một phần lớn vào công cuộc cấu tạo nên con người của họ. Bởi vậy cho nên, buổi sáng hôm ấy, ánh mặt trời rạng rỡ đã ngời sáng trên những đôi vai rộng và những bộ ngực nở nang, trên những đôi má phính ỏ ửng, những đặc điểm của thể chất đã chín từ hồi còn trên hòn đảo nước Anh cổ xa xôi, hầu như chưa phai nhạt hoặc thon thả đi được tí nào trong bầu không khí của Niu Inglơn (“Nước Anh mới”). Hơn nữa, ở các bậc phu nhân này còn có một phong thái táo tợn ăn nói oang oang (hình như hầu hết bọn họ đều vậy cả) có thể điều khiến cho chúng ta trong thời đại ngày nay phải giật nảy mình vì nội dung của lời phát biểu hoặc vì âm lượng của tiếng nói.

- Này các bà ơi – một phu nhân trạc năm mươi tuổi có nét khắc nghiệt lên tiếng – Tôi xin có một lời thế này! Muốn hay muốn tốt gì cho xã hội, xin hẵng cứ giao quyền xử tội những đồ gian tà như cái con mẹ Hester Prynne này cho cánh phụ nữ chúng ta vừa lớn tuổi chính chắn, vừa có tiếng tốt trong xứ đạo. Các bà nghĩ sao nào, hở các bà? Ví như cứ lôi cổ cái con mất nết ấy ra trước nhóm năm người chúng mình đang đứng đây này, cho chúng mình xét xử, thì liệu hắn có được hưởng cái án kia của các vị quan tòa đáng kính để mà thoát được không chớ? Hứ? Tôi tin là không!

Một bà khác nói:

- Người ta bảo rằng Đức Cha Dimmesdale, vị mục sư thánh thiện coi sóc phần hồn cho con mụ ấy, rất lấy làm đau buồn vì một vụ nhục nhã đến như vậy lại xảy ra trong giáo khu của người.

- Các cụ quan tòa là những ngài biết sợ Chúa, cơ mà họ quá ư là từ bi – thật thế đấy! – Một bà thứ ba, cũng tuổi đã xế chiều, tiếp lời – Đáng ra chí ít họ cũng phải đóng một cái dấu sắt nung đỏ lên trán con mụ Hester Prynne. Tôi thì cứ xin nói chắc rằng bà Hester nhà ta bị đóng cái dấu ấy hẳn sẽ phải co rúm lại. Đằng này thì cái con hư đốn ấy cứ việc trân tráo, cóc cần phải bận tâm đến cái gì người ta đeo lên vạt áo trước ngực hắn. Phải thế không nào? Rồi các bà xem, hắn có thể che nó đi bằng một cái phin hoa hay một đồ trang sức nào đó giống như vậy của bọn ngoại đạo, và thế là cứ việc vác mặt hiên ngang đi trên đường phố như thường.

Một bà còn trẻ, tay dắt đứa con nhỏ, nói xen vào, giọng nhẹ nhàng hơn:

- Cứ để chị ta che cái dấu ấy đi, nếu chị ta muốn. Nhưng nó sẽ vẫn luôn luôn gay nhức nhối trong lòng chị ta.

- Gớm, nói làm gì đến những dấu với vết, trên vạt áo hay trên trán ả? Rõ thừa hơi! – Một bà khác, nhân vật xấu xí nhất cũng như tàn nhẫn nhất trong số những kẻ tự cho mình cái quyền xử án ấy, kêu lên - Ả làm nhục cho cánh đàn bà chúng ta, bắt ả phải chết. Phải chăng không có điều luật nào về vấn đề này? Có chứ, cả trong Kinh thánh, cả trong bộ luật! Để rồi xem! Các vị quan tòa đã không làm cho ra nhẽ rồi đây sẽ cứ ngồi mà ngậm bồ hòn khi vợ hay con gái các vị đi làm bậy.

