← Quay lại trang sách

Chương 8 Con Bé Tiểu Yêu Và Chàng Mục Sư

Thống đốc Bellingham, mặc chiếc áo choàng lụng thụng và đội chiếc mũ mềm nhẹ - thứ trang phục mà các nhà quý phái tuổi cao thích dùng khi ở nhà riêng – dẫn đầu nhóm người đó. Ngài có vẻ như đang khoe đất đai tài sản của mình và thuyết trình dài dòng về những ý định muốn mở mang cho thêm phần tươi đẹp. Dưới hàm râu hoa râm, cái vành tròn rộng của chiếc cổ áo xếp nếp trau chuốt theo kiểu cổ của triều đại Vua James khiến cho phần trên của ngài trông khá giống cái đầu của Thánh John Baptist trên một bìa sách. Trông cái thần sắc của ngài, cứng rắn và nghiêm nghị làm vậy, thui chột vì sương giá vào độ tuổi đã xế chiều, thật khó có thể xứng hợp với những lạc thú trần tục mà hiển nhiên ngài đã cố gắng tột bực để tạo ra quanh mình. Mặc dù các cụ tổ của chúng ta có thói quen nói và suy nghĩ rằng cuộc đời con người là bể khổ, chỉ rặt những thử thách và chiến đấu, và mặc dù các cụ chân thành có ý muốn, không vờ vĩnh chút nào, sẵn sàng hy sinh của cải và tính mệnh theo mệnh lệnh của tinh thần trách nhiệm, nhưng chúng ta sẽ sai lầm nếu cho rằng các cụ tự xác định với lương tâm mình phải khước từ những điều kiện sinh hoạt phong lưu, thậm chí xa xỉ, nằm thuận tiện trong tầm tay các cụ có thể với tới. Tín điều này không bao giờ được nêu ra trong nội dung giáo huấn, chả hạn như trong sự giáo huấn của Đức Cha John Wilson, vị mục sư già đáng kính mà lúc này hai mẹ con nhìn thấy chòm râu trắng như tuyết xuất hiện đằng sau vai ngài Thống đốc, trong khi ông đang gợi ý với ngài Thống đốc rằng lê và đào dù sao cũng có thể luyện được cho hợp với thủy thổ Niu Inglơn, và nho đỏ tía có thể buộc phải phát triển tươi tốt trên bức tường trải nắng của khu vườn này. Được nuôi dưỡng bằng bầu sữa hào phóng của Giáo hội nước Anh, vị giáo sĩ già từ lâu đã có một thị hiếu chính đáng đối với tất cả những gì tốt đẹp và thoải mái, và dù ông có thể tỏ ra nghiêm khắc đến đâu đi nữa khi đứng trên bục giảng hoặc khi quở trách trước công chúng những tội lỗi như tội của Hester Prynne, thì đức tính nhân từ tốt bụng trong đời tư của ông vẫn khiến ông chiếm được nhiều cảm tình của quần chúng hơn bất kỳ ai trong số bạn đồng nghiệp đương thời.

Đi đằng sau ngài Thống đốc và ông Wilson có hai người khác – một là Đức Cha Arthur Dimmesdale, chàng mục sư trẻ mà hẳn độc giả còn nhớ là đã xuất hiện trong chốc lát để thực hiện một nhiệm vụ miễn cưỡng trong buổi bêu nhục Hester Prynne ; và đi sát bên anh là Roger Chillingworth, một người có biệt tài trong nghề làm thuốc, đến định cư ở thành phố này đã vài ba năm nay. Mọi người đều hiểu rằng nhà thông thái này vửa là thầy thuốc vừa là bạn của chàng mục sư trẻ, người mà gần đây sức khỏe bị sa sút đi nghiêm trọng vì tinh thần tận tụy hy sinh quên mình cho công việc của giáo hội.

Ngài Thống đốc đi trước các vị khách của mình, bước lên một vài bậc thềm, mở tung cánh phụ của cửa sổ lớn sát đất, và đột ngột nhìn thấy bé Pearl sát ngay trước mặt mình. Bóng tối bức màn cửa trùm lên Hester Prynne, phần nào che khuất chị đi.

