Chương 6 Bé Pearl
Cho tới lúc này chúng ta mới chỉ nói sơ qua về đứa trẻ, một sinh linh bé nhỏ, vô tội đã xuất hiện trên cõi đời do ý muốn bí hiểm của Thượng đế, một đóa hoa kiều diễm bất tử nở ra từ dục vọng dạt dào của đam mê tội lỗi. Người phụ nữ khốn khổ theo dõi đứa con mình lớn lên, nhận thấy ở những nét của đứa bé một vẻ đẹp ngày càng rực rỡ, một vẻ thông minh ngời lên như ánh mặt trời lung linh tỏa sáng. Bé Pearl! “Pearl” – “Hạt ngọc trai” – chị đặt tên con vậy đó ; không phải là dùng hình ảnh so sánh để diễn tả cái vẻ bên ngoài của bé, bởi vẻ ngoài của nó không có gì giống với nước bóng êm dịu, trắng nhợt và thiếu rực rỡ của ngọc trai. Mà chị gọi bé là “Hạt ngọc trai” bởi vì sự ra đời của bé đã phải trả giá rất đắt – trả giá bằng tất cả mọi thứ mà chị có – bởi vì bé là kho báu duy nhất của chị. Chị suy nghĩ và cảm thấy thật là kỳ lạ! Loài người đã đóng dấu ghi tội người đàn bà này bằng một chữ A màu đỏ, cái dấu hiệu ô nhục đã có một tác dụng hiệu nghiệm và tai hại đến mức chị không thể nhận được một sự thông cảm nào của người trần, trừ sự thông cảm của mấy kẻ cũng tội lỗi như chị. Còn Chúa thì sao? Chúa đã ban cho chị một đứa con, coi đó là hậu quả trực tiếp của lỗi lầm mà con người đã trừng phạt, một đứa con xinh đẹp đáng yêu, ôm ấp giữa chính bộ ngực mang dấu nhơ nhuốc đó, để mãi mãi nối liền mẹ nó với nòi giống và các thế hệ của người trần, và để cuối cùng sẽ là một linh hồn được ban phước trên thiên giới. Thế nhưng, những suy nghĩ này đã mang lại cho Hester Prynne nhiều lo sợ hơn là hy vọng. Chị biết rằng hành động của chị bất chính, bởi vậy chị không thể có niềm tin là kết quả sẽ tốt lành. Ngày lại ngày chị lo ngại theo dõi sự phát triển của tư chất đứa bé, luôn luôn sợ rằng mình sẽ phát hiện thấy một nét khác thường nào đó đen tối và cuồng dại ứng với tội lỗi đã là nguyên nhân khiến đứa bé ra đời.
Không có một khuyết tật gì về thể chất, đó là điều chắc chắn, với một thân hình hoàn mỹ, sức khỏe tốt đẹp, một sự khéo léo bẩm sinh trong việc sử dụng đôi tay đôi chân còn non nớt, đứa bé thật xứng đáng được sinh ra giữa cõi Thiên đường, xứng đáng được giữ lại đấy làm thú vui cho các thiên thần sau khi hai vị tổ tiên đầu tiên của loài người bị đuổi ra khỏi cảnh bồng lai. Đứa bé có vẻ duyên dáng uyển chuyển tự nhiên, vẻ duyên dáng này không nhất thiết bao giờ cũng đi đôi với một sắc đẹp hoàn hảo. Quần áo của bé, dù là đơn giản đến đâu đi nữa, vẫn luôn luôn gây cho người nhìn ngắm một ấn tượng mạnh mẽ như thể đó chính là bộ thích hợp nhất với bé. Vả lại các thứ quần áo mà bé Pearl mặc chẳng phải là thứ quê mùa mộc mạc. Người mẹ, mang trong lòng một ý đồ bệnh hoạn mà sau này chúng ta sẽ có thể thấu hiểu rõ hơn, đã mua sắm cho con những thứ vải lụa mịn màng đẹp đẽ nhất, và thả cho mọi khả năng tưởng tượng sáng tạo của mình mặc sức tha hồ phiêu diêu bay bổng trong việc cắt may và tô điểm những bộ quần áo mà bé Pearl mặc trước công chúng. Nhân vật tí hon này mới lộng lẫy làm sao trong các bộ cánh chưng diện như vậy, sắc đẹp của chính con người của bé mới rực