- Ôi thôi thôi! Xin mở lượng hải hà cho chúng dân, bà ơi – Một người đàn ông trong đám đông thốt lên – Chả lẽ không còn thứ đức hạnh nào khác ở người phụ nữ nữa sao, mà chỉ có cái đức sợ giá treo cổ? Nói như bà thì khắc nghiệt quá đấy! Nhưng thôi, xin hãy yên lặng, các bà! Kìa người ta đang mở khóa cửa nhà tù! Đích thân ả, Hester Prynne, sắp đi ra đấy.

Cánh cửa nhà tù bị đẩy mạnh từ bên trong, mở tung. Thoạt tiên, như một bóng đen ló ra giữa ánh mặt trời, xuất hiện cái bộ dạng hung thần ác nghiệt của viên tư tế thành phố, kiếm đeo bên hông, gậy quyền trong tay. Nhân vật này là hình ảnh đặc trưng thể hiện ở cái vẻ ngoài của mình toàn bộ tính chất nghiêm khắc thảm đạm của quy tắc luật pháp Thanh giáo, mà phận sự của ông ta là thực hiện giai đoạn cuối cùng và trực tiếp của việc thi hành luật pháp đó đối với kẻ phạm tội. Tay trái đưa thẳng chiếc gậy quyền ra phía trước, ông ta đặt bàn tay phải trên vai một người đàn bà trẻ, kéo chị này từ phía trong ra. Khi tới ngưỡng cửa nhà tù, chị này vụt đẩy ông ta ra với một cử chỉ đầy tự trọng và sức mạnh của tính cách, rồi bước ra ngoài trời, như thể hoàn toàn do ý muốn của mình. Chị bế trong tay một đứa bé khoảng ba tháng. Đứa bé nhấp nháy mắt và ngoảnh bộ mặt tí xíu sang một bên trước ánh sáng chói lọi, bởi cho tới lúc này, những giờ phút ban đầu của cuộc đời bé chỉ mới được làm quen với cái tranh tối tranh sáng âm u của hầm ngục hoặc những buồng giam tối tăm khác của nhà tà.

Khi người thiếu phụ - người mẹ trẻ của đứa bé ấy – đứng bộc lộ hoàn toàn ra trước mắt đám đông, hình như phản xạ đầu tiên của chị là ghì chặt đứa bé vào ngực, chẳng phải chủ yếu do một sự thôi thúc của tình mẹ, mà hình như chính là để có thể che giấu đi một cái dấu hiệu gì đấy thêu hoặc đính trên áo của mình. Thế nhưng, một lát sau, tỉnh táo nhận thức được rằng một dấu hiệu này của sự hổ thẹn sẽ chỉ có tác dụng vụng về che giấu không nổi một dấu hiệu khác mà thôi, chị bèn hạ con xuống bế trên cánh tay, rồi ngửng khuôn mặt đỏ bừng, tuy nhiên với một nụ cười ngạo mạn và một cái nhìn mà không ai dễ gì làm cho bối rối, chị đưa mắt nhìn những người dân trong thành phố và láng giềng của chị vây quanh. Trên ngực áo chị, lộ ra một chữ A hoa bằng vải mịn đẹp màu đỏ, viền những đường thêu tinh tế công phu và những nét trang trí hoa mĩ kì dị bằng kim tuyến. Nó được trình bày thật nghệ thuật và thể hiện một khiếu thẩm mĩ sáng tạo phong phú kỳ diệu đến nỗi nó hoàn toàn có tác dụng như một khoản tô điểm trau chuốt cuối cùng rất hợp với bộ y phục chị đang mặc, bộ y phục mà vẻ lộng lẫy thật là phù hợp với gu của thời đại, nhưng lại vượt quá xa mức cho phép của qui tắc hạn chế chi tiêu do chính quyền khu định cư ấn định.