- Ơ cái gì thế này? – Thống đốc Bellingham ngạc nhiên nhìn cái hình bé nhỏ đỏ thắm trước mặt ngài – Thú thực tôi chưa bao giờ nhìn thấy một đứa nào như thế này từ những ngày tôi sống trong cảnh phù hoa, thời vua James xưa, khi mà tôi thường coi việc được dự một dạ hội hóa trang trong cung đình là một đặc ân lớn. Trong các dịp lễ, người ta thường thấy hiện ra những bầy nhỏ giống thế này, mà chúng tôi gọi là đám trẻ của ông Chúa Bất trị. Nhưng làm sao mà quý khách này lại lọt vào nhà tôi nhỉ!

- Đúng thế thực! – Đức Cha Wilson kêu lên – Con chim non nào có bộ lông đỏ tươi thế này? Tôi đã nhìn thấy những hình ảnh đúng như vậy khi mặt trời chiếu qua một cửa kính màu sặc sỡ in xuống nền nhà những nét đỏ thắm và vàng óng. Nhưng đó là ở bên đất cổ cơ. Nào, cháu bé, cháu ngoan nói cho ta hay nào, cháu là ai, và quỷ thần nào đã xui khiến mẹ cháu cho cháu ăn mặc lòe loẹt một cách kỳ lạ làm vậy? Cháu có phải là một đứa bé theo đạo Cơ đốc không? Hả! Cháu có thuộc sách giáo lý không? Hay cháu là một trong những con yêu tinh hay tiên nữ hư đốn mà chúng ta tưởng đã bỏ lại hết đằng sau, cùng với những di tích khác của Chủ nghĩa giáo hoàng, bên nước Anh cổ vui vẻ?

- Cháu là con mẹ cháu! – Cái hình biểu tượng màu đỏ trả lời – Và cháu tên là Pearl.

- Pearl? Ngọc trai? Ồ! Rubi – Ngọc đỏ - thì đúng hơn! Hay là San hô vậy! Hay ít nhất là Bông Hồng đỏ, cho đúng màu ở người cháu! – Vị mục sư già vừa trả lời vừa đưa tay muốn vỗ nhẹ vào má Pearl nhưng chẳng ăn thua – Nhưng còn mẹ cháu đâu? A! Ta thấy rồi!

Quay sang Thống đốc Bellingham, ông thì thầm:

- Đây chính là đứa bé mà chúng ta đã nói chuyện với nhau ; và kia là người đàn bà bất hạnh, Hester Prynne, mẹ nó.

- Thế hả! – Ngài Thống đốc kêu lên – Đáng ra chúng ta đã phải phán đoán được rằng mẹ của một đứa trẻ thế này nhất thiết phải là một “ ả giang hồ áo đỏ” (1), một kiểu người xứng đáng được so sánh với mụ Babylon ấy! Nhưng chị ta đến thật đúng lúc. Nào chúng ta hãy xem xét ngay vấn đề ấy!

Thống đốc Bellingham bước qua cửa sổ vào trong phòng, theo sau là ba người khách của ngài.

- Hester Prynne, - Ngài vừa nói vừa nhìn thẳng vào người phụ nữ đeo chữ A màu đỏ bằng đôi mắt vốn nghiêm khắc của mình – Gần đây chúng tôi đã bàn nhiều về chị. Vấn đề đã được nêu ra thảo luận kỹ là liệu chúng tôi, những người cầm quyền, có làm tròn trách nhiệm đối với lương tâm mình hay không khi chúng tôi phó thác một linh hồn bất tử như linh hồn của đứa trẻ kia cho bàn tay dắt dẫn của một người đã vấp ngã trước những cạm bẫy giữa thế gian này. Chính chị, người mẹ của đứa trẻ, chị phải phát biểu. Phải chăng, chị nghĩ mà xem, chính vì bảo vệ lợi ích của con chị giữa trần gian hiện nay và trong cõi vĩnh hằng sau này mà cần phải tách nó ra khỏi bàn tay coi sóc của chị, cho nó ăn mặc giản dị, ghép nó vào kỷ luật nghiêm ngặt, dạy dỗ cho nó về những chân lý của đất trời? Chị thì có thể làm được cho nó về những điều như vậy?

- Tôi có thể dạy cho bé Pearl của tôi những gì mà tôi đã học được từ cái này! – Hester Prynne đưa đầu ngón tay đặt vào cái dấu sỉ nhục màu đỏ, trả lời.

