Chương 3 Nhận Ra
Đang trong trạng thái tinh thần căng thẳng nhức nhối vì biết mình là mục tiêu của toàn bộ những con mắt nghiêm khắc kia, người phụ nữ mang chữ A màu đỏ bỗng như được giải thoát khi chị nhìn thấy một dáng hình lộ ra giữa vòng ngoài đám đông. Bao nhiêu tạm trí chị đều bị thu hút ngay vào cái dáng hình ấy, không thể cưỡng lại được. Một người da đỏ trong bộ quần áo thổ dân đang đứng ở đấy ; nhưng người da đỏ đâu phải là loại khách hiếm ở những khu định cư người Anh đến nỗi sự xuất hiện một người trong bọn họ lại cuốn hút sự chú ý của Hester Prynne trong một thời điểm như thế này được, mà lại càng khó có thể lấn át đi được mọi hình ảnh và ý nghĩa khác trong đầu óc chị. Bên cạnh người da đỏ, và trông hiển nhiên là bầu bạn cùng đi với người này đến đây, có một người da trắng khoác một bộ trang phục kỳ dị, pha trộn kiểu văn minh với kiểu man rợ.
Gã da trắng này thấp bé, khuôn mặt có nhiều nếp nhăn, những chưa phải là già. Trên nét mặt của gã có một vẻ thông minh đặc biệt, như thể con người này đã miệt mài trau dồi trí tuệ của mình đến độ trí tuệ không thể nào không nhào nặn lại thể chất cho thích ứng và đã hiển hiện ra bên ngoài qua một số dấu hiệu không thể nhầm lẫn được. Mặc dầu gã đã cố dùng kiểu ăn mặc hỗn tạp có vẻ tùy tiện cẩu thả để che giấu hoặc làm giảm bớt những nét riêng biệt của mình. Nhưng Hester Prynne đã nhận thấy rõ ràng một trong đôi vai của gã nhô cao hơn vai kia. Và khi vừa thoạt trông thấy khuôn mặt gầy gò và cái hình hơi dị dạng ấy, chị lại lần nữa ghì chặt đứa con vào ngực một cách đột ngột khiến đứa bé lại kêu lên một tiếng. Nhưng hình như người mẹ không nghe thấy tiếng con kêu.
Khi kẻ lạ mặt này bước vào khu chợ, và trước khi Hester Prynne trông thấy gã, gã đã đưa mắt nhìn người đàn bà đứng trên bục. Thoạt tiên, đó chỉ là một cái nhìn hờ hững, của một con người có thói quen chủ yếu sống với nội tâm, xem những sự vật bên ngoài là chẳng mấy quan trọng, trừ phi chúng có liên quan đến điều gì đấy trong tâm trí của mình. Nhưng đôi mắt gã lập tức trở nên tinh nhanh sắc sảo. Một vẻ ghê rợn uất ức xuất hiện xoáy cuốn trên mặt gã, như một con rắn lướt nhanh tới rồi dừng lại một lúc ở đấy, lộ rõ những vòng vặn mình quằn quại. Mặt gã tối sầm lại vì một cơn xúc động mãnh liệt. Tuy nhiên sức mạnh của lý trí gã tức khắc kìm cảm xúc ấy lại, nên có thể xem như vẻ mặt của gã vẫn bình thản, trừ một khoảnh khắc nào đấy mà thôi. Chỉ trong một thoáng, những nét chấn động ấy hầu như không thể nhận thấy được nữa, và cuối cùng lặn hẳn vào bên trong gã. Khi gã thấy mắt Hester Prynne chăm chú nhìn mình và có vẻ như đã nhận ra mình, gã từ từ và điềm tĩnh đưa một ngón tay lên phác một cử chỉ giữa không trung rồi đặt lên môi.
Đoạn, khẽ vỗ vai một người thị dân đứng bên, gã nói với ông ta bằng một cung cách lịch sự và trang trọng:
- Xin ngài cho biết, thưa ngài, người đàn bà ấy là ai? Và lý do làm sao mà người ấy lại bị bêu nhục ở đây trước mắt mọi người.
- Chắc ông bạn ở xa mới đến – Bác thị dân vừa trả lời vừa tò mò nhìn gã và người bạn thổ dân của gã – Nếu không thì hẳn ông đã nghe nói về Hester Prynne và về tội của ả. Ả đã gây tai tiếng lớn trong giáo khu của Đức Cha Dimmesdale thánh thiện.