Người thiếu phụ có thân hình cao to, nhưng vẫn có một dáng thanh lịch hoàn hảo. Tóc chị đen và dày, bóng nhoáng, hắt ra những tia sáng dưới ánh mặt trời ; khuôn mặt chị, ngoài vẻ xinh đẹp của những đường nét cân đối và nước da tươi thắm, còn gây một ấn tượng đặc biệt ở vầng trán cương nghị và đôi mắt đen sâu thẳm. Chị cũng có dáng vẻ như một phu nhân, theo kiểu cách của phụ nữ trâm anh thời đó, mà đặc điểm là một vẻ trang trọng và đường hoàng, chứ không phải là cái vẻ uyển chuyển tế nhị, phù hoa và thật là khó tả của các bà quí tộc đời nay. Và chưa bao giờ Hester Prynne lại có dáng vẻ một phu nhân, đúng theo cách hiểu xưa về từ ngữ này, hơn lúc ấy khi chị vừa bước ra khỏi cửa nhà tù. Những người từng quen biết chị và chắc mẩm sẽ nhìn thấy chị tối sầm lại dưới đám mây tai họa, lúc này đều ngạc nhiên, thậm chí giật mình khi thấy sắc đẹp của chị sao mà rạng rỡ đến thế, biến nỗi bất hạnh và ô nhục bao phủ quanh chị thành một vầng hào quang tỏa sáng. Đối với một người quan sát nhạy cảm, có một cái gì đó đớn đau thấm thía bên trong cảnh tượng này. Bộ quần áo của chị, mà chị đã thêu may trong nhà tù, mà kiểu cách phần lớn do bản thân chị tưởng tượng sáng tạo ra, có vẻ như muốn biểu thị thái độ tinh thần c chị, tính bất chấp liều mạng trong tâm trạng chị, qua những đặc điểm ngông cuồng bay bướm độc đáo của nó. Nhưng đặc điểm nổi bật hơn cả, đã thu hút sự chú ý của mọi con mắt, và đã thay hình đổi dạng kẻ mặc bộ y phục ấy, có thể cho là như vậy, - đến nỗi mọi người, cả đàn ông lẫn đàn bà, trước kia đã quen thuộc Hester nay bỗng nhiên sửng sốt như thể nhìn thấy chị lần đầu – đặc điểm ấy là chữ A Màu Đỏ kia với những đường thêu thùa kỳ diệu rạng rỡ trên ngực chị. Nó có tác dụng như một thứ bùa phép, lôi chị thoát ra khỏi những mối liên hệ thông thường với loài người, đặt chị trong một môi trường đặc biệt của riêng một mình chị.

- Cái tài thêu thùa của ả thì khỏi phải bàn – Một trong những bà đứng đấy nhận xét – Trước ả đã bao giờ có người đàn bà nào nghĩ ra cái cách phô bày tài nghệ của mình như vậy chưa? Các bà thử nghĩ xem! Đó là cái gì nếu không phải là để cười vào mũi các cụ quan tòa ngoan đạo, để biến cái hình thức trừng phạt mà các vị đáng kính ấy dành cho ả trở thành một điều hãnh diện?

Bà phu nhân có bộ mặt sắt đá nhất trong đám cất tiếng giận dữ:

- Cứ lột quách cái áo đẹp đẽ ấy của bà Hester ra đi. Còn cái chữ đỏ ả thêu kì quặc thế kia thì tôi xin cúng một miếng giẻ rách thấp khớp của tôi để làm một chữ khác hợp hơn.

- Thôi xin các bà, nói nhỏ thôi – Người phụ nữ trẻ tuổi nhất trong bọn họ thì thầm. – Đừng để chị ta nghe thấy mà tội. Mỗi mũi thêu ở cái chữ ấy là một mũi đâm đau nhói vào tim chị ta đấy.

Viên tư tế dữ tợn lúc này vung chiếc gậy quyền lên.

