Chương 5 Hester Với Đường Kim Mũi Chỉ
Hôm nay, với thời hạn giam giữ Hester Prynne kết thúc. Cánh cửa nhà tù mở rộng, chị bước ra giữa ánh nắng chan hòa. Ánh mặt trời, tuy tỏa rọi xuống mọi người như nhau, nhưng đối với con tim khổ nhục và ốm đau của chị, lại dường như không nhằm mục đích nào khác ngoài việc làm phơi bày minh bạch chữ A màu đỏ trên ngực chị. Khi đặt những bước đầu tiên không còn ai kèm từ ngưỡng cửa nhà tù đi ra, chị cảm thấy có lẽ có một sự tra tấn thực sự hơn là trong buổi bị đưa đi diễu và trong cảnh tượng đã được mô tả trên kia, khi chị bị bêu riếu trước công chúng và đứng làm cái mốc mà toàn thể mọi người được mời chỉ tay vào sỉ nhục. Lúc đó, chị được sức chống đỡ của một trạng thái căng thẳng thần kinh khác thường và của tất cả nghị lực kiên cường trong tính cách của chị, giúp chị có thể biến đổi cảnh huống ấy thành một thứ chiến thắng kỳ dị. Hơn nữa, đó là một sự kiện đơn lẻ và tách biệt, chỉ xảy ra một lần thôi trong đời chị, do đó, để đương đầu với nó, chị có thể huy động không màng đắn đo tiết kiệm toàn bộ sinh lực đáng ra để duy trì sự sống trong nhiều năm yên lành êm ả. Chính cái luật mà người ta đưa ra để kết án chị - tên khổng lồ có bộ mặt nghiêm khắc, nhưng trong cánh tay sắt lại có đầy cường lực để hỗ trợ cũng như để hủy diệt – đã nâng chị đứng vững qua trọn cuộc thử thách ghê gớm của nỗi ô nhục. Nhưng bây giờ đây, cùng với những bước đi ra khỏi cửa nhà tù không còn ai kèm nữa, đã bắt đầu một thông lệ sẽ ngày ngày diễn ra ; và chị buộc phải, hoặc là chịu đựng nó, mang theo nó mà nối tiếp cuộc đời nhờ năng lực thông thường trong bản chất mình, hoặc là bị nhấn chìm dưới sức nặng của nó. Chị không còn có thể vay mượn gì của tương lai để giúp chị vượt qua nỗi đau hiện tại. Ngày mai sẽ mang lại điều thử thách của riêng ngày mai ; mỗi ngày một điều thử thách của riêng ngày ấy, thế nhưng cũng vẫn là điều thử thách mà hôm nay chị đang phải gánh chịu với một nỗi đau đớn khôn tả. Những ngày trong tương lai thăm thẳm sẽ lê tới phía trước một cách cực nhọc, vẫn với gánh nặng ấy đè lên đôi vai chị phải nhận, phải mang theo, nhưng không bao giờ vứt xuống được ; bởi những ngày, những năm dồn góp sẽ chất chồng thêm mãi những điều bất hạnh lên trên đống tủi nhục. Suốt tới tận cùng dòng thời gian đó phải từ bỏ hết tính cách của mình, chị sẽ thành một biểu tượng chung để cho những vị thuyết pháp và những nhà đạo đức có thể trỏ tay vào mà giải thích và minh họa một cách sinh động những hình ảnh mà họ nêu ra về sự yếu đuối của đàn bà và về đam mê tội lỗi. Và như vậy là các cô gái đồng trinh sẽ được bảo ban rằng hãy nhìn vào chị, con người mang chữ A màu đỏ cháy bỏng trên ngực kia – nhìn vào chị, người con gái của những bậc cha mẹ danh giá – nhìn vào chị, người mẹ của một đứa bé sau này sẽ lớn lên thành phụ nữ - nhìn vào chị, con người đã một thời trong trắng – hãy nhìn vào chị, đó là nhân vật tượng trưng, là hình hài, là hiện thân của tội lỗi. Rồi đây trên nấm mồ của chị, mối ô nhục mà chị phải mang theo đến cùng tới đó sẽ là tấm bia duy nhất kỷ niệm cuộc đời của chị.