- Ngài nói đúng đấy. – Gã kia trả lời. – Tôi là người xa lạ. Lâu nay tôi là kẻ lang thang nay đây mai đó, dù tôi không hề muốn thế. Tôi đã gặp nhiều điều rủi ro ghê gớm ngoài biển và trên đất liền, và đã bị dân ngoại đạo phương Nam giam cầm trong một thời gian dài ; nay người thổ dân này đưa tôi đến đây để tôi được chuộc ra khỏi cảnh tù đày. Vì thế tôi chẳng hay biết chuyện gì ở đây. Xin ngài vui lòng kể cho nghe về ả Hester Prynne này – tôi nói tên ả như vậy có đúng không? – về tội của ả, và điều gì đã đưa ả tới đoạn đầu đài kia?
- Xin sẵn sàng, thưa ông bạn. – Bác thị dân trả lời – Ngài đã trải qua bao nhiêu điều bất hạnh và cuộc sống giữa vùng hoang dã, hẳn là bây giờ ngài rất vui lòng được thấy mình cuối cùng có mặt tại một miền đất mà những điều trái đạo lý bị vạch trần và trừng trị trước con mắt của những nhà cầm quyền và dân chúng như ở đây, tại miền Niu Inglơn ngoan đạo này của chúng tôi. Xin thưa với ngài, ngài cần biết rằng mụ đàn bà kia là vợ của một nhà thông thái nào đó sinh ở nước Anh nhưng từ lâu đã sang sống ở Amsterdam, rồi sau đó, cách đây một thời gian cũng khá dài, ông ta lại muốn chuyển sang đây cùng chia sẻ số phận với chúng tôi ở miền Massachusetts này. Để thực hiện ý định đó, ông ta đã cho vợ sang đây trước, còn ông ta thì vẫn ở lại bên kia để tiếp tục giải quyết một số công việc cần thiết. Thế rồi thưa ngài, trong cả thời gian khoảng hai năm mà người đàn bà trở thành dân Boston, không ai biết một tin tức gì về ông Prynne, nhà thông thái nọ ; và người vợ trẻ của ông ta, ngái thấy đấy, bị bỏ mặc cho tự dấn thân vào con đường lầm lạc…
- A! Chà chà! Tôi hiểu ý ngài rồi – Gã lạ mặt trả lời với một nụ cười chua chát. – Một kẻ thông thái như người mà ngài vừa nói đến đáng lẽ đã phải học được điều này trong những cuốn sách của mình. Nhưng xin ngài vui lòng cho biết thêm, vậy chứ ai có thể là bố của đứa trẻ. – Tôi đoán nó phải được khoảng ba bốn tháng rồi nhỉ! – mà ả Prynne bế trên tay kia.
- Xin nói thật với ông bạn, đó hãy còn là một điều bí ẩn. – Người thị dân trả lời – Vẫn chưa có một vị Daniel (1) nào giải được điều bí ẩn ấy. Bà Hester nhất định từ chối không chịu nói, còn các quan tòa thì cứ luận bàn với nhau hoài, những chỉ nhọc công vô ích. Có lẽ cái thằng đàn ông ăn vụng cũng đang đứng đây thôi trong quang cảnh đáng buồn này, đàng hoàng đóng vai vô tội trước con mắt người trần, nhưng quên rằng Chúa đang nhìn thấy hắn.
- Đáng lẽ nhà thông thái kia phải thân chinh đến mà khám phá cho ra điều bí mật ấy – gã lạ mặt lại mỉm một nụ cười như ban nãy, nhận xét.
- Vâng, đúng là ông ta phải làm như vậy, nếu ông ta còn sống – Người thị dân đáp – Còn các vị quan tòa của chúng tôi ở Massachusetts này thì, thưa ngài, các vị đoán rằng người đàn bà còn trẻ và đẹp và chắc chắn đã không cưỡng nổi sức cám dỗ ghe gớm khiến ả phải sa ngã, rằng hơn nữa, rất có khả năng là đức ông chồng đã bị vùi xuống đáy biển, bởi vậy các vị đã không mạnh tay thi hành biện pháp nghiêm khắc của công lý đối với ả. Đáng ra phải xử tội chết. Nhưng các cụ lại quá khoan dung và nhân từ, chỉ kết án ả Prynne đứng khoảng ba tiếng trên bục bêu, và từ nay về sau, cho đến hết đời, phải mang một cái dấu ô nhục trên ngực.