rỡ làm sao, sáng ngời lên trên nền trang phục tráng lệ có thể đã làm cho lu mờ đi những sắc đẹp khác kém phần tươi thắm, đến nỗi một vầng hào quang thực sự đã tỏa ra quanh bé trong khung cảnh tăm tối của ngôi nhà nhỏ. Ấy thế mà khi mặc chiếc áo váy bình thường, hoặc toạc rách và vấy bẩn vì lăn lóc chơi đùa, con người của bé vẫn là một bức tranh đẹp hoàn hảo giống như vậy. Cái vẻ bên ngoài của bé Pearl như được truyền một phép lạ biến hóa muôn màu muôn vẻ ; trong đứa trẻ này có rất nhiều đứa trẻ khác nhau, gồm đủ tất cả các dáng từ cái vẻ xinh xắn như bông hoa dại giữa cánh đồngcc một em gái nông thôn, cho đến cái vẻ hoa lệ rực rỡ thu lại tầm cỡ nhỏ của một nàng công chúa. Tuy nhiên, trong tất cả các dạng ấy, lúc nào cũng có một nét say mê sôi nổi, một màu sắc đặc thù nào đó khá đậm, không bao giờ mất đi: và ví như một trong dạng biến hóa nào đó mà bé lại thành ra uể oải hơn, hoặc nhợt nhạt hơn, thì bé sẽ thôi không phải là bé nữa – sẽ không còn là Pearl nữa.
Tính biến hóa ấy ở bên ngoài là dấu hiệu cho biết, và biểu thị khá rõ ràng những tính cách khác nhau ở phần bên trong của bé. Bản chất của bé tỏ ra cũng thắm đậm, và cũng phong phú muôn vẻ ; nhưng không có mối liên quan gì đến và không có sự thích ứng với cõi đời nơi bé sinh ra – nếu không phải vì vậy thì những nỗi lo sợ của Hester ắt đã làm chị thất vọng. Không thể nào làm cho bé chịu tuân theo các luật lệ phép tắc. Ngay trong việc cho bé ra đời, một luật trọng đại đã bị vi phạm: và kết quả là hình thành một sinh linh mà những nhân tố cấu tạo có thể là tươi đẹp và rực rỡ đấy, nhưng hỗn loạn tất cả hoặc là nằm trong một thứ trật tự riêng biệt của chúng, giữa những nhân tố ấy khó mà có thể hoặc không tài nào có thể phát hiện ra được đâu là điểm khác nhau và đâu là điểm hòa hợp được với nhau. Hester chỉ có thể giải thích lý do làm sao tính cách con mình lại như vậy – mà cũng chỉ giải thích được mơ hồ và không đầy đủ - bằng cách nhớ lại bản thân mình đã như thế nào trong giai đoạn quan trọng ấy, giai đoạn mà Pearl nhận được phần linh hồn của mình từ thế giới thần thánh và phần thể xác của mình từ chất liệu của trần gian. Trạng thái say sưa sôi nổi ở người mẹ đã là môi giới trung gian qua đó những tia sáng của cuộc sống tinh thần truyền đến đứa con lúc nó chưa sinh ; và dù rằng ban đầu nguyên là trong trắng thế nào đi nữa, những tia sáng ấy vẫn nhuốm những sắc thái đỏ thẫm, vàng rực, những sắc thái bốc lửa, chen cả bóng đen ảm đảm và ánh sáng riêng không pha trộn của môi giới trung gian ấy. Trước hết là trạng thái xung đột trong tinh thần của Hester hồi ấy vẫn còn tồn tại mãi trong Pearl. Chị có thể nhận ra ở con bé tâm trạng của chị hồi ấy, cuồng nhiệt, liều lĩnh, bất chấp, tính khí đồng bóng của chị, và cả một số bóng mây u buồn, chán nản trước đây đã bao phủ lên quả tim chị. Hiện nay những nét tính cách ấy còn được chiếu rạng bởi vầng hào quang vào buổi bình minh cuộc đời của tâm tính một đứa trẻ thơ, chứ sau này, trong những ngày tồn tại tiếp giữa trần gian, chúng có thể gây ra nhiều sóng gió và bão táp.