Kể cũng là lạ, trong điều kiện có có cả thế gian rộng mở trước mắt chị - không bị một điều khoản bó buộc nào nào của bản án xử tội ngăn giữ chị lại trong giới hạn của khu định cư Thanh giáo quá xa xôi cách biệt và ít người biết đến này – được tự do trở về nơi chôn nhau cắt rốn, hoặc đến bất kỳ mảnh đất nào khác ở chau Âu, và tại đó ẩn tích mai danh dưới một bề ngoài đổi mới, đổi mới hoàn toàn như thể hóa thân thành kiếp khác, - lại còn có những lối mở thông cho chị tới những miền núi rừng thâm u, bí hiểm, ở đó tính hoang dã trong bản chất chị có thể dễ dàng đồng hóa với một dân tộc mà phong tục và lối sống hoàn toàn xa lạ với thứ luật lệ đã lên án chị, - ừ, kể cũng lạ là tại sao người đàn bà này lại còn gọi mảnh đất kia là xứ sở của mình, ở đấy, và chỉ ở đấy mà thôi, nhất thiết chị bị xem là thứ nhơ nhuốc? Thế nhưng có một cái gì đấy như một định mệnh, một cảm tính khó bề cưỡng lại và khó bề tránh khỏi, đến mức nó có sức mạnh của sự phán quyết, nó hầu như nhất định bắt buộc con người cứ phải dùng dằng quẩn quanh ở lại, cứ phải lảng vảng như những bóng ma tại nơi mà một sự kiện lớn lao và đặc biệt nào đó đã truyền một màu sắc vào cả cuộc đời của họ ; và cái màu sắc nhuộm u sầu vào cuộc đời họ càng tăm tối thì xu thế ấy lại càng khó bề cưỡng lại. Lỗi lầm của chị, mối nhục của chị, là những nhánh rễ mà số mệnh chị đã cắm chặt xuống đất này. Cứ như thể là chị đã sinh ra một lần thứ hai, và lần sinh ra này có sức đồng hóa chị với môi trường mạnh hơn lần thứ nhất, đã biến vùng đất núi rừng này, vùng đất hãy còn thiếu thích hợp biết bao đối với mọi kẻ hành hương và lang bạt khác, thành xứ sở của chị, một xứ sở hoang dã và u buồn, nhưng là xứ sở thực thụ cho đến hết đời của chị. So sánh với nó, tất cả những miền khác của trần gian thảy đều xa lạ với chị - ngay cả xóm làng quê chị bên nông thôn nước Anh, nơi mà tuổi thơ sướng vui và thời con gái trong trắng dường như còn nằm nguyên vẹn trong bàn tay nâng niu của thân mẫu chị, giống như những bộ quần áo xếp lại cất đi từ lâu, quê hương ấy cũng đã thành xa lạ. Chị bị cột chặt vào nơi đây bằng một sợi dây xích kết bằng những khâu sắt kiên cố, nó cọ xát làm bầm loét đến tận đáy tâm hồn chị, những không bao giờ có thể đứt được.
Mà cũng có thể là một tình cảm khác đã giữ chị lại tại miền đất. và trên con đường đi đã gây tai họa cho chị - hẳn là thế, không còn hồ nghi gì nữa, mặc dầu chị cố tự giấu mình điều bí mật ấy, và tái mặt đi mỗi khi nó vật vã muốn bung ra khỏi con tim chị, như con rắn từ trong hang ngoi lên. Nơi đây có sự tồn tại. nơi đây có bước chân lui tới, của một người mà chị cho là nối với chị bằng một mối dây gắn bó tuy không được cõi trần này công nhận những sẽ đưa hai người cùng tới trước vành móng ngựa của cuộc phán quyết cuối cùng, lấy đó làm bàn thờ cho lễ xe duyên kết tóc, đưa họ vào một kiếp sau chung vai hứng chịu sự trừng phạt đời đời. Hết lần này lại lần khác, quỷ xa tăng cám dỗ hồn người cứ giúi cái ý nghĩa này vào tâm tư của chị, rồi bật cười khi chị đón lấy với một nỗi vui mừng cuồng nhiệt mà tuyệt vọng, để rồi lại cố gắng ra sức đẩy nó ra. Chị chỉ dám nhìn thẳng vào ý nghĩ ấy trong thoáng chốc, rồi lại vội vã nhét nó vào ngục tối cài then lại. Điều mà chị tự bắt buộc phải tin vào – mà cuối cùng chị luận thành lý do khiến chị phải tiếp tục ở lại Niu Inglơn – nửa là sự thật, nửa là một điều tự dối lòng. Chị tự bảo mình rằng nơi đây là nơi chị đã lầm lỗi, vậy phải là nơi mà chị chịu sự trừng phạt giữa trần gian ; và như vậy, có lẽ là sự tra tấn của mối nhục hàng ngày cuối cùng sẽ gột rửa sạch tâm hồn chị, thay sự trong trắng đã mất đi bằng một sự trong trắng khác mang tính thánh thiện hơn, bởi đó là kết quả của sự chịu đọa đày của kẻ tử vì đạo.