- Nào xin tránh ra cho, bà con! Nhân danh Đức Vua – Ông ta kêu lên – Tránh ra một lối cho đi với nào! Xin hứa với bà con, chúng tôi sẽ cho mụ Prynne đứng ở một chỗ mà tất cả bà con nam phụ lão ấu đều có thể nhìn thấy rõ cái đồ thêu trang trí trên người mụ, từ giờ đến tận một giờ chiều. Cầu Chúa ban phước lành cho khu định cư Massachusetts đầy đức hạnh, nơi đây mọi tội lỗi đều phải bị lôi ra trước ánh sáng mặt trời! Nào, đi! Bà Hester! Đến khu chợ mà phô cái chữ A màu đỏ của bà ra cho mọi người xem!

Tức thì đám đông giãn ra nhường một lối đi. Viên tế tư dẫn đầu, Hester Prynne bước theo sau, đi tới chỗ người ta đã chọn làm nơi trừng phạt chị, kèm sau chị là một đám rước lộn xộn không hàng không lối, đàn ông vừng trán nghiêm nghị, đàn bà vẻ mặt hằm hằm. Một đám đông học sinh háo hức và tò mò, chẳng hiểu gì mấy, chỉ biết là được nghỉ một buổi học, kéo nhau chạy phía đằng trước Hester, liên tục quay đầu lại nhìn chằm chằm vào mặt chị, vào đứa bé hay hấp háy mắt mà chị bế trên tay, và vào cái chữ ô nhục màu đỏ trên ngực chị. Khoảng cách từ cửa nhà tù đến khu chợ không xa. Thế nhưng, do bằng tâm trạng đau đớn của kẻ bị tù tội, có thể coi đó là một cuộc hành trình khá dài, vì dù cho thái độ bên ngoài của chị thản nhiên ngạo mạn là thế, mỗi tiếng bước chân của những người lũ lượt kéo theo nhìn chị kia đều đâm một nhát đau nhức nhối vào lòng chị, như thể quả tim chị bị ném ra giữa đường cho tất cả bọn họ hắt hủi và giẫm đạp. Song lẽ, trong bản chất tự nhiên của con người chúng ta, có một khả năng thật kỳ diệu, đầy ơn phước, là trong khi đang bị tra tấn, một nạn nhân không bao giờ cảm biết được cường độ ác liệt của cực hình, mà chỉ sau đó mới nhận thấy rõ cái đau thấm sâu nhức nhối. Bởi vậy, với một phong thái gần như bình thản, Hester Prynne chịu đựng được qua hết giai đoạn này của cuộc thử thách. Chị bị dẫn tới một cái bục, một thứ đoạn đầu đài, dựng ở mé tây quảng trường họp chợ. Cái bục này hầu như nằm hẳn bên dưới mái chia của ngôi nhà thờ cổ nhất của Boston và có vẻ như là một công trình phụ cố định của ngôi nhà này.

Thực vậy, cái đoạn đầu đài này là một phần của bộ máy hình phạt mà đã vài ba thế hệ nay người ta chỉ cỏn xem như là một vấn đề lịch sử đơn thuần, nhưng trong thời xưa ấy nó đã được dùng làm một tác nhân cổ vũ như cái máy chém trong bàn tay những người dùng chính sách khủng bố ở Pháp. Để giới thiệu một cách ngắn gọn, nó chính là cái bục bêu tội nhân. Trên bục, sừng sững cái giàn gông của thứ công cụ trừng phạt ấy, được đóng góp theo cách như thế nào đó để kìm chặt lấy cái đầu người có tội, ghéch cái đầu ấy ngẩng lên cho công chúng nhìn rõ, Cái tinh thần thực sự của sự ô nhục được tượng trưng và bộc lộ hiển nhiên ở bộ máy sáng chế bằng gỗ và sắt này. Dù cho kẻ bị trừng trị phạm phải tội gì đi chăng nữa, hình như không thể có một sự xúc phạm nào đến bản chất chung của con người trắng trợn hơn là cấm kẻ có tội giấu mặt mình đi vì xấu hổ ; ấy thực chất ý đồ của hình phạt này là như vậy đó. Trong trường hợp Hester Prynne, cũng như trong không hiếm trường hợp khác, bản chất đã xử phạt chị đứng trên bục một thời gian, nhưng không phải đút đầu vào cái gông kia cho nó chịt lấy cổ và giữ đầu giơ mặt, cái lối gông này là đặc điểm độc ác nhất của cái bộ máy quỉ sứ ấy. Đã được báo cho biết thứ hình phạt dành cho mình, Hester Prynne leo mấy bậc gỗ bước lên trên cái bục cao khoảng ngang tầm vai người lớn, và vậy là đứng phô mình ra trước con mắt của đông đảo công chúng đứng vây quanh.