Thời ấy, kỷ luật gia đình nghiêm khắc hơn đời nay nhiều. Những cái cau mày, những lời quở mắng gay gắt, những trận voi vọt thường xuyên, do uy quyền dựa vào Kinh thánh áp đặt, đã được sử dụng không chỉ để trừng phạt những lỗi lầm mà trẻ thực sự phạm phải, mà còn làm một phương thuốc lành mạnh để phát triển và cổ vũ tất cả những đức tính tốt của trẻ. Thế nhưng, Hester Prynne, người mẹ đầy tình âu yếm của đứa con độc nhất này, it có cơ phạm phải những lối giáo dục khắc nghiệt thái quá. Tuy nhiên, nhớ tới những sai lầm và những nỗi bất hạnh của bản thân, chị đã sớm tìm cách đặt đứa bé mà chị có trách nhiệm nuôi dạy dưới một sự điều khiển dịu dàng nhưng nghiêm ngặt. Nhưng công việc đã vượt quá khả năng chị. Sau khi đã thử dùng cả những nụ cười lẫn những cái cau mày, và nhận thấy cả hai cách đó đều không mạng lại hiệu quả gì đáng kể, cuối cùng, Hester đành phải đứng sang một bên để cho đứa trẻ chịu sự chi phối của những thôi thúc bên trong bản thân nó. Sự cưỡng bách hoặc kiềm chế về mặt thể chất tất nhiên có hiệu lực, nhưng chỉ trong khi còn tiếp tục dùng sức mạnh ấy đối với nó. Còn tất cả các thứ hình thức kỷ luật khác, dù là nhằm vào tinh thần hay tình cảm của bé, thì đều tùy theo tính đồng bóng của bé từng thời điểm mà có thể tác động hoặc không tác động được chút nào đến nó. Từ khi Pearl còn là một đứa bé ẵm ngửa, người mẹ đã nhận ra và dần dần làm quen với một cái vẻ thể hiện đặc biệt của nó, báo hiệu cho chị biết khi nào mọi lời khẩn nài, dỗ dành hoặc cầu xin bé sẽ là nhọc công vô ích. Đó là một cái vẻ thật là thông tuệ, song cũng thật là khó hiểu, rất ngang ngạnh, thỉnh thoảng thật tai ác, nhưng nói chung là kèm theo một cơn phấn hứng cuồng loạn, đến nỗi những lúc như vậy Hester không thể nào không tự hỏi: bé Pearl có phải là một đứa trẻ của loài người không? Trông nó có vẻ như một con yêu tinh vậy! Phải chăng sau khi chơi những trò đùa cợt quái dị kia một lát, con yêu tinh ấy sẽ vụt bay đi với một tiếng cười chế nhạo? Mỗi khi cái vẻ đặc biệt đó hiện ra trong đôi mắt đen thăm thẳm, sáng rực và ngông cuồng của nó, chị lại cảm thấy đứa bé cách biệt và huyền ảo lạ kỳ: cứ như thể nó đang bay lơ lửng trên không và có thể biến đi trong phút chốc, như một tia sáng chập chờn không biết từ đâu tới rồi sẽ lẩn mất không biết đi đâu. Những lúc ấy, Hester cảm thấy một lực thôi thúc trong lòng buộc chị lao tới con – đuổi theo con bé yêu quái đang bắt đầu chuẩn bị bay đi, nhất định là thế không thể khác được – chộp nhanh lấy nó ghì vào ngực mình hôn tới tấp – không phải chủ yếu do tình yêu thương quá sôi nổi mà là cốt để khẳng định được với mình rằng Pearl là đứa con bằng xương bằng thịt hẳn hoi, chứ không phải hoàn toàn là một ảo ảnh. Nhưng tiếng cười của bé Pearl, khi bị mẹ ôm choàng, mặc dù reo vui như tiếng nhạc, lại khiến cho đầu óc người mẹ càng nghi hoặc hơn nữa.