- Xử như vậy thật là khôn! – Kẻ lạ mặt trang trọng cuối đầu, nhận xét – Vậy là ả sẽ thành một bài thuyết giáo sống để cảnh cáo tội lỗi, cho đến khi cái chữ ô nhục kia được khắc lên mộ chí của ả. Nhưng chỉ giận là cái tên tòng phạm với ả lại không bị trừng trị. Ít nhất thì hắn ta cũng phải đứng kia trên bục bêu bên cạnh ả. Nhưng thế nào người ta cũng sẽ tìm ra hắn! – Chắc chắn sẽ tìm ra hắn!
Nói đoạn, gã nhã nhặn cúi đầu chào ng thị dân cởi mở, thì thầm điều gì đó vào tai người thổ dân cùng đi, rồi cả hai lách qua đám đông rút ra ngoài.
Từ nãy đến giờ, Hester Prynne vẫn đứng sững trên bục nhìn chằm chằm vào gã lạ mặt – chăm chú tập trung vào gã đến nỗi có những lúc tất cả mọi đối tượng khác trong thế giới thực tế xung quanh dường như tan biến đi hết, chỉ còn lại gã với chị. Có lẽ một cuộc giáp mặt riêng giữa hai người như vậy sẽ khủng khiếp hơn cả cuộc gặp gỡ lúc này, giữa lúc ánh nắng hừng hực ban trưa đang thiêu đốt mặt chị và rọi sáng chói chang nỗi hổ thẹn của chị ; rọi sáng cái dấu hiệu ô nhục màu đỏ tươi trên ngực chị và đứa con từ tội lỗi sinh ra đang bế trên tay ; giữa khi cả một rừng người tụ tập như trong ngày hội đang vây quanh nhìn chòng chọc vào một gương mặt mà đáng lẽ người ta chỉ nhìn thấy dưới ánh lửa hồng êm ả trong lò sưởi giữa khung cảnh hạnh phúc của một tổ ấm, hoặc dưới tấm mạng đoan trang trong một buổi lễ ở nhà thờ. Dù sự đối mặt với ngàn vạn con mắt kia kinh khiếp đến thế, chị vẫn cảm thấy rõ đám đông ấy là một nơi trú ẩn cho mình. Với biết bao nhiêu người như vậy xen vào giữa gã với chị, chị thấy dễ chịu hơn là gặp riêng gã, chỉ hai người đối diện nhau. Chị đã bỏ chạy tìm cách lẩn tránh ngay trong sự phơi bày này trước công chúng, có thể cho là như vậy, và chị khiếp sợ cái giây phút mà chị không còn được sự bảo vệ nữa. Đắm chìm vào những suy nghĩ ấy, chị không nghe thấy tiếng một kẻ nào đó cất lên đằng sau chị, cho đến khi người ấy nhắc lại tên chị đến vài ba lần bằng một giọng nói to, nghiêm nghị, mà toàn thể đám đông đều nghe rõ:
- Nghe ta nói đây, Hester Prynne! – Tiếng nói nhắc lại.