- Nhà chị kia! Đó là cái dấu tội lỗi nhục nhã của chị. – Vị quan tòa nghiêm khắc trả lời. – Chính là vì cái vết nhơ ấy mà chúng ta muốn chuyển con chị sang bàn tay người khác.

- Tuy nhiên – Người mẹ nói, với thái độ điềm tĩnh mặc dù mặt chị càng tái đi – cái dấu này đã dạy tôi – nó ngày ngày dạy tôi – và nó đang dạy tôi ngay lúc này – những bài học mà nhờ đó con tôi sẽ trở thành khôn ngoan hơn và tốt hơn, mặc dù những bài học ấy không giúp được gì cho tôi cả.

- Chúng tôi sẽ xét kỹ - Bellingham nói – và sẽ cẩn thận nghiên cứu những gì chúng tôi sắp làm, Cha Wilson thân mến, xin ông hãy kiểm tra con bé tên là Pearl này, xem thử nó đã được sự giáo dục theo giáo lý Cơ đốc thích đáng đối với một đứa bé tuổi nó chưa.

Vị mục sư già ngồi xuống một chiếc ghế bành, cố tìm cách kéo đứa bé vào lòng. Nhưng bé Pearl không có thói quen để ai chạm đến và làm thân với mình ngoài mẹ nó, bỏ chạy ra ngoài khung cửa sổ và đứng trên bậc thềm thứ nhất, đưa mắt nhìn, như một con chim trời nhiệt đới có bộ lông sặc sỡ, sẵn sàng vụt bay lên không. Đức Cha Wilson, khá ngạc nhiên trước thái độ ấy – bởi ông ta là một người ông thường được đàn cháu nhỏ rất quý mến, - Tuy nhiên ông vẫn cố gắng thực hiện cho được cuộc vấn đáp.

- Pearl – Ông nói với một vẻ rất trang trọng – Cháu phải chú ý học hành thật chăm, để đến đúng một lúc nào đó, cháu sẽ được đeo trên ngực mình một hạt ngọc trai quý giá. Cháu hãy nói ta nghe nào, ai là đấng đã tạo ra cháu?

Ồ, đến nay thì Pearl đã biết khá rõ ai là đấng “Tạo hóa” đã tạo ra nó, bởi vì Hester Prynne, con một gia đình ngoan đạo, ngay sau buổi nói chuyện với bé Pearl về “Đức Cha trên trời”, đã bắt đầu dạy cho con về những điều chân lý mà đầu óc con người, dù ở giai đoạn non nớt của cuộc đời, đều háo hức muốn hấp thụ. Bởi vậy, nhờ sự giáo dục của chị, Pearl mới ba tuổi đầu đã thu được một vốn kiến thức rộng đến nỗi bé có thể qua trót lọt được một cách vẻ vang một cuộc thi kiểm tra không thiên vị về Sách Kinh vỡ lòng miền Niu Inglơn, hoặc về mục thứ nhất của Sách Giáo lý vấn đáp Westminter, mặc dù bé không hề biết hình thức hai cuốn sách nổi tiếng ấy như thế nào. Nhưng cái tính ngang ngạnh thường có ít nhiều ở trẻ em, mà ở Pearl thì lại có đến gấp mười lần, đã hoàn toàn chiếm lĩnh lấy bé vào đúng lúc này, vào cái lúc không thích hợp nhất, bịt miệng bé lại, hoặc còn có thể thúc bé nói bậy. Đút một ngón tay vào mồm, con bé liên tục ngạo ngược từ chối không chịu trả lời câu hỏi của ông Wilson, và cuối cùng văng ra một câu rằng không có ai tạo ra nó hết, mà mẹ nó đã hái nó ở bụi tầm xuân trước cửa nhà tù.

Câu trả lời ngông ấy nảy ra trong óc bé có lẽ do bé đang đứng gần khóm bông hồng đỏ của ngài Thống đốc bên ngoài cửa sổ, khiến bé nhớ lại bụi tầm xuân trước cửa nhà tù mà hai mẹ con đã đi ngang qua trên đường tới đây.

