Chương 9 Lão Thầy Lang
Độc giả sẽ ghi nhớ rằng, dưới cái tên Roger Chillingworth, có một cái tên khác giấu kín, mà kẻ mang tên ấy đã quyết định không để ai nhắc đến bao giờ nữa. Chúng tôi đã mô tả con người ấy giữa đám đông chứng kiến cảnh bêu nhục Hester Prynne: một gã đàn ông đứng tuổi, gầy mòn tiều tụy đi vì cuộc sống bôn ba, vừa thoát khỏi chốn hoang dã hiểm nghèo đến đây với hy vọng tìm thấy ở một người đàn bà sự ấm cúng và niềm vui của hạnh phúc gia đình thì đã trông thấy ngay người đàn bà ấy đang là một hình mẫu của tội lỗi bị bêu trước công chúng. Danh tiết của người đàn bà ấy đang nằm dưới bàn chân chà đạp của mọi người. Điều ô nhục của chị đang là đầu đề râm ran bàn tán chung quanh chị giữa quảng trường họp chợ. Đối với họ hàng bà con chị, nếu như tin này đến tai họ, và đối với những bầu bạn trong quãng đời không có vết nhơ trước đây của chị, sẽ không còn gì ngoài nỗi cay đắng vì bị lây điều nhục nhã ; điều nhục nhã ấy sẽ không thể không lây nhiều hay it một cách cân xứng với mức độ thân tình và thiêng liêng của mối quan hệ giữa mỗi người trong bọn họ với chị trước đây. Vậy thì cớ gì kẻ này, mà mối quan hệ trước đây với người đàn bà sa ngã là mối quan hệ thân tình và thiêng liêng nhất trong số tất cả mọi người ấy, cớ gì, khi mà quyền lựa chọn nằm trong tay gã, gã lại phải xuất đầu lộ diện để chứng minh tính chất chính đáng của quyền mình đòi tiếp thu một thứ di sản kém phần đáng ao ước đến như vậy? Gã đã quyết định không để mình bị bêu danh bên cạnh người đàn bà ấy trên cái bục hổ nhục. Chưa từng ai biết gã ngoài Hester Prynne, mà với Hester thì gã đã nắm được chiếc chìa khóa bắt chị phải câm miệng, thế là gã chọn phương sách rút bỏ tên gã khỏi danh sách của loài người và biến mất tăm khỏi cuộc đời, không để lại dấu tích gì về những mối quan hệ và những điều quan tâm trước đây của gã, như thể thực sự gã đã nằm xuống đáy đại dương, nơi mà những lời đồn đại đã ký thác gã từ lâu. Đạt được mục đích đó rồi, những điều quan tâm mới lập tức nảy sinh, và một mục đích mới cũng hình thành ; mục đích mới này đen tối, quả như vậy nếu không phải là tội lỗi, nhưng đủ uy lực để huy động toàn bộ sức mạnh của mọi tài năng của gã.