Như mọi người đã biết, ngay phía trên các bục nơi Hester Prynne đang đứng, có một cái sân thượng như kiểu ban công hoặc hành lang lộ thiên chắp vào ngôi nhà thờ. Đây là nơi mà chính quyền thường dùng để tổ chức những buổi tuyên cáo, với sự có mặt của đông đảo các vị cầm quyền và các quan tòa, và với tất cả những nghi thức long trọng kèm theo những dịp tập hợp công chúng như vậy trong thời đó. Hôm nay tại ban công này có mặt đích thân ngài Thống đốc Bellingham đến chứng kiến quang cảnh mà chúng tôi đang mô tả, quanh ghế ngài ngồi có bốn trung sĩ làm một đội danh dự cầm kích đứng hầu. Ngài đội mũ cắm một chiếc lông chim màu đen và mặc một chiếc áo chẽn bằng nhung đen bên dưới tấm áo choàng viền đường thêu hoa mỹ. Ngài là một vị quý tộc tuổi đã cao, với những nét khắc khổ của cuộc đời đầy thử thách hằn ở những nếp nhăn trên mặt. Ngài chẳng phải là kẻ thiếu khả năng làm vị đứng đầu và đại diện của cộng đồng này, một cộng đồng mà khởi nguyên và sự tiến hóa từ thuở sơ khai cho đến giai đoạn phát triển ngày nay không phải là nhờ ở sức bật của tuổi trẻ mà nhờ ở sức lực cương nghị được tôi luyện của lớp người đứng tuổi và sự sắc sảo trầm mặc của lớp người già, một cộng đồng đã hoàn thành được nhiều, chính bởi vì nó mơ tưởng và hy vọng chẳng bao nhiêu. Còn những nhân vật quyền cao chức trọng khác ngồi xung quanh ngài Thống đốc thì đều là những kẻ nổi bật lên nhờ một tính cách chững chạc đường hoàng trong phong thái của mình, cái tính cách đặc trưng của một thời mà những hình thái quyền lực được người ta xem là có tính thiêng liêng của những thể chế thần thánh. Không có gì phải nghi ngờ, các nhà hiền triết đầy vẻ nghiêm khắc mà lúc này Hester Prynne đang quay lại ngẩng lên nhìn kia chắc chắn là những người tốt, công bằng và chín chắn. Thế nhưng đã không dễ gì chọn được trong đại gia đình loài người một số bằng ấy kẻ uyên bác và đức hạnh mà lại kém khả năng hơn các vị ấy được nữa trong việc ngồi phán xử tâm hồn một người đàn bà lầm lạc và tháo gỡ những mối tơ vò tốt xấu trong trái tim người phụ nữ ấy. Quả vậy, dường như là Hester Prynne ý thức được rõ ràng nếu có một mối thông cảm ấy chỉ có trong trái tim rộng mở và nồng hậu hơn của đám đông quần chúng kia thôi ; bởi vì khi người phụ nữ bất hạnh ngước mắt nhìn lên ban công, chị chợt tái mặt và run sợ.
Người vừa cất tiếng gọi chị và bảo chị chú ý lắng nghe là Đức Cha John Wilson, người giáo sĩ mỗi tiếng, cha cả của Boston, một nhà học giả lỗi lạc, giống như phần lớn những bạn đồng nghiệp đương thời của ông, và cũng là một người tử tế tốt bụng. Tuy nhiên phần tính cách nhân ái này không được ông lưu ý phát triển bằng những năng khiếu trí tuệ của ông, và trong thực tế đã bi6 ông xem là một điều đáng xấu hổ hơn là tự hào. Ông ta đang đứng kia trên ban công, bởi mái tóc hoa râm buông quanh dưới chiếc mũ chỏm, đôi mắt xám vốn quen với ánh sáng mờ trong phòng làm việc nay đang hấp háy, cũng như mắt đứa con nhỏ của Hester Prynne, dưới ánh nắng chan hòa. Trông ông giống như những bức chân dung khắc họa bằng đường nét ảm đạm ở trang đầu những tập bài thuyết giáo cổ ; và chẳng hơn gì một trong những bức chân dung ấy, ông không có quyền bước ra cân thiệp, như ông đang làm lúc này đây, vào một vấn đề trong lĩnh vực tội lỗi, đam mê và đau khổ của con người.