Lão Roger Chillingworth, một nụ cười thoảng qua trên môi, ghé vào tai chàng mục sư trẻ thì thầm điều gì đó. Hester Prynne nhìn lão, con người đầy tài năng, và ngay trong giây phút đó, giữa lúc số phận của chị đang ở trong tình trạng nguy ngập, chị vẫn giật mình nhận thấy sao mà lão thay đổi đi đến thế - những nét mặt của lão xấu thêm nhiều, nước da vốn đã đen nay càng có vẻ hắc ám hơn, hình thù dị dạng hơn – so với những ngày chị sống gần gũi bên lão. Mắt chị bắt gặp mắt lão trong thoáng chốc, rồi lập tức chị lại phải tập trung mọi sự chú ý vào sự việc đang diễn biến.

- Thật là kinh khủng! – Quan Thống đốc kêu lên, khi ngài đã trấn tĩnh lại được sau giây lát sửng sốt vì câu trả lời của Pearl – Đây là một đứa trẻ đã ba tuổi mà không thể nói được ai đã tạo ra nó. Không còn nghi ngờ gì nữa, đầu óc nó hoàn toàn tối tăm chả biết gì về phần linh hồn của nó, về sự hư hỏng của nó hiện nay và về vận mệnh tương lai của nó. Thưa các ngài, theo tôi, chúng ta không cần thẩm tra gì nữa!

Hester vồ lấy đứa con, dùng sức mạnh kéo nó vào trong tay một, trừng trừng đối mặt với viên quan tòa Thanh giáo già với một vẻ hầu như hung tợn. Một mình trơ trọi giữa thế gian, bị thiên hạ ruồng bỏ, chỉ còn cái kho báu duy nhất này để giữ cho trái tim chị tiếp tục nhịp đập của sự sống, chị vẫn cảm thấy chị có những quyền vĩnh viễn để đương đầu với đời, và chị sẵn sàng chiến đấu đến chết để bảo vệ những quyền đó.

- Chúa đã cho tôi đứa con này – Chị kêu to – Chúa đã cho tôi đứa bé để đền bù lại tất cả mọi thứ khác mà các ngài đã tước bỏ của tôi. Nó là hạnh phúc của tôi – Tuy nhiên, nó lại là nỗi giày vò hành hạ tôi! Pearl giữ cho tôi còn sống được trên đời. Nhưng Pearl cũng trừng phạt tôi nữa. Các ngài có thấy không, nó chính là chữ A màu đỏ, mà tôi chỉ có thể yêu thôi, không sao khác được, và bởi vậy nó là một chữ A màu đỏ được phú cho uy lực trừng phạt tội lỗi của tôi mạnh gấp triệu lần? Nhất định các ngài sẽ không bắt nó đi được! Tôi thà chết!

- Chị chàng tội nghiệp – Vị mục sư già, - không phải là người không tốt bụng, - thốt lên – Cháu bé sẽ được chăm sóc chu đáo, chu đáo hơn nhiều so với khả năng của chị.

- Chúa đã giao nó cho tôi chăm nom – Hester Prynne nói tiếp, cất cao giọng gần như thét – Tôi sẽ không chịu trao nó cho ai hết.

Đến đây, do một lực thôi thúc đột ngột, chị ngoảnh sang chàng mục sư trẻ, Đức Cha Dimmesdale, người mà cho đến lúc này hầu như chị chưa một lần để mắt nhìn đến.

- Cha hãy nói đi, nói hộ cho tôi đi! – Chị kêu lên – Cha đã là vị mục sư của tôi, là người chịu trách nhiệm coi sóc phần hồn của tôi, và hiểu rõ tôi hơn bất kỳ vị nào ở đây. Tôi không muốn mất đứa con. Cha hãy nói giúp tôi đi. Cha hiểu rõ – bởi vì cha có những sự thông cảm mà các vị này không có – cha hiểu rõ lòng tôi, hiểu quyền của một người mẹ, và hiểu rằng quyền đó càng thiêng thiêng đến như thế nào khi người mẹ ấy chỉ có mỏi đứa con của mình với chữ A màu đỏ. Cha hãy lưu ý đến điều đó! Tôi không muốn mất con tôi! Hãy lưu ý điều đó!