Lòng dạ đau đớn bàng hoàng ví thấy cái phép lạ yêu ma gây hoang mang lo lắng ấy cứ thường hay xuất hiện ra chắn ngang giữa chị với cái của báu duy nhất mà chị đã phải trả giá đắt để có được và là tất cả thế giới của chị, Hester Prynne đôi lúc òa lên khóc nức nở. Những lúc đó, thái độ đáp lại của bé Pearl như thế nào, không làm sao đoán được. Có thể là con bé sẽ cau mày, nắm chặt nắm tay bé tí, nét mặt đanh lại nghiêm nghị và lãnh đạm tỏ ý không bằng lòng. Nhiều lúc nó lại tiếp tục cười, mà cười càng to, như một vật không có khả năng cảm thụ và không hiểu được sự buồn phiền của con người. Hoặc cũng có lúc – trường hợp này hiếm khi xảy ra – nó lăn ra khóc dữ dội, thổn thức những lời yêu thương đối với mẹ qua những tiếng nức nở đứt quãng, và dường như muốn cố tìm cách tỏ ra rằng nó cũng có trái tim yêu thương, bởi lúc này đây nó đang đau lòng đứt ruột. Nhưng Hester khó có thể tin chắc vào tình cảm xúc động âu yếm bột phát như cơn dông đó: nó sẽ qua đi cũng đột ngột như khi nó bùng ra vậy. Ủ ê nghiền ngẫm về tất cả những sự việc ấy, người mẹ cảm thấy như mình là người đã gọi lên một vong linh, nhưng do một điều gì đấy không đúng quy cách trong quá trình phù phép, đã không vận dụng được câu thần chú có uy lực điều khiển linh hồn mới lạ và khó hiểu ấy. Chị chỉ tìm thấy sự an ủi thực sự khi đứa con bình thản nằm ngủ. Lúc ấy chị mới thấy tin chắc ở mình, tận hưởng những giờ phút hạnh phúc yên tĩnh, man mác, buồn, dịu ngọt ; cho đến khi bé Pearl thức dậy – có thể là thức dậy với cái vẻ tai ác ấy lại ánh lên dưới hàng mi vừa hé mở.
Thời gian trôi qua – quả là nhanh lạ lùng – Pearl đã đến cái tuổi có thể tiếp xúc được với xã hội và biết thêm được nhiều điều ngoài nụ cười luôn sẵn sàng tươi nở trên môi mẹ và những lời nói vô nghĩa của mẹ. Và đến cái tuổi này của bé, Hester Prynne hẳn sẽ vui sướng biết bao nếu như chị có thể nghe được những tiếng nói trong trẻo như con chim non ríu rít của bé hòa lẫn trong tiếng om sòm của những giọng trẻ con khác, và lắng tai phân biệt tách ra âm sắc riêng của đứa con yêu quý của mình giữa toàn bộ tiếng la hét hỗn loạn của một đám trẻ con đang vui chơi đùa nghịch. Thế nhưng điều đó không bao giờ cô được. Bé Pearl mới ra đời liền bị ruồng bỏ khỏi thế giới trẻ con. Sinh ra từ điều xấu, biểu tượng và sản phẩm của tội lỗi, bé không có quyền gì giữa những trẻ con đã được làm lễ rửa tội, dường như không có một cái gì thần kỳ hơn bản năng đã khiến khiến cho đứa bé được hoàn cảnh cô độc của mình: hiểu số mệnh đã vạch ra một vòng xung quanh bé không thể vượt qua được, tóm lại, hiểu toàn bộ tính chất đặc biệt của thân phận nó so với tất cả các trẻ em khác. Kể từ lúc ra khỏi tù, chưa khi nào công chúng nhìn thấy Hester thiếu đứa con bên cạnh. Chị đi đây đó trong thành phố bao giờ cũng có bé Pearl kèm theo: thời kỳ đầu là đứa con bé tí trên tay, về sau là bé gái nhỏ lẽo đẽo cùng đi với mẹ, bíu chặt lấy ngón tay trỏ của mẹ bằng cả bàn tay tí xíu của mình, lon ton bước theo nhịp độ ba bốn bước của bé bằng một bước của mẹ. Bé nhìn thấy những đứa trẻ của khu định cư trên lề cỏ bên đường hoặc trên ngưỡng cửa các nhà dọc phố, chơi đùa với nhau theo kiểu cách dữ tợn mà nền giáo dục của chủ nghĩa Thanh giáo cho phép. Có thể là chúng giả bộ đi lễ nhà thờ, hoặc chơi trò trừng phạt người Quây-cơ bằng roi, hoặc trò lột da đầu người bại trận trong một cuộc đánh trận giả với người da đỏ, hoặc dọa nhau bằng những trò quái đản bắt chước ma thuật phù thủy. Pearl trông thấy chúng, chăm chú nhìn chúng, nhưng không bao giờ tìm cách làm quen. Nếu chúng nói với bé, bé sẽ không đáp lại. Nếu chúng kéo đến vây quanh, thỉnh thoảng vẫn xảy ra như vậy, bé sẽ vụt trở nên hung tợn ghê gớm trong cơn thịnh nộ trẻ thơ, nhặt đá ném chúng, miệng gào lên những tiếng kêu the thé lảm nhảm khiến người mẹ rung sợ, bởi những tiếng kêu ấy nghe giống như giọng nguyền rủa của một mụ phù thủy thốt ra bằng thứ ngôn ngữ kỳ lạ.