Vì lẽ đó, Hester Prynne không bỏ trốn đi nơi khác. Tại vùng ngoại ô thành phố, ở rìa bán đảo, có một túp nhà nhỏ bé tách biệt hẳn với khu dân cư. Túp nhà này do một trong những người di cư đầu tiên đến đây dựng lên, rồi lại rời bỏ, vì đất đai xung quanh quá khô cằn không trồng trọt được, mà vị trí tương đối biệt lập của nó lại làm nó tách rời khỏi môi trường hoạt động xã hội đã hình thành thói quen của dân định cư. Ngôi nhà đứng ven bờ biển, trông qua một cái vũng nhỏ hướng về một dãy núi có rừng che phủ phía đằng tây. Một lùm cây cằn cỗi – vùng bán đảo này chỉ có độc thứ cây cằn cỗi như vậy – nằm chắc phía trước, nhưng không thực sự che khuất hẳn được túp nhà nhỏ, mà đúng hơn là có vẻ muốn ngỏ ý rằng nơi đây có một đối tượng sẽ vui lòng được, hoặc ít ra là đáng được che giấu đi. Được sự cho phép của các quan tòa – họ vẫn tiếp tục theo dõi giám sát chị - Hester Prynne đã mang theo một số vật dụng ít ỏi, cùng đứa con thơ dọn đến nơi trú ngụ nhỏ bé hiu quạnh này. Chị vừa đến ở thì lập tức một bóng đen thần bí gợi mối nghi ngại trùm xuống nơi đây. Bọn trẻ con, còn quá ít tuổi để có thể hiểu được lý do làm sao: mà người đàn bà này lại bị ruồng rẫy ra khỏi phạm vi cưu mang của con người, thường mò đến khá gần để nhòm ngó chị đang miệt mài kim chỉ thêu thùa bên cửa sổ, hoặc đang đứng trong khung cửa, hoặc đang lao động trong mảnh vườn nhỏ, hoặc đang đi trên đường vào thành phố, và, khi nhìn thấy chữ A màu đỏ trên ngực chị, chúng vội ù té chạy với một nỗi kinh hoàng kỳ dị lây lan ra cả bọn.
Dù tình cảnh của chị cô đơn là thế, không có một người bạn nào giữa trần gian dám giáp mặt chị là thế, nhưng Hester vẫn không rơi vào nguy cơ bị túng thiếu. Chị có trong tay một tài năng mỹ nghệ đủ để cho chị kiếm được miếng ăn cho đứa con lớn như thổi và cho bản thân mình, ngay cả ở một miền chỉ có tương đối ít đất dụng võ cho cái tài năng ấy. Kỹ năng ấy là nghệ thuật của đường kim mũi chỉ - hầu như là cái nghề tinh xảo duy nhất với sức người phụ nữ, trong thời đó cũng như ngày nay. Chính thị mang trên ngực mình, ở ngay chữ A màu đỏ viền đường thêu kỳ lạ kia, một vật mẫu của tài khéo tay tinh tế và đầy sáng tạo của chị, mà các bậc phu nhân trong cung điện ắt hài lòng muốn tận dụng, để thêm những nét trang điểm lộng lẫy hơn và cơ trí hơn nhờ bàn tay khéo léo của con người vào những lụa là vàng ngọc của họ. Quả là ở nơi đây, do đặc điểm chung mang tính giản dị tối màu trong kiểu cách trang phục của người Thanh giáo, có thể là ít khi người ta yêu cầu đến những sản phẩm tinh xảo hơn của nghề thủ công của chị. Thế nhưng, khẩu vị của thời đại đòi hỏi mọi thứ tỉ mỉ công phu trong những tác phẩm thuộc loại này, không phải là không mở rộng ảnh hưởng đến những vị tổ tiên khắc khổ của chúng ta ở đây, các vị đã thải ra biết bao nhiêu kiểu ăn mặc khác tưởng chừng như khó mà có thể bỏ đi. Những