Theo đuổi quyết tâm này, gã ở lại thành phố Thanh giáo ấy, khoác cái tên Roger Chillingworth, không nhờ vả một sự giới thiệu nào khác ngoài trình độ kiến thức và trí thông minh của bản thân gã ở một bậc vượt lên trên mức thông thường của con người. Về những nỗ lực nghiên cứu học tập của gã trong một thời kỳ trước đây đã cung cấp cho gã một vốn hiểu biết sâu rộng về y học đương đại, nên gã tự giới thiệu là một thầy thuốc, và người ta thân tình tiếp nhận gã với danh nghĩa đó. Ở miền định cư này rất ít có những người giỏi giang trong nghề thuốc và mổ xẻ. Có vẻ như là những người tài ấy hiếm khi cùng chia sẻ lòng hăng hái nhiệt tâm ngoan đạo đã khiến những người khác di cư từ bên kia Đại Tây dương sang đây. Trong những cuộc tìm tòi nghiên cứu của họ đi sâu vào cơ thể con người, có thể là những tài năng và tinh tế hơn người của họ đã bị vật chất hóa, và họ đã mất đi cách nhìn sự sống bằng quan điểm duy linh khi họ đưa vào giữa những mớ rắc rối phức tạp của bộ máy cơ thể kỳ diệu ấy, dường như bộ máy ấy có một nghệ thuật đủ để gộp lại bên trong nó tất cả mọi mặt của sự sống. Nhưng dù thế nào đi nữa, trong chừng mực mà công việc chữa bệnh còn có được một vai trò nào đó đối với thành phố Boston thì cho đến nay sức khỏe của nhân dân thành phố được giao phó vào bàn tay chăm sóc của một vị trợ tế già kiêm nghề bào chế thuốc. Tinh thần và thái độ sùng đạo của ông này là thứ chứng chỉ còn có hiệu lực mạnh hơn bất kỳ một thứ gì dưới dạng văn bằng mà ông có thể xuất trình. Còn khoa phẫu thuật thì duy nhất có một người, bác ta kết hợp làm hai việc: thảng hoặc mới thực hành cái nghề kỹ xảo cao quý này, còn thường lệ hàng ngày thi bác ta vung chiếc dao cạo. Một đội điều trị cỡ như vậy mà thu nhận được một kẻ như Roger Chillingworth thì thật chẳng khác gì bắt được vàng. Gã đã sớm chứng tỏ là kẻ thông thuộc cái lối kết cấu nặng nề và cầu kỳ của thuật điều trị cổ, mỗi thang thuốc đều gồm một loạt rất nhiều vị rắc rối và hỗn tạp, pha chế công phu như thế để làm ra một phương thuốc trường sinh. Hơn nữa, trong thời gian bị người da đỏ giam giữ, gã đã thu thập được một kiến thức phong phú về tính năng của các thứ cây cỏ. Gã không giấu giếm các bệnh nhân của mình rằng những thứ thuốc đơn giản này, thứ ân huệ mà thiên nhiên ban cho những người hoang dã chưa được khai hóa, cũng đã được bản thân gã tín nhiệm kk kém gì kho tàng dược liệu của nền văn minh châu Âu, mà biết bao nhiêu nhà bác học đã mất nhiều thế kỷ mới góp nên được.
Người lạ mặt thông thái này là con người thật gương mẫu, ít nhất là về những lề thói bên ngoài của cuộc sống một kẻ mộ đạo. Ngay từ khi mới đến đây, gã đã chọn Đức cha Dimmesdale làm người dắt dẫn phần hồn của mình. Nhà thần học trẻ Arthur Dimmesdale, mà tiếng tăm còn lẫy lừng ở Trường Đại học Oxford như một nhà học giả uyên bác, được những kẻ ngưỡng mộ nhiệt thành nhất xem chẳng khác gì một tông đồ được Chúa giao sứ mệnh xuống trần, để mà, nếu sống và lao động trọn một thời hạn bình thường của một đời người, làm nên những việc lớn lao cho lợi ích của Giáo hội Niu Inglơn hiện đang yếu kém, giống như các Đức Cha thuở ban sơ đã đóng góp cho thời còn trứng nước của tín đồ Cơ đốc. Thế nhưng, trong khoảng thời gian này, rõ ràng là sức khỏe của cha Dimmesdale đã bắt đầu suy sút. Những người biết rõ nhất những thói quen của anh giải thích rằng sở dĩ mặt anh tái xanh đi là vì quá miệt mài học tập nghiên cứu, vì quá lo lắng làm cho thật chu đáo phận sự của mình đối với giáo khu, và nhất là vì những bữa ăn kiêng và những buổi thức đêm mà anh đã thường xuyên thực hiện nhằm giữ gìn không cho những điều thô tục của cõi trần này che lấp và làm tối mờ ngọn đèn tinh thần của anh đi. Một số người cho rằng nếu như Dimmesdale quả thực sắp qua đời, thì thấy là chỉ vì mặt đất trần gian này không còn xứng đáng để được bước chân của anh đặt lên nữa. Còn bản thân anh thì trái lại, với một tính khiêm nhường rất đặc trưng của anh, anh thú nhận là mình tin rằng, nếu như Thượng đế thấy đã đến lúc phải chấm dứt sự tồn tại của anh giữa trần thế, ấy chính là vì anh không đủ tư cách để thực hiện ngay cả nhiệm vụ tầm thường nhất ở đây. Trong khi có bấy nhiêu ý kiến khác nhau về nguyên nhân của tình trạng suy sụp của anh, thì tình trạng ấy vẫn là một sự thật hiển nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa. Thân hình anh hốc hác đi ; giọng nói của anh, mặc dù vẫn ấm áp và dịu dàng, nhưng đã đượm một vẻ sầu muộn báo hiệu sự suy nhược ; người ta thường thấy mỗi khi có một điều gì làm anh hơi hoảng hốt hoặc một sự cố đột ngột, anh lại đặt bàn tay lên tim, mặt thốt đỏ bừng rồi tiếp đó lại tái xanh đi, biểu lộ một sự đau đớn.