Sự thực là bọn trẻ con Thanh giáo, một lứa trẻ bị tiêm nhiễm tính chất cố chấp nhất trong lịch sử các thế hệ, đã mơ hồ hình dung ra ở hai mẹ con Hester một cái gì đó xa lạ, siêu tự nhiên hoặc trái với kiểu cách thông thường, nên đâm ra khinh ghét và đã không ít khi buông lời chửi rủa. Bé Pearl đã nhận biết được ác cảm đó, và bé đã đối đáp lại bằng mối căm hờn cay độc nhất có thể phát sinh ra được trong một tâm hồn thơ trẻ. Những con bùng nổ của tính khí hung tợn ấy lại có một thứ ý nghĩa nào đó đối với người mẹ, thậm chí làm chị yên lòng, bởi vì trong biểu hiện ấy ít nhất cũng có một sự nghiêm chỉnh dễ hiểu, chứ không phải là cái thứ tính đồng bóng thường phát lộ ra ở đứa bé làm chị buồn nản thất vọng. Tuy nhiên, chị cũng kinh hãi khi lại nhận thấy ở biểu hiện này một nét khác phản ánh cái xấu bên trong chị trước kia. Tất cả tính thù hận và nộ khí ấy, Pearl đã kế thừa của chị như thứ tài sản theo quyền không thể chuyển nhượng. Mẹ và con cùng đứng trong một vòng tách biệt khỏi xã hội loài người ; và trong bản chất của đứa bé hình như sẽ còn tồn tại mãi những nhân tố khắc khoải bồn chồn đã từng làm xao xuyến chị trong thời gian trước khi sinh hạ Pearl, nhưng từ lúc đó đã bắt đầu lắng xuống nguôi dần do ảnh hưởng của sự mềm dịu đi trong tâm hồn kẻ đã làm mẹ.
Khi chơi ở nhà, bên trong và xung quanh túp nhà nhỏ của mẹ, bé Pearl không thiếu gì bầu bạn: bé có cả một môi trường quen thân rộng rãi và đa dạng. Phép mầu của sự sống toát ra từ bộ óc luôn luôn sáng tạo của bé, truyền hơi thở và hàng ngàn sự vật, như ngọn đuốc đốt cháy bùng mọi thứ mà nó châm vào. Những vật bất kỳ rơi vào tay bé, - một cây gậy, một cuộn giẻ rách, một bông hoa – đều trở thành những con rối sinh động của phép thuật kỳ ảo của Pearl. Không cần một sự đổi thay gì về hình dạng bên ngoài, chúng đều được phú cho một linh hồn nhập vào một vai kịch bất kỳ nào đó trên sân khấu của thế giới nội tâm bên trong bé. Duy nhất một tiếng nói trẻ con của bé phục vụ cho tất cả, làm phương tiện chuyện trò trao đổi với nhau giữa vô số nhân vật tưởng tượng, có già có trẻ. Những cây thông, già cỗi, khoắc lớp vỏ xám xịt, dáng vẻ nghiêm khắc, phát ra những lời rên rỉ và những tiếng âm thầm u buồn khác trong làn gió nhẹ, chả cần sự biến hóa gì cũng có thể tượng trưng cho những người lớn trong xã hội Thanh giáo ; còn những cỏ dại