buổi lễ công cộng, như lễ thụ phong, lễ nhậm chức của các quan lại, và tất cả những gì có thể tạo ra vẻ đường bệ cho những hình thức ra mắt của một chính quyền mới trước công chúng, đều vì yêu cầu chính trị được tổ chức thành nghi lễ trang nghiêm và chu đáo, mang một vẻ hùng tráng được cố tình tô điểm cẩn thận tuy vẫn đượm màu ảm đạm. Những cổ áo xếp nếp tinh tế, những dải cổ áo khâu rất công phu, những găng tay thêu hoa mỹ, tất cả đều được xét thấy cần cho sự phô trương trịnh trọng của những kẻ cầm cân nảy mực, và sẵn sàng được người ta cho phép dùng để trang điểm cho những cá nhân được tôn lên hàng danh giá nhờ chức tước hoặc tiền tài, ngay cả trong khi mà các đạo luật hạn chế chi tiêu ngăn cấm hàng thứ dân chớ có sa vào thói xa phí như vậy hoặc tương tự. Đối với tang phục cũng thế - dù là áo quần mặc vào cho người quá cố hay phục sức bằng dạ đen hoặc bằng vải trắng dưới nhiều hình nhiều vẻ tượng trưng nhằm biểu hiện nỗi đau buồn của người còn sống – đều thường có một đòi hỏi đặc thù của nó cần đến bàn tay tài nghệ như của Hester Prynne. Cả quần áo cho trẻ thơ nữa – bởi trẻ thơ hồi bấy giờ đều có những bộ cánh chưng diện – cũng tạo thêm cơ hội cho chị lao động kiếm tiền.
Dần dà từng bước, mà cũng không phải lâu la gì lắm, những sáng tác thủ công của chị đã trở thành cái mà ngày nay người ta gọi là mốt thời trang. Cô thể là do lòng thương xót một người đàn bà rơi vào số phận khốn khổ như vậy ; hoặc là do tính hiếu kỳ của thứ đầu óc đau ốm thường gán một giá trị tưởng tượng nào đó cho cả những vật bình thường hoặc vô dụng ; hoặc là do một cảnh huống khó hiểu nào đấy, trong thời bấy giờ cũng như hiện nay, có đủ tác động tạo ra cho một số người những thuận lợi mà kẻ khác nhọc công tìm kiếm vô ích ; hoặc là bởi vì Hester đã thực sự lấp được một chỗ trống mà nếu không có chị thì hẳn là chẳng có ai điền vào được ; không rõ là vì lý do gì nhưng điều chắc chắn là chị luôn luôn sẵn có công việc làm với tiền công hậu hĩ cho bất kể bao nhiêu thì giờ mà chị muốn dành ra cho đường kim mũi chỉ cũng được. Có thể là lòng tự cao tự đại của con người, vì yêu cầu của nghi thức phù hoa và phô trương trang trọng, đành làm mất thể diện mình khi khoác những bộ y phục do bàn tay tội lỗi của chị thêu thùa. Người ta nhìn thấy tác phẩm của chị ở cổ áo xếp nếp của ngài Thống đốc, ở băng đeo gươm của nhà quân sự, ở dải cổ áo của vị mục sư ; công trình của chị tô điểm cho chiếc mũ nhỏ xinh của trẻ sơ sinh ; tác phẩm của chị được đặt vào cỗ hậu sự đóng kín lại, để rồi sẽ mốc đi và mủn nát ra cùng với thi thể người quá cố. Tuy nhiên, không thấy có một trường hợp duy nhất nào người ta vời đến cái tài của chị để thêu chiếc khăn voan màu trắng che trên đôi má trinh bạch ửng hồng của một cô dâu. Điều ngoại lệ này tỏ ra là xã hội vẫn còn luôn luôn nghiêm khắc lên án không khoan nhượng tội lỗi của chị.