Giữa khi tình trạng sức khỏe của chàng mục sư trẻ đang hao mòn như vậy, và ánh bình minh của một tài năng nhường ấy đang có nguy cơ sắp tắt đi quá sớm, thì Roger Chillingworth, xuất hiện ở thành phố này. Chẳng ai có thể nói được là gã từ đâu tới, trên trời rơi xuống, phải chăng là như vậy, hay dưới âm ti chui lên? Buổi ra mắt đầu tiên của gã trên sân khấu khoác một màu huyền bí, có thể dễ dàng được khuếch đại lên thành một điều kỳ diệu. Bây giờ người ta đã biết gã là một con người tài giỏi. Người ta quan sát thấy gã thu hái cỏ và hoa dại, đào các thứ rễ và củ, bứt các cành non của nhiều cây mọc trong rừng, như một kẻ tường tận những phẩm chất ẩn giấu bên trong những thứ chả có giá trị gì đối với con mắt người thường. Người ta nghe gã nói tới Ngài Kenelm Digby và một số người nổi tiếng khác – mà những kiến thức khoa học được xem hầu như là siêu phàm – như thể họ là những người đã thường xuyên trao đổi thư từ với gã hoặc bạn đồng liêu của gã. Tại sao, đã chiếm một địa vị cao như vậy trong thế giới những nhà thông thái, mà gã lại đến đây? Môi trường hoạt động của gã phải là những thành phố lớn, vậy gã có thể tìm cái gì ở nơi hoang dã tiêu điều này? Để trả lời điều thắc mắc ấy, có một lời đồn đại cứ loang dần – và dù có phi lý đi nữa, vẫn được sự tán thành của một số người rất có đầu óc hiểu biết – rằng Thượng đế đã thực hiện một phép hoàn toàn thần diệu, là đưa một bác sĩ y khoa lỗi lạc từ một Trường Đại học bên nước Đức bay qua không trung sang đây và đặt vị bác sĩ đó trước cửa phòng làm việc của cha Dimmesdale! Những kẻ có đức tin uyên bác hơn biết rằng Thượng đế khi thực hiện mục đích của mình không cần dùng đến tác dụng đóng kịch của cái mà người ta gọi là sự can thiệp của phép màu ; tuy nhiên họ cũng có xu hướng cho rằng có bàn tay của Thượng đế trong sự xuất hiện đúng lúc như vậy của Roger Chillingworth.