xấu xí nhất trong vườn là đám trẻ con của bọn họ, mà bé Pearl chà đạp và nhổ bật rễ không chút thương xót. Kỳ diệu xiết bao những dạng thể hiện phong phú nhiều hình nhiều vẻ do khả năng trí tuệ của bé sáng tạo ra, tuy không được liên tục, hăm hở bật nảy và nhảy múa, luôn luôn ở trong một trạng thái hoạt động sôi nổi phi thường – rồi sau đó lại tróng lắng chìm đi, như thể bị kiệt sức vì con nước của sự sống tràn quá nhanh và quá cuồng nhiệt – rồi lại được kế tiếp bằng những dạng thể hiện khác cũng đầy sinh khí cuồng nhiệt giống như vậy. Thực đúng như là sự nô giỡn lung linh của những tia ánh sáng trong ảo cảnh miền bắc cực. Tuy nhiên, khi xét đơn thuần khả năng vận dụng trí tưởng tượng và tính thích đùa nghịch của một đầu óc trẻ thơ đang phát triển thì ở Pearl cũng có một cái gì đó hơn tí chút, chứ không nhiều lắm so với những gì mà người ta có thể quan sát thấy được ở những đứa trẻ có năng khiếu xuất sắc khác ; chỉ trừ một điều là Pearl, trong hoàn cảnh thiếu những con người thực làm bạn cùng chơi, càng bị đẩy sâu hơn vào cái thế giới của những nhân vật tưởng tượng mà bé tạo ra. Điều đặc biệt khác thường là ở chỗ bé đã xem mọi nhân vật hư cấu đó, khi nào tạo ra một người bạn, mà dường như bao giờ cũng gieo khắp nơi những mầm độc của quỷ dữ, từ đó mọc lên cả một bầy kẻ thù nguy hiểm, mà bé lao vào chiến đấu chống lại. Ôi thật buồn khôn tả khi nhận thấy ở đứa trẻ còn bé bỏng làm vậy một ý thức thường xuyên nhìn thế giới là thù địch, và một sự tập dượt nghị lực ác liệt đến thế để giải quyết giành thắng lợi cho mình trong cuộc giao tranh nhất định sẽ xảy ra sau này – và cũng thật đau xót biết bao đối với người mẹ khi cảm thấy rõ trong chính trái tim mình nguyên nhân của sự tình ấy.
Chăm chú nhìn con, Hester Prynne thường đánh rơi đồ khâu trong tay xuống đầu gối, và nỗi đau đớn mà chị muốn giấu kín trong lòng vẫn cứ bật ra thành một tiếng kêu gần như rên rỉ: “Ôi Đức Cha trên cao xanh! Nếu như Người còn là Cha của con, thì xin Người cho con hay, đứa trẻ mà con đã sinh ra đó, nó là cái gì vậy?” Và bé Pearl, như nghe được lời kêu than ấy, hoặc như biết được nổi thổn thức đau buốt của mẹ qua một giác quan khác tinh tế hơn, liền quay khuôn mặt nhỏ xinh đẹp và sinh động của nó về phía mẹ, mỉm cười với một vẻ thông minh tinh quái, rồi trở lại tiếp tục những trò đùa nghịch của mình.