Nghe lời kêu gọi cuồng nhiệt khác thường ấy, chứng tỏ chị đang gần như phát điên lên vì bị tình thế dồn vào chân tường, chàng mục sư trẻ lập tức bước tới, khuôn mặt tái xanh, tay đè lên chỗ tim đập như thói quen thường lệ mỏi khi con người đặc biệt hay bồn chồn của anh bị khích động. Lúc này anh có vẻ càng tiều tụy hốc hác hơn hôm anh xuất hiện trong buổi Hester Prynne bị bêu nhục trước công chúng. Và không biết do sức khỏe suy sụp hay do nguyên nhân nào khác, trong đáy sâu đôi mắt to đen man mác phiền muộn của anh chứa chất một nỗi đau đớn khôn tả.

- Trong ý kiến chị ta có lý lẽ đúng đắn. – Người mục sư trẻ bắt đầu nói bằng một giọng dịu dàng, run run, nhưng âm thanh khỏe vang thành tiếng dội trong phòng và ngân trong bộ giáp trụ rỗng – Có sự đúng đắn trong lời Hester nói và trong cảm xúc đã gợi ra những ý nghĩ của chị. Chúa đã ban cho chị đứa bé, và cũng ban cho chị một bản năng nhận thức được tính chất của đứa bé và những nhu cầu của nó – cả hai mặt này đều có vẻ thật là khác thường – và không một người trần nào khác có thể có được khả năng nhận thức ấy. Và hơn nữa, phải chăng có một tính thiêng liêng vô cùng trong mối ràng buộc giữa người mẹ và đứa con này? - Ấy! Sao lại thế? Ông Dimmesdale thân mến! – Viên Thống đốc ngắt lời – Xin ông nói rõ xem nào!

- Hẳn phải là như vậy. – Chàng mục sư nói tiếp – Bởi vì, nếu chúng ta cho là không phải thế, thì chẳng hóa ra chúng ta muốn nói rằng Đức Cha trên trời, đấng tạo hóa sinh ra mọi người trần, đã thừa nhận một hành động tội lỗi, xem vấn đề đó chẳng có gì là quan trọng, không cần lưu tâm phân biệt giữa một dục vọng thú tính dung tục với một tình yêu thánh thiện. Đứa con này của tội lỗi bố và của điều hổ nhục của mẹ đã ra đời từ bàn tay của Chúa để tác động nhiều mặt đến tâm hồn người mẹ. Người mẹ đó đã biện hộ khẩn thiết biết bao và với một tinh thần cay đắng biết bao cho cái quyền được giữ lại đứa con. Vận số đã chỉ định đứa bé làm một điều ơn phước – điều ơn phước duy nhất cho cuộc đời của chị - và không hồ nghi gì nữa, cũng như bản thân người mẹ đã nói với chúng ta, vận số cũng đã chỉ định đứa bé làm một sự trừng phạt, một sự tra tấn giày vò chị trong nhiều thời điểm không dự kiến được ; một sự giằn vặt, một cực hình đau đớn, một nỗi thống khổ cứ trở đi trở lại mãi giữa một niềm vui bị vẩn đục. Chị ta đã chẳng biểu hiện tâm trạng ấy ở bộ quần áo của đứa trẻ khốn khổ, bộ quần áo đã gợi cho ta một cách thật là sinh động hình ảnh cái dấu màu đỏ nung đốt trên ngực chị ta đấy sao?

- Nói rất hay! – Đức Cha Wilson tốt bụng kêu lên – Nhưng tôi sợ chị ta muốn biến đứa bé thành một kẻ khoác lác chứ không có một ý định nào tốt hơn.