Hester không tìm cách đạt được những điều kiện gì vượt quá mức một cuộc sống thuộc loại thanh bạch khổ hạnh nhất cho bản thân chị và một sự no đủ bình thường cho con gái mình. Tấm áo chị mặc chỉ bằng thứ vải thô nhất, màu tốt nhất, với mỗi một vật trang sức – chữ A màu đỏ - mà số phận bắt chị phải đeo. Bộ cánh của đứa trẻ thì trái lại, nỗi bật khác thường bởi một kỹ xảo kỳ lạ, hoặc có thể nói là kỳ diệu, nó thực sự đã góp phần nâng cao thêm một sức hấp dẫn hư ảo đã bắt đầu sớm phát lộ ở con bé. Nhưng kỹ xảo này hình như có một ý nghĩa khác nữa sâu xa hơn, mà chúng tôi sẽ còn nói đến sau này. Trừ phần chi tiêu nhỏ để trang điểm cho con, Hester dành tất cả những tiếng của thừa của mình cho việc từ thiện, giúp cho những kẻ bất hạnh còn ít khốn khổ hơn chị, những người này lại không hiếm khi lăng mạ chính bàn tay đã cứu giúp họ. một phần lớn thời gian mà đáng ra chị có thể dùng để tạo ra những sản phẩm nghệ thuật tinh xảo hơn, chị đã dành vào việc khâu may những quần áo đơn giản thô sơ cho người nghèo. Có thể là trong lối hành động ấy cô một ý thức tự hành xác để hối lỗi, và có thể là chị đã tự nguyện thực sự hy sinh một niềm vui thú khi chị cống hiến biết bao giờ cho một việc thủ công sơ đẳng như vậy. Trong bản chất chị vốn có một đặc tính của người phương Đông. Thích khoái cảm, đa dạng – một thị hiếu ham cái đẹp tuyệt mỹ, mà nếu không phải là trong những côn trình tinh tế của đường kim mũi chỉ thì sẽ không tìm thấy địa hạt nào khác trong mọi khả năng mở ra cho đời chị có thể khiến cho thị hiếu ấy được thỏa mãn. Phụ nữ bao giờ cũng tìm thấy trong công việc vá may thêu thùa tỉ mẩn một niềm vui thích mà cánh đàn ông không thể hiểu thấu được. Đối với Hester Prynne, công việc ấy có thể là một phương thức để biểu lộ ra ngoài, và do đó mà làm nguôi dịu được, xúc cảm say mê của đời mình. Nhưng cũng giống như đối với tất cả những niềm vui khác, chị đã gạt bỏ xúc cảm này đi vì xem nó là một tội lỗi. Sự can thiệp không sảng khoái ấy của lương tâm vào một vấn đề vụn vặt e rằng không phải là biểu thị một sư ăn năn hối lỗi gì thật sự và kiên định, mà là biểu thị một cái gì đó đáng ngờ,một cái gì đó có thể lại là sai lầm sâu xa ở bên trong.