Còn phải nói đến một nét đặc biệt khác ở đứa bé. Cái đầu tiên mà đứa bé chú ý đến trong đời nó là cái gì? Phải chăng là cái mỉm cười của người mẹ, mà nó hẳn sẽ đáp lại, giống như mọi trẻ thơ khác, bằng một cái nhếch mép nhẹ, nụ cười phôi thai của cái mồm nhỏ xíu, để lại trong trí ta một ấn tượng mơ hồ, khiến ta tự hỏi không biết đó thực sự có phải là một nụ cười? Nhưng không! Tuyệt nhiên không phải thế! Cái đầu tiên trong đời mà bé Pearl dường như nhận biết được ấy là – có nên nói ra chăng? – là chữ A màu đỏ trên ngực Hester! Một hôm, trong khi người mẹ cúi mình trên nôi, đôi mắt của đứa nhỏ bắt gặp cái ánh ngời sáng của đường thêu kim tuyến trên nét chữ đỏ ; giơ bàn tay tí xíu, bé chộp lấy cái chữ ấy, mỉm cười, không phải là cái mỉm cười mơ hồ, mà với một nét quả quyết ánh lên trong đôi mắt, tạo cho khuôn mặt của bé cái vẻ của một đứa trẻ già dặn hơn nhiều. Động tác tinh quái ấy của bàn tay trẻ thơ của Pearl đụng chạm vào nỗi ô nhục của chị đã như giáng một đòn tra tấn nhức buốt khôn cùng khiến cổ họng chị tắc nghẹn. – Thở hổn hển, chị túm chặt cái biểu tượng tai ác, bản năng thôi thúc chị ráng sức vứt nó đi. Thế nhưng, như thể cái cử chỉ đau đớn ấy của mẹ chỉ nhằm đùa vui với bé, lần nữa bé lại nhìn vào mắt mẹ, mỉm cười. Đấy, kể từ khi bé Pearl còn là đứa bé ẵm ngửa như vậy, trừ lúc nó ngủ, Hester không bao giờ cảm thấy được một phút yên ổn: không một phút thanh thản tận hưởng niềm vui thích có đứa con bên cạnh. Quả là có thể có nhiều tuần trôi qua mà bé Pearl không nhìn vào chữ A màu đỏ: nhưng rồi, rất bất ngờ đột ngột, mắt của nó lại chọc vào đó, như một đòn đánh chết tươi, và luôn luôn kèm theo nụ cười quái gở và cái vẻ kỳ dị ấy trong đôi mắt nó.
Có một lần, trong khi Hester đang tìm nhìn hình ảnh của bản thân chị trong đôi mắt của con, như các bà mẹ vẫn thường thích làm thế, thì bỗng cái vẻ quái đản và tinh nghịch ấy xuất hiện trong mắt bé Pearl: và đột nhiên – bởi phụ nữ trong cảnh cô đơn và phiền muộn thường hay có những ảo giác kỳ quặc – chị hình dung thấy, không phải là bản thân hình ảnh chị thu nhỏ, mà một khuôn mặt khác trong cái gương hạt huyền tí xíu của mắt bé. Đó là một khuôn mặt giống như ma quỷ, mỉm nụ cười đầy vẻ ác hiểm, nhưng lại giống những nét mặt một người mà trước đây chị đã biết rất rõ tuy hiếm khi mỉm cười và chưa bao giờ có vẻ hiểm ác. Cứ như thể là một con quỷ ác đã ám vào bé và lúc đó vừa ló mặt ra chế nhạo. Nhiều lần sau đó, cũng cái ảo ảnh ấy cứ hiện ra trở đi trở lại giày vò chị, mặc dù không khủng khiếp bằng.
Một buổi chiều hè nọ, khi Pearl đã đến tuổi lớn khôn hơn, có thể chạy nhảy đây đó, bé ngắt những bông hoa dại nắm đầy tay, rồi đùa nghịch bằng cách ném lần lượt bông này đến bông khác vào giữa ngực mẹ, và nhảy nhót điên loạn như một con tiểu yêu mỗi khi ném trúng chữ A màu đỏ. Phản ứng đầu tiên của Hester là đưa hai tay lên che lấy ngực. Nhưng có thể là do lòng tự trọng, hoặc sự nhẫn nhục, hoặc do cảm thấy không có cái gì tự hành xác để xám hối tốt bằng chịu đựng lấy nỗi đau khôn tả này, nên chị cưỡng lại sự thôi thúc muốn che đi, và cứ ngồi thẳng, yên lặng, tái mét như xác chết, buồn bã nhìn vào đôi mắt ngông cuồng của bé Pearl. Trận pháo kích bằng hoa cứ thế tiếp tục, và hầu như phát nào cũng trúng vào chữ A màu đỏ gây ra trên ngực chị những vết thương đau mà chị không thể tìm đâu ra phương thuốc chữa khỏi giữa thế gian này, cũng không biết sẽ làm sao để tìm ra phương thuốc ấy ở thế giới bên kia. Cuối cùng, khi các viên đạn đã cạn, đứa trẻ đứng im và chằm chằm nhìn Hester, từ trong đáy sâu không thể hiểu thấu của đôi mắt đen của nó ló ra hình ảnh cười cợt của con quỷ - hoặc giả người mẹ đã hình dung thấy như vậy, dù có con quỷ ấy ló ra thực hay không.