- Ồ, không phải thế! Không phải thế! – Mục sư Dimmesdale tiếp lời – Xin các ngài hãy tin rằng chị ta thừa nhận điều huyền diệu uy linh mà Chúa đã truyền vào sự tồn tại của đứa bé. Và cũng mong rằng chị ta cảm thấy được điều mà thao tôi cũng là chân lý phải khẳng định – rằng Chúa đã ban cho người mẹ cái ân huệ đó với ý định trước hết, hơn tất cả mọi mục đích khác, là giữ cho linh hồn chị tiếp tục sống, giữ cho chị khỏi rơi vào những vực sâu tội lỗi đen tối hơn, những vực sâu mà nếu không có ân huệ ấy của Chúa. Quỷ Xa tăng ắt tìm cách nhấn chị chìm vào. Bởi vậy, thật là điều tốt lành cho người đàn bà tội lỗi đáng thương này nếu chị được giao chăm nom một linh hồn trẻ thơ bất tử, một sinh linh có khả năng hưởng niềm vui hoặc chịu nỗi buồn trong cõi vĩnh hằng – để chị dạy dỗ lớn lên trở thành con người đạo đức, để thường xuyên nhắc nhở chị về sự sa ngã của chị, song lại để dạy bảo chị, như thể theo lời hứa thiêng liêng của Tạo hóa, rằng nếu chị đưa đứa con nhỏ lên cõi thiên đường, thì đứa nhỏ cũng sẽ đưa bố mẹ nó lên cõi ấy. Trong trường hợp này, người mẹ tội lỗi tốt phúc hơn người bố tội lỗi. Vậy thì, vì lợi ích của Hester Prynne, cũng như vì lợi ích của đứa trẻ đáng thương, ta hãy để họ cứ ở vị trí mà Thượng đế thấy là thích hợp đối với họ.

- Ông bạn thân mến, ông nói với một giọng tha thiết lạ lùng! – Lão Roger Chillingworth mỉm cười với Dimmesdale, thốt lên.

- Và có sức thuyết phục mạnh mẽ. – Đức Cha Wilson nói thêm – Thế nào, ngài Bellingham kính mến? Phải chăng người bạn trẻ của tôi đã biện hộ giỏi cho người đàn bà này?

- Đúng thế - Vị quan tòa trả lời – Và ông ta đã viện dẫn ra những lý lẽ vững đến nỗi chúng ta sẽ cứ để nguyên tình hình như hiện nay ; ít nhất là chừng nào mà chị đàn bà này không phạm thêm vụ bê bối nào khác. Tuy nhiên vẫn phải chú ý cho đứa bé qua một cuộc kiểm tra thích đáng theo đúng luật lệ về giáo lý vấn đáp do ông hoặc ông Dimmesdale phụ trách. Hơn nữa, đến một thời gian nào đó thích hợp, những người trông coi nhà thờ sẽ phải lưu ý cho nó đến trường và đi nghe giảng đạo.

Chàng mục sư trẻ sau khi ngừng nói đã lui vài bước tách ra khỏi nhóm người, đến đứng cạnh cửa sổ, khuôn mặt che lấp đi phần nào sau những nếp gấp của chiếc màn cửa. Mặt trời rọi xuống nền nhà cái bóng của anh đang run run sau một hồi phát biểu sôi nổi. Pearl, con tiểu yêu ngông cuồng và đồng bóng ấy, nhẹ nhàng đi đến bên anh, đưa cả hai tay nắm lấy bàn tay anh áp vào má mình ; một cử chỉ âu yếm biết bao, đồng thời cũng ý nhị biết bao, khiến cho người mẹ đang dõi mắt nhìn theo phải tự hỏi: “Có phải bé Pearl con ta đấy không?” Thế nhưng chị cũng biết là trong trái tim của con nhỏ có tình cảm yêu thương, tuy nhiên tình cảm ấy phần lớn biểu lộ ra thành sự sôi nổi cuồng nhiệt, chứ trong đời nó hầu như không có đến vài lần biểu hiện dịu dàng êm ái như lúc này. Ngoài cái vị ngọt của tình yêu mà người ta theo đuổi tìm kiếm ở người phụ nữ, thật không có gì êm ái hơn những biểu hiện tình cảm mến yêu của trẻ thơ, tự phát trao gửi cho ta theo bản năng tâm hồn, và do đó dường như muốn ngụ ý rằng ở trong ta có một cái gì đó thật sự đáng yêu. Và bởi vậy chàng mục sư nhìn quanh, đặt bàn tay vuốt ve lên đầu đứa bé, ngần ngừ một tí, rồi cúi xuống hôn lên trán bé.

Nhưng lối bày tỏ hiếm có ấy của tình cảm của bé Pearl không kéo dài lâu hơn. Bé lại lập tức cười vang, nhảy cỡn lên chạy dọc gian phòng một cách nhẹ nhàng đến nỗi ông Wilson phải ngạc nhiên đặt một câu hỏi là không biết các đầu ngón chân của nó có chạm đất không.