- Hester Prynne – Vị mục sư già lên tiếng. – Ta đã cố gắng thuyết phục người bạn trẻ của ta đây, kẻ đã hằng giảng Phúc âm trong mọi buổi thuyết giáo mà ngươi đã được hưởng đặc ân tham dự - Vừa nói ông Wilson vừa đặt tay lên vai một người trẻ tuổi có nước da xanh xao ngồi bên cạnh. – Phải, ta đã cố gắng thuyết phục vị giáo hữu trẻ ngoan đạo này, rằng ông ta cần giảng giải cho ngươi, ở đây, trước mặt Thượng đế và trước các nhà cầm quyền uyên bác và chính trực này, và cho toàn thể dân chúng cùng nghe, về tính chất hèn hạ và đen tối của tội lỗi của ngươi. Là người biết rõ tâm tính của ngươi hơn ta, vị giáo hữu này có thể xét thấy rõ hơn ta nên dùng lập luận gì, mềm mỏng hay quyết liệt, để có thể khiến ngươi phải từ bỏ thái độ cứng đầu ngoan cố, phải chịu khai thật ra ai là kẻ đã quyến rũ ngươi rơi vào chỗ sa ngã trầm trọng này. Thế nhưng ông đã phản đối ta – với tấm lòng quá ủy mị của tuổi trẻ, mặc dù ông là người sớm hiểu biết tinh tường trước tuổi – ông đã phản đối rằng nếu buộc một người đàn bà phải phơi bày những điều bí mật trong lòng mình ra giữa ánh sáng ban ngày, trước quần chúng đông đảo như thế này, thì sẽ là xúc phạm vào chính bản chất người phụ nữ. Đúng thế, như ta đã cố thuyết phục ông ta, sự nhục nhã nằm ngay trong việc phạm tội, chứ không phải trong việc bộc bạch tội ấy ra. Nào, bây giờ xin hỏi giáo hữu Dimmesdale một lần nữa, ý kiến của ông thế nào? Ông hay tôi, ai là kẻ sẽ phải thực hiện bổn phận dắt dẫn linh hồn tội lỗi đáng thương ấy?
Có tiếng rì rầm nỗi lên trong đám quan chức quyền quý ngồi trên ban công, rồi tiếng ngài Thống đốc Bellingham cất lên. Bằng một giọng chỉ thị hách dịch, ngài diễn đạt ý kiến mà các vị vừa trao đổi, tuy nhiên giọng ngài cố dịu đi phần nào do lòng quý trọng của ngài đối với người mục sư trẻ tuổi:
- Cha Dimmesdale thân mến – Ngài nói – Ông có trách nhiệm lớn đối với linh hồn người đàn bà này. Bởi vậy, ông cần phải khuyên nhủ chị ta để chị ta hối hận và thú nhận, lời thú nhận sẽ được xem là bằng chứng và kết quả của sự hối hận.
Lời kêu gọi đích danh đó đã cuốn hút mọi con mắt của đám đông đổ dồn vào người mục sư trẻ - Đức cha Dimmesdale, con người từ một trường đại học lớn của nước Anh tới đây, mang theo tất cả những hiểu biết của thời đại vào miền đất núi rừng hoang dã này. Tài hùng biện và nhiệt tình ngoan đạo của chàng mục sư trẻ đã hứa hẹn một địa vị cao trọng sau này trong nghề nghiệp của anh. Anh là người có vẻ bề ngoài gây một ấn tượng rất đặc biệt ở vùng trán cao xanh nhợt, đôi mắt to màu nâu đượm vẻ u buồn, đôi môi thường run run trừ khi anh gắng sức mím chặt, biểu thị cả một tính cách hết sức nhạy cảm lẫn một sức tự kiềm chế mạnh mẽ. Mặc dù chàng mục sư trẻ có thiên tư lỗi lạc và kiến thức của một nhà hôc giả, người ta thấy ở anh một khí sắc thật là kỳ lạ - một cái vẻ e sợ, hoảng hốt, gần như hãi hùng – như cái vẻ của một kẻ cảm thấy mình hoàn toàn lạc lối, bối rối trên đường đời, và chỉ có thể thoải mái thanh thản khi rút lui vào một nơi nào đó cách biệt với mọi người. Bởi vậy, trong điều kiện mà công việc của anh có thể cho phép, anh thường đi theo những con đường hẻm hẻo lánh đầy bóng tối, và giữa khung cảnh ấy anh giữ mình trong phong thái bình dị và thơ trẻ, rồi khi có việc cần thiết anh mới bước ra nói lên tiếng nói của một luồng tư tưởng tươi mát, ngát hương thơm và thanh khiết như giọt sương mai, có một ảnh hưởng kỳ diệu, như nhiều người đã nói, tác động đến họ như lời nói của một thiên thần.
Con người ấy là vậy đó, người mà Đức Cha Wilson và ngài Thống đốc đã giới thiệu thẳng ra với công chúng đòi hỏi anh phải phát biểu, trước sự chứng kiến lắng nghe của tất cả mọi người, khêu gợi điều bí ẩn kia trong một tâm hồn phụ nữ ; một tâm hồn vẫn thiêng liêng biết bao ngay cả trong tình trạng có vết nhơ tội lỗi. Tình thế đầy thử thách khó khăn của anh khiến cho đôi gò má anh tái mét và đôi môi anh run run.