Ví thử như có một kẻ theo chủ nghĩa Giáo hoàng đứng kia giữa đám đông người Thanh giáo, thì sự xuất hiện của người đàn bà xinh đẹp này, đầy vẻ sinh động như một bức tranh trong bộ trang phục ấy, với phong cách ấy và với đứa bé ấy bế trên tay, chắc đã có thể gợi lên cho anh ta hình ảnh Đức Mẹ thánh thần, mà biết bao nhiêu họa sĩ lừng dang xưa nay đã từng đua nhau miêu tả chắc đã gợi cho anh ta nghĩ đến, chỉ có điều là bằng cách so sánh tương phản mà thôi, hình ảnh thiên liêng ấy của Người Mẹ trong trắng không chút lỗi lầm, mà em bé ẵm ngửa trong tay về sau sẽ trở thành Đấng Cứu thế của nhân loại. Còn ở đây thì có vết nhơ của tội lỗi nặng nhất bên trong phẩm chất thiên liêng nhất của sự sống con người, gây ra một thứ tác động khiến cho thế gian chỉ thêm tối tăm đi vì sắc đẹp của người đàn bà này và chỉ thêm bất hạnh vì đứa trẻ mà chị đã sinh ra.

Cảnh tượng này không khỏi pha trộn vào lòng người một nỗi kinh sợ mà thời đó bao giờ người ta cũng cảm thấy mỗi khi chứng kiến biểu hiện tội lỗi và sự ô nhục ở một kẻ đồng loại, trước khi xã hội biến đổi dần trở thành khá là hư hỏng để chỉ mỉm cười chứ không rùng mình trước biểu hiện ấy nữa. Lớp người đứng xem cảnh bêu nhục Hester Prynne hãy còn giữ nguyên tính mộc mạc, chưa có gì biến đổi. Giá như chị bị án tử hình, thì hẳn họ cũng đứng nhìn cái chết của chị với thái độ khá nghiêm nghị như vậy, không một chút rì rầm phàn nàn về sự khắc nghiệt của bản án, nhưng tuyệt nhiên không có cái nhẫn tâm vô tình của xã hội trong một thời đại khác, khi mà con người chỉ tìm thấy ở cảnh tượng như cái cảnh đang diễn ra đây một đề tài cho sự cười cợt. Tuy nhiên, dù cho có ai đó muốn biến sự kiện này thành trò cười, thì ý định ấy ắt cũng bị dập tắt khi nhìn thấy sự có mặt long trọng của ngài Thống đốc cùng những nhân vật danh giá có tầm cỡ khác, một vài cố vấn của ngài, một vị thẩm phán, một viên tướng, với những vị mục sư của thành phố, tất cả bọn họ ngồi hoặc đứng trên một ban công của nhà thờ nhìn xuống cái bục bêu. Khi mà những nhân vật chững chạc như vậy có thể góp mặt vào thứ cảnh tượng này mà không sợ mất vẻ oai nghiêm, hoặc giảm sự tôn kính đối với địa vị xã hội và chức vụ của mình, thì có thể kết luận một cách chắc chắn rằng việc thi hành bản án mang một ý nghĩa thực sự nghiêm chỉnh và có hiệu lực. Do vậy, quần chúng đứng xem thảy đều nghiêm nét mặt, trang trọng.