- Bé! Con là ai vậy? – Người mẹ thốt kêu lên.
- Con là bé Pearl của mẹ đây mà. – Đứa bé trả lời.
Nhưng Pearl vừa nói vừa cười, rồi lại bắt đầu nhảy nhót với những động tác hoa tay múa chân đồng bóng của một con tiểu yêu, mà có lẽ động tác tiếp theo sẽ là theo ống khói lò sưởi bay vọt lên trời.
- Này, có đích thực là con của mẹ không? – Hester hỏi.
Câu hỏi của chị chẳng phải là hoàn toàn vớ vẩn, mà có một phần thực sự nghiêm chỉnh ; bởi vì sự thông minh của Pearl thật kỳ diệu đến nỗi người mẹ bán tín bán nghi biết đâu nó lại không rõ cái phép lạ thần bí đã sinh nó ra đời, và biết đâu nó lại không bộc lộ ra lúc này.
- Vân! Con là bé Pearl đây! – Đứa bé lặp lại, đồng thời vẫn tiếp tục trò hề bỡn cợt.
- Con không phải là con mẹ! Con không phải là bé Pearl của mẹ! – Người mẹ nói nửa đùa nửa thật, bởi thỉnh thoảng vẫn có khi chị bốc lên muốn đùa vui một tí ngay cả lúc đang đau khổ nặng nề nhất – Này con nói cho mẹ biết đi, con là ai. Và ai đã phái con đến cõi đời này?
- Mẹ nói cho con biết cơ! – Đứa bé vừa nghiêm trang nói, vừa đi lại phía Hester, ép mình vào đầu gối chị - Chính mẹ phải nói cho con biết, mẹ!
- Đức Cha của con trên trời đã phái con đến đây! – Hester trả lời.
Nhưng chị nói câu này với một giọng ngập ngừng mà sự nhạy bén của đứa bé cảm nhận thấy ngay. Chẳng biết là do tính quái đản thông thường của nó mà thôi, hay là có sự xúi giục của một con quỷ ác nào đó, đứa bé giơ ngón tay nhỏ nhắn của nó đặt vào chữ A màu đỏ.
- Không phải ông phái con đến! – Đứa bé kêu lên, giọng quả quyết – Con không có cha trên trời.
- Im đi, Pearl, im đi! Con không được nói thế! – Hester nói, cố nén một tiếng rền rỉ - Người đã phái tất cả chúng ta xuống thế gian này. Ngay cả mẹ đây, mẹ của con, cũng do Người phái xuống đây! Huống chi là con! Nếu không, thì con từ đâu mà đến, con bé kỳ lạ và tinh quái kia?
- Thế mẹ nói đi cho con nghe nào! Mẹ nói đi! – Bé Pearl lặp đi lặp lại, lúc này không nghiêm trang nữa, mà vừa nói vừa cười cợt và nhảy cỡn quanh buồng. – Chính me phải nói cho con biết cơ!
Nhưng Hester không thể giải đáp được câu hỏi ấy, bởi bản thân chị cũng đang quẩn trong một cung mê tối mù đầy những điều nghi hoặc. Vừa buồn cười lại vừa rùng mình, chị nhớ lại những lời bàn tán của thị dân quanh vùng. Sau khi hoài công không tìm ra được ai là bố đứa bé, lại quan sát thấy một số đặc tính kỳ quặc của nó, họ bèn kết luận rằng Pearl là từ giống ma quỷ sinh ra ; cái thứ con cái yêu ma ấy thỉnh thoảng vẫn thấy xuất hiện giữa trần gian kể từ những thời Thiên chúa giáo xa xưa, qua môi giới tội lỗi của mẹ chúng, và đẻ ra giữa đời cốt để thực hiện một mưu đồ nào đó xấu xa và độc ác. Luther, theo lời phỉ báng của những thầy tu thù địch của ông, cũng là một “thằng nhóc sinh ra từ nòi âm binh” ấy. Pearl cũng chẳng phải là đứa trẻ duy nhất bị gán cho cái nguồn gốc bất hạnh đó giữa xứ sở những người Thanh giáo ở miền Niu Inglơn này.