- Phải nói là con ranh này có phép ma thuật – Ông nói với Dimmesdale – Không cần cái chổi mụ phù thủy nó vẫn bay được.

- Đứa bé thật kỳ lạ - Lão Roger Chillingworth nhận xét – Có thể dễ dàng nhận thấy cái phần của mẹ nó ở con người của nó. Nhưng thưa các ngài, các ngài có nghĩ rằng việc phân tích bản chất của đứa bé và từ đó hình dung ra một khuôn mẫu để đoán được đúng ai là bố nó, là một việc vượt quá khả năng nghiên cứu của một triết gia không?

- Không được! – Wilson nói – Trong một vấn đề như thế này, đi theo dòng tư tưởng của một triết học ngoại đạo là có tội. Ăn chay và cầu nguyện thì tốt hơn ; và có thể lại càng tốt hơn nữa nếu chúng ta cứ để mặc điều bí mật ấy như vậy, trừ phi Thượng đế cho nó bộc lộ ra theo sự tự nguyện của nó. Do vậy, mọi tín đồ Cơ đốc đức hạnh đều có thể biểu thị sự ân cần của một người cha đối với đứa trẻ bị ruồng bỏ đáng thương này.

Sự việc đã đi đến một kết thúc thật là tốt đẹp. Hester Prynne cùng bé Pearl ra về. Truyền thuyết về câu chuyện này khẳng định rằng, khi hai mẹ con bước xuống các bậc thềm trước dinh thự, cánh cửa mắt cáo của người cửa sổ ở ngôi nhà này bỗng bật mở, và thò ra giữa ánh nắng cái mặt của mụ Hibbins, người em gái tính khí đanh ác của Thống đốc Bellingham – chính mụ này, vài năm về sau, đã bị hành hình vì tội phù thủy.

- Này! Này! – Mụ nói, trong khi cái bộ mặt báo điềm gở của mụ dường như tỏa một bóng đen lên trên mặt tường mới xây vui mắt của ngôi nhà – Đêm nay người có đi với ta không? Sẽ có cuộc họp mặt vui vẻ ở trong rừng. Ta đã hứa với Ma vương rằng cô nàng Hester Prynne xinh đẹp cũng sẽ đến dự đấy.

- Xin bà, bà thưa hộ với Ngài, cho tôi kiếu! – Hester Prynne trả lời với một nụ cười đắc thắng – Tôi phải ở nhà trông nom bé Pearl của tôi. Ví như người ta đã bắt mất con tôi rồi, thì có lẽ tôi cũng sẵn lòng theo bà vào rừng đấy, và sẵn lòng ký tên vào sổ của Ma vương nữa, bằng máu của tôi.

- Chẳng bao lâu nữa, thế nào chúng ta cũng sẽ khiến cho ngươi phải vào đấy với chúng ta. – Mụ già phù thủy cau mày nói và thụt đầu vào.

Nhưng, nếu chúng ta cho rằng cuộc trao đổi trên đây giữa mụ Hebbins với Hester Prynne là có thực, chứ không phải chỉ là một truyền thuyết huyền hoặc, thì ngay sự kiện này đã là một điều làm sáng tỏ lý lẽ đúng đắn của chàng mục sư trẻ chống lại việc cắt rời mối dây ràng buộc giữa người mẹ sa ngã với đứa con sinh ra từ sự yếu đuối của chị. Lời của anh đã sớm ứng làm vậy: ngay từ đầu, đứa bé đã cứu mẹ nó khỏi cạm bẫy của Quỷ Xa tăng.

Chú thích:

(1) “Ả giang hồ áo đỏ” – “con đĩ áo đỏ” (The scarlet woman): Một nhân vật trong Sách Khải huyền (Apocalypse) – tức là cuốn cuối cùng của Kinh Tân ước (New Testamet) – nhân vật này được mệnh danh là “mụ Babylon”, “người mẹ của tội thông dâm và những điều ghê tởm trên trái đất”. Sở dĩ nhân vật này được gọi là Babylon vì Kinh thánh coi thành phố Babylon cổ là một ổ trụy lạc. Các tín đồ Thanh giáo coi “Babylon”, “con đĩ áo đỏ” là hiện thân của Nhà thờ Thiên chúa giáo La Mã.