Kẻ bị xử tội khốn khổ đã hết sức nhẫn nhục với mức cố gắng cao nhất ở một người phụ nữ, dưới sức nặng ghê gớm của hàng ngàn con mắt không thương xót, tất cả đổ dồn vào chị, tập trung vào ngực chị. Thật là hầu như không thể nào chịu đựng nổi. Vốn có bản chất sôi nổi và hay xúc động, chị đã củng cố tinh thần mình để chuẩn bị đương đầu với những mũi nhọn công kích và những nhát đâm chém độc địa mà người ta sẽ trút ra cho hả bằng mọi hình thức lăng mạ, thế nhưng trong cái lối biểu hiện nghiêm nghị này của thái độ quần chúng lại có một nét riêng khủng khiếp hơn rất nhiều, đến nỗi chị mong mỏi thà là nhìn thấy tất cả những bộ mặt cứng đanh kia xệch xạc đi trong con đùa giễu đầy sự khinh miệt đối với chị còn hơn. Giá như từ đám đông rộ lên tiếng cười ầm ĩ, của đàn ông, đàn bà, cả trẻ con giọng the thé nữa, mỗi người đều góp phần – thì Hester Prynne đã có thể đáp lại tất cả bọn họ bằng một cái nhếch mép cười mỉm chua chát và khinh thị. Thế nhưng, dưới sức nặng như chì của thứ hình phạt mà chị bắt buộc phải gánh chịu này, đôi lúc chị cảm thấy dường như nhất thiết mình phải thét to lên đến vỡ tung cả lồng ngực và đâm bổ từ trên bục bêu xuống đất, nếu không sẽ phát điên lên mất.

Tuy nhiên vẫn có những khoảnh khắc mà toàn bộ quang cảnh trong đó chị đứng làm mục tiêu lổ lộ này dường như tan biến đi hoặc chỉ còn chập chờn lờ mờ trước mắt chị như một đám hình ảnh hư ảo và ma quái. Đầu óc của chị và đặc biệt là ký ức của chị lúc này hoạt động linh lợi một cách phi thường, liên tục hình dung ra những cảnh khác che mờ đi cảnh đường phố mới xây dựng này của thành phố nhỏ ở rìa vùng đất hoang vu miền Tây, hình dung ra những khuôn mặt khác che lấp hết những bộ mặt khắc nghiệt đang cau mày nhìn chị dưới vành những chiếc mũ chóp nhọn kia. Nhưng kỷ niệm vặt vãnh nhất, những mẫu ký ức về tuổi ấu thơ và hồi còn đi học, về những cuộc vui chơi, những trận cãi lộn giữa trẻ con, những sự việc nho nhỏ trong cuộc sống gia đình thời con gái, tất cả đều thức dậy tràn ngập trong đầu óc chị, trộn lẫn với những hồi ức về mọi sự kiện lớn lao nghiêm trọng nhất trong đời của chị sau này ; loại hình ảnh này và loại hình ảnh kia thảy đều quan trọng như nhau, hoặc đều là trò đùa như nhau cả. phải chăng có thể đó là một phương cách do bản năng tạo ra cho tinh thần chị, tái hiện ra trong trí tưởng tượng những hình ảnh ấy để tự giải thoát khỏi sức nặng và sự khắc nghiệt tàn nhẫn của thực tại.