Vậy là Hester đã có được một vai trò trong thiên hạ. Do nghị lực bẩm sinh và tài năng hiếm cô của chị, người đời đã không thể hoàn toàn loại bỏ chị, mặc dù họ đã in lên chị một cái dấu sỉ nhục mà đối với trái tim người phụ nữ còn khó chịu hơn là cái dấu tội phạm đóng vào trán của Cain (1). Tuy nhiên trong toàn bộ mối giao tiếp của chị với xã hội, không có cái gì để chị cảm thấy như mình là thành viên của xã hội ấy cả. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, và thậm chí cả sự lặng thinh của những người chị đến tiếp xúc điều hàm ý, và thường là biểu lộ rõ, rằng chị bị ruồng bỏ. Chị thấy mình cô độc đến mức như thẻ là chị sống ở một thiên thể khác, hoặc là quan hệ với cõi thiên nhiên chung bằng những cơ quan và những tri giác khác biệt hẳn với mọi kẻ còn lại của loài người. Chị bị tách biệt ra khỏi mọi quyền lợi về tinh thần, tuy nhiên vẫn sát kề bên cạnh, giống như một hồn ma luôn trở về bên bếp lửa gia đình, những không còn có thể làm cho người thân nhìn thấy hoặc cảm thấy được sự có mặt của mình ; không còn có nụ cười chia sẻ niềm vui với kẻ ruột thịt, cũng không được khóc than san bớt nỗi đau với họ hàng ; hoặc là nếu có cách biểu lộ ra được những tình cảm bị cấm đoán ấy, thì hồn ma ấy cũng chỉ gợi lên sự kinh hãi và ghê tởm khủng khiếp. Trên thực tế, những thứ cảm giác và phản ứng như thế này, cộng thêm một sự khinh bỉ ê chề nhất, dường như là phần duy nhất trong trái tim của tất cả mọi người mà họ còn giữ lại để giành cho chị. Thời đó không phải là thời buổi của cung cách tế nhị. Thân phận của chị thế nào chị rất hiểu, chẳng ai phải sợ rằng chị quên đi, ấy thế mà người ta thường cứ vạch ra mà đay mà nghiến, bằng thứ thái độ xúc phạm thô lỗ nhất điểm vào đúng huyệt yếu nhất, khiến mỗi lần như vậy tâm trạng nhạy cảm của chị nhói buốt như bị một một vết thương đau mới. Như đã nói trên kia, những người nghèo được chị ân cần dành cho sự cưu mang hào phóng lại thường xỉ vả chính bàn tay đã giơ ra cứu trợ họ. Những bậc phu nhân quyền quý cũng vậy, khi chị bước vào nhà các bà vì công việc làm ăn, đã thành thường lệ cứ nhỏ những giọt đắng cay vào trong tim chị, lúc thì là thứ thuốc độc tinh vi mà đàn bà thường có thể pha chế ra từ những chuyện vặt vãnh không đâu bằng cái thuật luyện đan của ác tâm thầm kín, lúc thì một nét biểu thị phũ phàng hơn, vụt thẳng vào giữa ngực con người đau khổ không chút khả năng tự vệ, như một đòn thô bạo đánh vào vết thương đang lở loét. Hester đã luyện được cho mình tinh thần chịu đựng giỏi và bền bỉ ; khi bị xúc phạm, chị không bao giờ phản ứng lại, chỉ có một dòng máu trào lên không thể nén được làm đôi má xanh tái của chị bừng lên đỏ nhừ, rồi lại rút xuống lắng sâu vào đáy lòng chị. Chị luôn kiên nhẫn chịu đựng – quả là một kẻ tử vì đạo – nhưng mặc dù chị rất muốn tha thứ, chị cũng từ bỏ ý định cầu nguyện cho những kẻ thù địch, vì sợ rằng những lời cầu Chúa ban phước lành không phát ra đúng theo ý muốn của chị mà lại trái đi thành lời nguyền rủa.
_______
(1) Cain: Con cả của Ađam và Eva, phạm tội giết em (Kinh thánh).