Ý kiến đó lại càng được chứng minh là đúng khi người ta thấy viên thầy thuốc luôn luôn biểu thị một mối quan tâm đặc biệt đối với chàng mục sư trẻ, gã gia nhập vào giáo khu do anh phụ trách, và cố gắng tìm cách tranh thủ cảm tình thân thiện và lòng tin của người giáo sĩ nhạy cảm vốn dè dặt này. Gã tỏ ra rất lo lắng trước tình trạng sức khỏe của vị mục sư chăn dắt phần hồn của mình, ngỏ ý ước ao được điều trị cho anh, và nếu điều trị sớm thì hy vọng là cũng có thể có kết quả tốt. Những bậc lớn tuổi, những viên trợ tế, những bà mẹ và những cô gái đồng trinh tươi trẻ xinh đẹp trong bầy con chiên của anh thảy đều đeo đẳng nài nỉ anh hãy thử dùng cái tài mà người thầy thuốc đang chân thành cống hiến. Nhưng Dimmesdale khi nào cũng dịu dàng khước từ những lời khẩn cầu của họ.
- Tôi không cần thuốc thang gì đâu. – Anh nói.
Nhưng sao chàng mục sư lại có thể nói thế được, khi mà trong mỗi buổi lễ ngày chủ nhật kế tiếp nhau, người ta lại thấy đôi má anh càng tái xanh đi và hốc hác thêm, giọng nói của anh càng run hơn trước – khi mà động tác của anh đưa tay lên ép vào tim không còn là bất chợt đôi lúc, mà đã trở thành một thói quen thường xuyên của anh? Phải chăng anh mong ước được chết? Những câu hỏi này đã được các vị mục sư cao tuổi ở Boston và các trợ tế trong giáo khu của anh nghiêm nghị nêu ra với anh. Theo cách nói của họ, họ đã “phán xử” anh về cái tội đã cự tuyệt một sự giúp đỡ hiển nhiên như vậy của Thượng đế. Anh im lặng lắng nghe, và cuối cùng anh hứa sẽ hỏi ý kiến người thầy thuốc.
Thực hiện lời hứa đó, anh trao đổi với lão Roger Chillingworth.
- Nếu như cái chết của tôi là do ý Chúa – Dimmesdale nói – thì tôi rất mãn nguyện là những công việc của tôi, những mối ưu phiền của tôi, những tội lỗi của tôi và những nỗi đau đớn của tôi chẳng bao lâu nữa sẽ chấm dứt cùng với cuộc đời của tôi, những gì trần tục trong đó hãy bị chôn vùi đi trong nắm mồ của tôi, còn phần linh hồn sẽ cùng đi với tôi đến cõi vĩnh hằng, như thế tốt hơn là để ngài phải vì tôi mà đem tài năng của ngài ra thử thách.
- Chao ôi! – Roger Chillingworth trả lời, với một vẻ bình thản không biết là gò ép hay tự nhiên, nhưng là nét đặc trưng trong thái độ của gã – Một giáo sĩ trẻ dễ có khuynh hướng nói y như vậy đó. Những người trẻ, chưa bén rễ sâu vào cái gì, thường từ bỏ cuộc đời dễ dàng như thế. Và những vị thánh giữa trần gian, những kẻ đặt bước chân đi cùng với chúa trên mặt đát này, sẽ rất vui lòng rời khỏi nơi đây để cùng với Chúa thong dong dạo bước trên những lối đi lát vàng của Thiên đường.
- Ồ không! – Chàng mục sư trẻ đáp lời, tay đưa lên ép vào tim, một nét đau đớn thoáng qua trên vùng trán – Giá như tôi xứng đáng hơn để được dạo bước trên đó, thì tôi hẳn đã có thể vui lòng được tiếp tục làm việc lao khổ ở đây hơn.
- Những con người đức hạnh bao giờ cũng tự đánh giá mình quá thấp – Gã thầy lang nói.