Dù có thể là như vậy hay không, bục bêu lúc này vẫn là một điểm cao cho chị đứng nhìn lại toàn cảnh của quá khứ, toàn bộ con đường đời của chị từ thuở ấu thơ đầy hạnh phúc. Đứng trên cái bục khốn nạn này, chị nhìn thấy lại làng quê của chị, bên nước Anh cổ, thấy lại ngôi nhà bố mẹ, một ngôi nhà xây bằng đá xám, đã tàn tạ, đầy vẻ nghèo nàn, nhưng còn giữ được bên trên khung cửa một hình gia huy đã phai mờ, biểu tượng của một dòng dõi trâm anh cổ xưa. Chị thấy lại khuôn mặt phụ thân chị, với vầng trán quả cảm, chòm râu bạc đáng kính xõa xuống cổ áo xếp nếp kiểu cũ thời nữ hoàng Elizabeth I. Chị cũng nhìn thấy lại gương mặt mẫu thân chị, biểu hiện dạt dào một tình cảm âu yếm luôn lưu tâm theo dõi và lo lắng. Nét biểu hiện ấy trên mặt bà mãi mãi ghi đậm trong ký ức chị, và biết bao lần, ngay cả sau khi bà qua đời, đã có tác dụng như một lời can gián dịu dàng ngăn chị khỏi va vấp trên đường đi của chị. Chị nhìn thấy lại khuôn mặt của bản thân chị rạng rỡ sắc đẹp thời con gái, làm sáng ngời lên toàn bộ nền tối trong đáy tấm gương mà thuở ấy chị thường soi mình nhìn ngắm. Rồi chị lại nhìn thấy một khuôn mặt khác, khuôn mặt một người đàn ông đã đứng tuổi, xanh xao, gầy gò, giống như một nhà học giả, đôi mắt đã mờ đi đục lờ qua quá trình dài làm việc dưới ánh đèn dầu chú mục mãi mê vào nhiều cuốn sách dày cộp. Nhưng cũng đôi mắt đục lờ áy lại có một năng lực xuyên thấu kỳ lạ khi có ý định đọc sâu vào tâm hồn con người. Nhân vậy ấy, như sinh ra cho tu viện, mà trí tưởng tượng của Hester không khỏi gợi lại, là một người đàn ông hơi dị dạng, vai trái nhô cao hơn vai phải một chút. Tiếp theo sau đó, trong đầu óc của chị như giữa một phòng tranh ảnh lưu niệm kế tiếp xuất hiện hình ảnh những mạng đường phố hẹp nhằng nhịt, những tòa nhà to màu xám, những ngôi nhà thờ đồ sộ, những tòa công sở, được xây dựng từ lâu đời với kiểu kiến trúc cổ ngồ ngộ, của một thành phố lục địa ; nơi đó một cuộc sống mới đã chờ đón chị, vẫn trong mối quan hệ gắn liền với con người học giả dị dạng kia: một cuộc sống mới, nhưng sống bằng những chất liệu cũ kỹ suy thoái đi với thời gian, giống như một mảng rêu xanh trên mặt bức tường đổ nát. Và cuối cùng, những cảnh kế tiếp chuyển thay nhau đó nhòa đi, và trước mắt chị hiện ra trở lại thực tại phũ phàng giữa nơi họp chợ của khu định cư Thanh giáo, với toàn bộ dân trong thành phố tập trung đứng đấy, mọi con mắt nghiêm khắc của họ đang chĩa vào chị - đúng thế, chĩa vào chị, Hester Prynne – đứng phơi trên ngọn đầu đài – cái bục bêu – với một đứa bé bế trên tay và chữ A màu đỏ tươi, viền những đường thêu kim tuyến kỳ dị trên ngực!

Có thực như vậy không? Chị ghì đứa con vào ngực mình một cách hung tợn đến nỗi nó kêu lên một tiếng ; chị cúi xuống nhìn vào chữ A màu đỏ, thậm chí đưa ngón tay sờ, để khẳng định với mình rằng đứa bé và nỗi ô nhục của chị là có thực. Đúng rồi! Chúng đều là những sự thực hiển nhiên ở chị lúc này – mọi thứ khác đều tan biến hết…