- Nào! Ông bạn trẻ của tôi, ông hãy nói đôi với người đàn bà kia – Đức Cha Wilson nói – Việc đó rất hệ trọng đối với linh hồn chị ta, và bởi vậy, như ngài Thống đốc đáng kính đã nói, cũng hệ trọng đối với chính linh hồn ông, là kẻ có trách nhiệm chăn dắt linh hồn chị ta. Ông hãy khuyên nhủ chị ta thú nhận sự thực đi.
Đức cha Dimmesdale khẽ cúi đầu, dường như lẳng lặng cầu nguyện, rối bước ra.
- Hester Prynne, - Tựa mình vào lan can ban công, cúi về phía trước và đăm đăm nhìn vào mắt chị, anh lên tiếng, - Chị đã nghe vị mục sư đức hạnh đây phát biểu, và đã thấy trách nhiệm đang đè nặng lên tôi. Nếu chị cảm thấy nói ra được sẽ đưa lại sự yên tĩnh cho tâm hồn chị, và thấy rằng sự trừng phạt chị phải gánh chịu giữa cõi trần này sẽ nhờ vậy mà có hiệu lực cứu vớt linh hồn của chị hơn, thì tôi yêu cầu chị, chị hãy nói ra tên kẻ cùng phạm tội và cùng đau khổ với chị. Hãy đừng im lặng vì lòng trắc ẩn và thương cảm sai lầm nào đó với y: bởi vì, chị hãy tin tôi, Hester, mặc dù có thể y sẽ phải rời một vị trí cao trọng bước xuống, đứng ở đấy bên cạnh chị trên cái bục ô nhục kia, nhưng như vậy còn hơn là che đậy đi suốt đời một tâm hồn lầm lỗi. Đối với y, sự im lặng của chị nào có đưa lại lợi ích gì, trừ phi cám dỗ y, - hay bắt buộc y, có thể cho là như vậy, - cộng thêm sự giả dối vào tội lỗi? Thượng đế đã trao cho chị một mối nhục công khai, nhờ đó mà chị có thể giành được một chiến thắng công khai đối với điều tội lỗi ở bên trong chị và nỗi đau buồn ở bên ngoài. Chị hãy lưu ý xem, làm sao chị lại có thể từ chối không chia sẻ với y – còn y thì có lẽ không đủ can đảm tự đón nhận lấy cho mình – chén thuốc đắng, nhưng dã tật, đang được nâng lên môi chị lúc này!
Giọng nói của chàng mục sư trẻ tuổi run run mà ngọt ngào thấm đậm, thâm trầm, đôi lúc đứt quãng. Một sự xúc cảm biểu thị rõ rệt trong giọng nói, đúng hơn là chính nội dung của lời nói, đã làm rung động mọi trái tim của đông đảo quần chúng đồng tình thông cảm. Ngay cả đứa bé khốn khổ ẵm trong lòng Hester cũng chịu tác động của niềm rung cảm đó, nên đôi mắt của bé nãy giờ ngơ ngác không hồn bỗng quay sang nhìn và phía Dimmesdale, hai cánh tay tí tẹo giơ lên, bé thốt ra một tiếng kêu nhỏ nửa như vui thích nửa như rên rỉ. Lời kêu gọi của chàng mục sư dường như có một uy lực mạnh mẽ đến nỗi mọi người tin chắc là Hester Prynne sẽ nói ra ngay tên của người đàn ông phạm lỗi chứ không thể nào khác được, nếu không thì chính người đàn ông ấy, dù đang đứng ở một vị trí cao trọng hay hèn mọn như thế nào đi nữa, cũng sẽ bị thôi thúc bởi một lực tất yếu không thể tránh khỏi bên trong gã, đẩy gã bước ra, buộc gã leo lên đoạn đầu đài cùng với chị.
Nhưng, Hester Prynne lắc đầu.
- Này ả kia! Chớ có lạm dụng lòng bao dung của Thượng Đế - Đức Cha Wilson kêu lên, giọng gay gắt hơn ban nãy – Thượng đế đã khiến cho đứa con thơ của ngươi lên tiếng, để ủng hộ và khẳng định lời khuyên bảo mà ngươi vừa nghe. Nói thật ra tên của kẻ đó đi. Nói ra, và biết hối hận, sẽ có lợi cho ngươi là người có thể được tháo bỏ chữ A màu đỏ kia trên ngực.