Tiếp tục theo cung cách như vậy, lão Roger Chillingworth bí ẩn đã trở thành người cố vấn chăm nom sức khỏe cho Đức Cha Dimmesdale. Không những gã thầy lang quan tâm đến bệnh tình của anh, mà gã còn hết sức muốn chú ý xem xét kỹ tính cách và những nét đặc biệt của người bệnh, bởi thế nên hai người, tuổi khác nhau đến như vậy, đã dần dần trở thành đôi bạn cặp kè nhau. Để có lợi cho sức khỏe của chàng mục sư, và để tạo điều kiện cho gã thầy lang hái những cây cỏ làm thuốc, hai người thường đi dạo trên những quãng đường dài dọc bờ biểm, hoặc trong rừng, hòa lẫn tiếng chuyện trò của họ với tiếng sóng vỡ bờ và rì rào thủ thỉ, hoặc với khúc ca hùng tráng của làn gió qua các vòm cây. Thỉnh thoảng, người này lại để thăm người kia tại nơi làm việc hoặc phòng riêng. Trong mối quan hệ bầu bạn với nhà khoa học, chàng mục sư trẻ cảm thấy có một sức quyến rũ đối với mình. Anh nhận thấy ở gã một trí tuệ được trau dồi sâu rộng vượt mức bình thường, cùng với một tầm suy nghĩ và tự do tư tưởng mà anh không thể nào tìm thấy được trong số những người cùng nghề nghiệp với anh. Thực ra, anh đã giật mình, nếu không phải là sửng sốt, khi nhận thấy nét đặc biệt này ở người thầy thuốc. Dimmesdale thực sự là một tu sĩ, thực sự là một kẻ cuồng tín, tình cảm sùng kính đối với tôn giáo phát triển mạnh, đầu óc quy củ kiên quyết tự ghép mình đi theo con đường của một tín ngưỡng, đi thành lối mòn cứ liên tục hằn sâu thêm mãi cùng với thời gian tiếp tiếp trôi qua. Giữa bất kỳ một tình trạng xã hội nào anh cũng sẽ không hề trở thành kẻ mà người ta gọi là phần tử có quan điểm tự do. Một điều luôn luôn thiết yếu cho sự yên tĩnh của tâm hồn anh là anh phải cảm thấy áp lực của một đức tin bên trong anh, nó giam hãm anh giữa vòng tay thép của nó nhưng lại truyền cho anh một sức mạnh chống đỡ. Thế nhưng, trong quan hệ với gã thầy lang không phải là anh không cảm thấy đôi lúc sảng khoái nhẹ nhõm, mặc dù anh vừa thú vị vừa run, khi nhìn vào thế giới khách quan qua môi giới của một loại trí tuệ khác với những người mà anh thường tiếp xúc. Cứ như thể là có một cửa sổ mở tung ra, để lọt một luồng không khí khoáng đãng hơn vào trong gian buồng làm việc bí hơi ngột ngạt, nơi mà anh đang tàn phá dần cuộc đời anh dưới ánh mờ của ngọn đèn hay ánh trời bị che cản, giữa môi trường ngát hương nhưng đầy mùi ẩm mốc, dù cảm thấy qua giác quan hoặc tinh thần, từ những cuốn sách toát ra. Nhưng luồng không khí mới mẻ lọt vào kia mát quá, làm ớn lạnh, không thể thoải mái yên tâm mà hít thở lâu được. Bởi vậy chàng mục sư lại rút lui trở vào bên trong giới hạn của những gì mà Nhà thờ đã xác định là chính thống, và cùng với anh, lão thầy lang cũng rút vào theo.