Chị đã bị dày vò liên tục và trong năm ngàn trường hợp khác nhau bởi vô vàn cơn đau nhức nhối mà bản án mãi mãi có hiệu lực của pháp đình Thanh giáo đã quỷ quyệt trù tính bắt chị phải chịu đựng. Các giáo sĩ dừng chân giữa đường để nói vài lời khuyên nhủ, thường thu hút một đám đông kéo đến quanh người đàn bà tội lỗi đáng thương, kẻ nhăn nhở, người cau mày. Nếu chị bước vào nhà thờ ngày chủ nhật, hy vọng được cùng mọi người hưởng phần ơn phước trong nụ cười của Chúa, thì chị thường gặp phải nỗi bất hạnh là bị đưa ra làm chủ đề trong nội dung bài giảng đạo. Chị đâm ra khiếp sợ đám trẻ con, bởi chúng đã tiêm nhiễm từ bố mẹ chúng một ý niệm mơ hồ về một cái gì đó thật là khủng khiếp ở người đàn bà buồn thảm lặng lẽ lướt qua kia như cái bóng âm thầm giữa phố, chẳng bao giờ có bầu bạn ngoài một đứa con duy nhất. Do đó chúng thường để cho chị đi qua cái đã, rồi mới từ xa ném theo chị những tiếng kêu the thé và những lời không có ý nghĩa gì rõ rệt đối với đầu óc chúng, tuy nhiên lại rất kinh khủng đối với chị, khi thốt ra rừ miệng trẻ thơ bập bẹ vô ý thức. Dường như điều đó chứng tỏ là tiếng xấu nhục nhã về chị đã truyền đi rộng rãi đến nỗi vạn vật trong thiên nhiên đều biết ; có thể là chị cũng không còn đau đớn xót xa hơn được nữa nếu như những chiếc lá trên cây có cùng nhau xì xào – nếu như ngọn gió nhẹ mùa hè có rì rầm thủ thỉ - nếu như cơn gió bấc mùa đông có gào to lên, về câu chuyện đáng buồn ấy. Lại còn một sự tra tấn khác, một sự tra tấn đặc biệt, trong cái nhìn chằm chằm của một con mắt chưa hề quen biết. Khi có người lạ mặt tò mò nhìn vào chữ A màu đỏ - mà quả là không có ai lại không nhìn – thì cái nhìn ấy lại như một lần nữa đóng cái dấu sỉ nhục vào trong lòng chị ; đến nỗi đã bao lần chị hầu như không thể kìm lại, tuy nhiên đã vẫn luôn luôn kìm lại, để khỏi giơ tay che cái biểu tượng ô nhục ấy đi. Nhưng rồi một con mắt quen biết cũng có cái lối tra tấn riêng của nó. Thật không thể nào chọi nỗi cái nhìn chòng chọc lạnh lùng đã quen thuộc. Nói tóm lại, từ đầu đến cuối, Hester Prynne luôn luôn đau đớn khủng khiếp khi cảm thấy một đôi mắt của con người nhìn vào cái dấu hiệu nhục nhã. Điểm đau chả bao giờ chai đi được, trái lại, dường như nó lại mỏi lúc càng thêm nhạy cảm dưới sự tra tấn hàng ngày.
Nhưng, thỉnh thoảng một lần, cách nhiều ngày, hoặc cách nhiều tháng, chị lại thấy có một đôi mắt – một đôi mắt của con người – nhìn vào cái dấu sỉ nhục, mà sao lại dường như mang đến cho chị một sự khuây khỏa trong giây lát, như thể nỗi đau của chị được chia sẻ làm vơi đi một nửa. Nhưng ngay sau đó, toàn bộ toàn bộ nỗi thống khổ lại ùa vào lòng chị, mà lại càng nhức buốt hơn trước, bởi vì, trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, chị lại đã lần nữa phạm lỗi. Nhưng thử hỏi, phải chăng chỉ mỗi một mình Hester phạm lỗi?
Trí tưởng tượng của chị phần nào bị tác động bởi nỗi đau kỳ lạ và cô quanh của đời chị, và ví như chị có một chất tinh thần và trí tuệ mềm yếu hơn thì hẳn còn bị ảnh hưởng nhiều hơn thế nữa. Thân cô thế cô, hàng ngày lui tới trong cái thế giới nhỏ tiếp xúc với chị ở bề ngoài, thỉnh thoảng chị cảm thấy – hay có thể chỉ là tưởng tượng – rằng chữ A màu đỏ đã phú cho chị một giác quan mới. Nếu có phải đó hoàn toàn chỉ là một sự tưởng tượng, thì sự tưởng tượng này cũng có một sức thuyết phục mạnh mẽ đến nỗi khó mà gạt bỏ đi được. Chị tin vào một điều – ôi chị rùng mình run sợ khi tin vào điều này, nhưng vẫn cứ tin, không thể nào đừng được – chị tin rằng cái biểu tượng chị mang trên ngực đã truyền cho chị một khả năng giác cảm giúp chị nhận biết được tội lỗi giấu kín trong lòng người khác. Chị kinh hoảng về những điều phát hiện ra qua khả năng giao cảm ấy. Chúng là những gì vậy? Phải chăng chúng có thể là những gì khác chứ không phải là những lời thì thào xảo