- không! Không đời nào! – Hester Prynne trả lời, không nhìn mục sư Wilson, mà nhìn vào đôi mắt sâu thẳm và u buồn của chàng mục sư trẻ - nó đã hằn vào quá sâu rồi. Các ngài không thể xóa bỏ đi được đâu. Ôi, giá mà tôi có thể chịu đựng hộ nỗi đau của người ấy, cũng như nỗi đau của tôi!
- Nói ra đi, mụ đàn bà kia! – Tiếng một người nào đó, lạnh lùng và nghiêm khắc, từ đám đông quanh ngọn đầu đài cất lên – Nói đi! Cho đứa con mụ có một thằng bố!
- Tôi không nói! – Hester trả lời. Mặt chị thốt tái mét đi như xác chết, nhưng chị lập tức phản ứng lại tiếng nói kia mà chị nhận ra ngay không nhầm lẫn vào đâu được. – Con tôi phải tìm một người bố trên thiên đường ; nó sẽ không bao giờ biết đến một người bố giữa cõi trần.
Nãy giờ mục sư Dimmesdale vẫn nghiêng mình trên mép ban công cúi về phía trước, bàn tay đặt lên tim chờ đợi kết quả lời kêu gọi của mình.
- Chị ta không nói! – Anh thì thầm, thở ra một hơi dài, và lui về phía sau – Ôi sức mạnh và sự quảng đại diệu kỳ của một tấm lòng phụ nữ! Chị ta nhất định không nói!
Nhận thức rõ sự khăng khăng bướng bỉnh trong đầu óc kẻ tội phạm khốn khổ, vị giáo sĩ già quay sang hướng về đám đông quần chúng, bắt đầu một bài thuyết giáo về tội lỗi, bài thuyết giảng mà ông đã cẩn thận chuẩn bị sẵn từ trước cho tình huống này. Ông nói về tất cả các thứ tội lỗi, nhưng liên tục nhắc đến chữ A màu đỏ ô nhục. Trong hơn một tiếng đồng hồ bài giảng của ông vang lên sang sảng trên đầu đám đông, nhấn đi nhấn lại mãi vào cái biểu tượng ấy bằng những lời mô tả sinh động, đến nỗi nó gieo những mối kinh hãi mới vào đầu óc tưởng tượng của quần chúng, khiến người thấy dường như màu đỏ của cái biểu tượng ấy chính là do ngọn lửa của địa ngục truyền sang.
Trong khi mục sư Wilson nói, Hester vẫn đứng nguyên trên cái bục hổ nhục, đôi mắt đờ đẫn, vẻ hững hờ mệt mỏi. Sáng hôm ấy chị đã chịu đựng tất cả những gì mà sức sống tự nhiên có thể chịu đựng ; và bởi lẽ tính khí của chị không phải thuộc loại ngất xỉu đi để thoát ra khỏi cơn đau khổ quá độ, nên tinh thần của chị chỉ có thể ẩn tránh dưới cái vẻ cứng của sự vô tri vô giác, trong khi đó thì những năng lực của sự sống sinh vật vẫn tồn tại toàn vẹn. Trong trạng thái ấy, chị đứng trơ trơ, tiếng nói của nhà thuyết pháp vang như sấm động bên tai chị không chút thương xót nhưng cũng chẳng có chút tác dụng gì đối với chị. Đứa con của chị kêu khóc và la thét suốt trong thời gian cuối buổi hành tội ; chị cố dỗ cho con im, nhưng động tác của chị như cái máy, trông chị có vẻ như không thông cảm gì với sự khó chịu bứt rứt của đứa bé. Cũng trong trạng thái tâm thần và thái độ khô lạnh đó, chị lại bị dẫn trở về nhà tù, rời khỏi mọi luồng mắt nhìn chằm chằm của quần chúng đi khuất vào bên trong cánh cửa đóng đinh sắt nặng nề. Một số người ghé mắt dõi theo nhòm ngó, họ thì thào rằng cái chữ màu đỏ trên ngực chị tỏa ra một thứ ánh sáng ghê rợn dọc theo đường hành lang mờ tối đi sâu vào bên trong.
Chú thích:
(1) Daniel: Một nhà tiên tri Do thái (Kinh Thánh).