Cứ như vậy, Roger Chillingworth nghiên cứu xem xét cẩn thận những biểu hiện ở bệnh nhân của mình, cả trong khi anh sống cuộc sống thông thường hàng ngày, đi theo đúng lối mòn thường lệ trong phạm vi những tư tưởng quen thuộc với anh, và cả trong những tình huống anh rơi vào giữa một bối cảnh tinh thần khác, mà sự đổi mới hoàn cảnh có thể làm nổi lên một nét gì đó khác thường trên bề mặt tính cách anh. Có vẻ như lão thầy lang cho là cần thiết phải hiểu rõ con người ấy, trước khi tính đến việc làm gì để mang lại lợi ích cho anh. Ở đâu có một trái tim và một trí tuệ, thì ở đó những bệnh hoạn của phần thể chất đều nhuốm những màu sắc thù của trái tim và trí tuệ ấy. Ở Arthur Dimmesdale, tư duy và trí tưởng tượng hoạt động rất mạnh, và cảm giác rất nhạy, nên có khả năng là sự ốm đau của thể xác bắt nguồn từ nhân tố đó. Vì thế, Roger Chillingworth – con người đầy tài năng, viên thầy thuốc ân cần và thân ái – đã cố gắng đi sâu vào tâm khảm người bệnh, đào bới trong những quy tắc xử thế của anh, thăm dò mọi thứ bằng cách sờ soạng thật cẩn thận, giống như một người mò tìm châu báu trong cái hang sâu tối mịt. Ít có điều bí mật nào có thể thoát được con mắt của một nhà điều tra vừa có cơ hội vừa được sự cho phép tiến hành một cuộc tìm kiếm như vậy, lại có thêm kỹ năng để làm tốt việc đó. Một con người mang nặng một điều bí mật trong lòng phải đặc biệt chú ý tránh mối quan hệ mật thiết với người thầy thuốc của mình. Nếu như người thầy thuốc này lại có sự khôn ngoan sắc sảo bẩm sinh, và thêm một khả năng gì đó thật khó định nghĩa – hẵng cứ gọi nó là khả năng trực giác - ; nếu gã không có thói tự cao tự đại sống sượng hay một một đặc tính nào hết sức khó chịu ; nếu gã có một tài năng thiên phú tạo ra được giữa tinh thần mình và tinh thần bệnh nhân một sự đồng cảm mạnh mẽ để mức bệnh nhân thế nào cũng sẽ bất chợt mở mồm nói ra những điều mà anh ta tưởng mình chỉ suy nghĩ trong lòng ; nếu những điều tiết lộ ra như vậy được tiếp nhận không ồn ào, không phải bằng những câu phát biểu đồng tình mà thường là bằng sự im lặng, bằng một tiếng khẽ ậm ừ qua hơi thở và lúc này lúc nọ một lời ngắn gọn tỏ ra đã hiểu ; nếu như cộng với những đức tính ấy của một kẻ tâm phúc lại có thêm những thuận lợi do tiếng tăm đã được thừa nhận của một viên thầy thuốc, - thì đến một lúc nào đó, không thể tránh khỏi, tâm hồn người bệnh đau khổ sẽ tan chảy ra thành một dòng suối âm thầm nhưng trong suốt, phơi bày mọi điều bí ẩn của nó ra giữa ánh sáng ban ngày.
Roger Chillingworth có có thể, hoặc hầu hết những khả năng kể ra trên đây. Tuy nhiên, thời gian tiếp tục trôi qua ; một thứ quan hệ mật thiết, như chúng tôi đã nói, dần dần hình thành giữa hai trí tuệ thông thái này: có cả một địa hạt rộng lớn cho hai đầu óc gặp nhau là toàn bộ lĩnh vực tư duy và nghiên cứu của con người ; họ trao đổi với nhau mọi đề tài về đạo đức và tôn giáo, về những việc công, về tính cách mỗi cá nhan ; cả hai người đều nói cho nhau nghe nhiều về những điều có vẻ như là tâm sự riêng tư của bản thân mình ; ấy thế nhưng chưa bao giờ có một điều bí mật nào thuộc loại mà gã thầy lang hình dung là nhất định phải có bên trong chàng mục sư, thổ lộ ra từ miệng chàng lọt vào tai gã. Quả thực gã đã phải nghi ngờ rằng ngay cả thực chất bệnh hoạn của phần thể xác Dimmesdale cũng chưa bao giờ bộc lộ rõ ràng cho gã biết. Một sự dè dặt đến kỳ lạ!