quyệt của quỷ dữ đã sẵn lòng muốn thuyết phục người đàn bà đang vật vã, kẻ mà đến lúc này chỉ còn là nạn nhân của nó một nửa thôi, rằng cái vỏ bề ngoài trong trắng của người đời chỉ là dối trá, rằng nếu ở đâu đâu sự thực cũng bị phô bày ra nguyên vẹn, thì chữ A màu đỏ sẽ cháy bùng trên ngực của biết bao người chứ chẳng riêng gì trên ngực Hester Prynne? Hay là chị phải công nhận những điều mách bảo ấy – những điều thật khó hiểu, nhưng cũng thật rõ ràng – là sự thực? Trong toàn bộ cuộc đời khốn khổ của chị, chưa từng có một điều gì khác đáng kinh sợ và đáng ghét như cái thứ giác quan này. Nó hoạt động nhạy bén trong những trường hợp thật là không đúng chỗ và thật bất kính, khiến cho chị vừa bối rối, vừa khó chịu kinh tởm. Thỉnh thoảng cái dấu ô nhục màu đỏ trên ngực chị lại như rộn lên một nhịp đập giao cảm khi chị đi qua bên một vị mục sư hoặc một quan tòa đáng kính, mẫu mực của lòng ngoan đạo và công lý, mà thời đại của lòng tôn sùng cổ xưa này kính trọng, như kính trọng một bậc anh em bằng hữu của các thiên thần “Có điều gì tội lỗi đang ở gần ta ấy nhỉ?!” Hester tự hỏi. Miễn cưỡng ngước nhìn lên, trong tầm mắt của mình chị không thấy một con người nào nào cái dáng hình của vị thánh sống giữa trần gian kia! Lại có trường hợp khác, cảm giác bí ẩn về một mối tình chị em cùng hội cùng thuyền cũng cứ bướng bỉnh muốn tự khẳng định bên trong chị, khi chị đối mặt với cái vẻ nghiêm nghị thánh thiện của một bậc phu nhân đứng đắn đoan trang mà theo tiếng đồn từ mọi cửa miệng, tấm lòng băng tuyết vắng ánh mặt trời trong lòng người phụ nữ đoan trang đó, với cái mối nhục cháy bỏng trên ngực Hester Prynne đây – hai cảnh huống ấy cùng có chung một tính chất gì vậy? Rồi lại có lần, một xung động truyền cảm bỗng ngầm báo cho chị - “Này Hester, nhìn kia! Một người bạn!” và ngửng lên, chị bắt gặp đôi mắt của một cô giái đồng trinh son trẻ liếc sang rụt rè nhìn vào chữ A màu đỏ rồi quay đi, đôi má hốt ửng hồng ớn lạnh như thể sự trong trắng của mình bị vây bẩn phần nào bởi cái liếc nhìn trong khoảnh khắc ấy. Ôi quân quỷ dữ đã dùng cái biểu tượng tai ương kia làm bùa phép, chẳng hóa ra ngươi không còn để một ai, dù trẻ hay già, cho kẻ lỗi lầm tội nghiệp này tôn kính nữa sao? – một sự mất lòng tin như thế này thật là một trong những hậu quả đáng buồn nhất của tội lỗi. Vậy đấy, Hester Prynne vẫn còn đấu tranh quyết liệt để tin rằng không có một kẻ đồng loại nào khác giữa cõi trần này lại lỗi lầm đến như chị. Xin hãy thừa nhận đây là một chứng cớ tỏ ra rằng không phải tất cả đều đã hư hỏng trong con người đáng thương này, nạn nhân của sự mềm yếu của chính mình và của luật pháp khắc nghiệt của xã hội.
Một số quần chúng, trong thời gian u ám ấy, những kẻ luôn luôn góp thêm màu sắc ghê rợn kỳ cục vào tô vẽ cho những điều tưởng tượng của họ, đã dựng lên một câu chuyện về chữ A màu đỏ kia, câu chuyện mà chúng ta có thể sẵn sàng soạn thành một truyền thuyết khủng khiếp. Họ quả quyết rằng cái biểu tượng ấy không phải chỉ là một mảnh vải đỏ ăn màu trong chậu thuốc nhuộm của người trần, mà là một vật nung đỏ trong lửa địa ngục, và người ta có thể nhìn thấy nó tự sáng lên theo bước chân Hester Prynne mỗi khi chị đi ra ngoài trời ban đêm. Và chúng ta tất phải thuật lại rằng nó đã nung đốt thành dấu hằn vào ngực Hester sâu đến nỗi có lẽ trong lời đồn kia có nhiều phần sự thực hơn là đầu óc đa nghi của chúng ta trong thời hiện đại có thể sẵn sàng thừa nhận.