Sau một thời gian! Theo gợi ý của Roger Chillingworth, các bạn trẻ của Cha Dimmesdale bố trí cho hai người cùng ở chung một nhà, để cho người thầy thuốc có tấm lòng quan tâm lo lắng và quyến luyến ấy có điều kiện thường xuyên để mắt theo dõi mọi biến động thăng trầm của ngọn triều sự sống của anh. Dân khắp thành phố hân hoan khi thấy mục tiêu mà họ xiết bao mong ước ấy đã đạt được. Người ta cho đó là biện pháp hay nhất có thể thực hiện được để chăm sóc chàng mục sư trẻ, trừ phi anh chọn một người nào đó trong số nhiều cô gái tươi đẹp như hoa lâu nay đã tận tình dành hết phần hồn cho anh, làm người vợ tận tụy của anh. Những ai cảm thấy được đề xuất ý kiến này đều luôn tìm cách cố thuyết phục anh chấp nhận. Nhưng lúc này người ta không thấy có triển vọng gì là Arthur Dimmesdale sẽ chịu nghe theo: anh bác tất cả những điều gợi ý về vấn đề này, như thể việc sống độc thân của người giáo sĩ là một trong những tín điều của kỷ luật Giáo hội đối với anh. Bởi vậy, trong tình hình mà Đức Cha Dimmesdale, do sự lựa chọn của chính mình, hiển nhiên đã phải chịu cái kiếp luôn luôn ngồi ăn miếng bánh vô vị của mình tại bàn ăn kẻ khác, phải chịu đựng cái giá lạnh suốt đời, số phận tất yếu của người chỉ đi tìm cách sưởi ấm mình bên bếp lửa kẻ khác, thì thực sự có vẻ như là người thầy thuốc già khôn ngoan sắc sảo, lão luyện và nhân đức kia, với mối tình thương yêu như cha con và lòng tôn kính của gã đối với chàng mục sư trẻ, chính là con người thích hợp hơn bất kỳ ai khác để luôn luôn ở gần bên anh sẵn sàng có ngay khi anh cất tiếng yêu cầu.
Nơi ở mới của đôi bạn là nhà của một quả phụ ngoan đạo thuộc tầng lớp quý tộc. Ngôi nhà này chiếm gần hết khu đất mà sau này người ta đã dùng để dựng lên ngôi nhà thờ King cổ kính. Bên cạnh nhà là bãi tha ma, nguyên là lò đất của Isaac Johnson. Khung cảnh như vậy thật là thích hợp để khơi động những suy nghĩ nghiêm chỉnh, đáp ứng đúng điều kiện làm việc của cả hai người: chàng mục sư và ông thầy chữa bệnh. Bà quả phụ, với tấm lòng ân cần chăm sóc của người mẹ, xếp cho Dimmesdale một buồng ở mặt tiền chan hòa ánh nắng, có những tấm màn dày cộp nặng nề ở cửa sổ để tùy ý tạo ra được bóng tối ngay giữa ban trưa. Quanh tường treo những tấm thảm, nghe nói là do hãng Gobelin dệt, miêu tả câu chuyện về David và Bathsheba, và nhà tiên tri Nathan trong kinh thánh, màu của các hình ảnh trên thảm chưa phai nhưng đã ố, khiến người đàn bà xinh đẹp trong cảnh trở thành cũng dữ tợn gần giống nhu là tiên tri báo trước tai ương. Trong buồng này, chàng mục sư xếp đầy những chồng sách của mình, trong đó có rất nhiều tác phẩm của các Đức Cha thủy tổ in khổ hai đóng bìa giấy da, các sách về tri thức của Rabbis và kiến thức uyên bác của giới thầy tu mà các nhà thần học Tin lành dù có khi phỉ báng và chỉ trích nhưng thường vẫn buộc lòng phải dùng đến. Ở mặt bên kia ngôi nhà là buồng làm việc và phòng pha chế của Roger Chillingworth, tuy chưa đạt được mức mà một nhà khoa học hiện đại coi là tạm đầy đủ, nhưng cũng có một thiết bị chưng cất và những phương tiện để pha chế được những thứ dược phẩm và hóa chất mà nhà luyện đan giàu kinh nghiệm này biết rõ cách làm thế nào để sử dụng vào các mục đích của mình. Trong điều kiện được bố trí chỗ ở thuận lợi như vậy, hai nhà thông thái bắt đầu ổn định cuộc sống mới, mỗi người trong địa hạt riêng của mình, tuy nhiên vẫn thường thân mật sang thăm hỏi nhau, và không phải là không tò mò để mắt xem xét kỹ công việc của nhau.
Và những người bạn hiểu biết nhất của Đức Cha Arthur Dimmesdale, như chúng tôi đã nói, đều hình dung ra một cách rất có lý rằng bàn tay của Thượng đế đã làm ra tất cả sự tình ấy với mục đích phục hồi lại sức khỏe cho chàng mục sư trẻ - điều mà biết bao nhiêu lời ước nguyện giữa công chúng, trong gia đình và thầm kín trong lòng đều khẩn thiết cầu mong. Thế nhưng lại cần phải nói rằng, một bộ phận trong cộng đồng này gần đây đã bắt đầu có ý kiến riêng của họ về mối quan hệ giữa Đức Cha Dimmesdale với lão thầy lang già bí ẩn. Khi một đám quần chúng bình dân xem xét một cái gì đó bằng mắt, thì họ rất dễ bị đánh lừa. Nhưng khi họ xét đoán qua khả năng trực giác của tấm lòng quảng đại và nồng hậu của họ, như hõ vẫn thường thế, thì những kết luận mà họ rút ra được lại thường sâu sắc và chính xác như thể mang tính chất của chân lý thiên khải do khả năng siêu nhiên soi rạng. Trong trường hợp mà chúng tôi đang nói đến, quần chúng không thể biện minh cho thành kiến của mình đối với rpg bằng một sự kiện hay lập luận gì đáng kể cho người ta phải nghiêm chỉnh bác bỏ. Thực vậy, có một thợ thủ công già, trước kia là một công dân thành London hồi ngài Thomas Overbury bị ám sát, cách đây đã khoảng ba mươi năm ; ông ta xác nhận là đã nhìn thấy gã thầy lang này, hồi ấy đã mang một cái tên khác mà người kể chuyện không nhớ nữa, có quan hệ bầu bạn mật thiết với Tiến sĩ Forman, một vị pháp sư già nổi tiếng, có dính líu vào vụ giết Overbury. Lại có vài ba người khác gợi lên ý kiến rằng lão thầy lang tài giỏi ấy, trong thời gian bị người da đỏ giam cầm, đã mở rộng những kiến thức và nghề làm thuốc bằng cách tham gia vào những môn bùa chú của các thầy tu thổ dân mà thiên hạ đều thừa nhận là những tay phù thủy cao cường, thường tiến hành những cuộc chữa bệnh có vẻ thật là thần diệu nhờ cái tài của họ về ma thuật. Một số đông người khác – nhiều người trong số này là những kẻ có ý thức nhận xét đúng mức và đầu óc quan sát thực tế nên những ý kiến của họ thật là có giá trị không những trong vấn đề này mà cả trong những vấn đề khác nữa – khẳng định rằng tướng mạo của Roger Chillingworth đã thay đổi rõ rệt trong thời gian gã ở thành phố này, và đặc biệt là từ khi gã ở chung nhà với Dimmesdale. Lúc đầu, trông gã điềm tĩnh, trầm mặc, có vẻ một nhà học giả. Nhưng nay thì đã xuất hiện một cái gì đó xấu xa và ác độc trên nét mặt gã mà trước kia họ không nhận thấy, và họ càng năng gặp mặt gã thì càng nhìn thấy cái vẻ đó thể hiện rõ ràng hơn. Theo ý kiến của quần chúng, ngọn lửa trong phòng pha chế của gã đã được mang từ địa ngục lên và được nuôi bằng nhiên liệu của cõi âm đó ; và bởi vậy, như người ta đã có thể dự kiến, mặt gã đen tối đi vì ám khói từ lửa ấy bốc lên.
Để tóm lại vấn đề, có một ý kiến dần dần lan truyền ra rộng khắp, là Đức Cha Arthur Dimmesdale, giống như nhiều vị thánh xuất sắc khác ở tất cả các thời đại của thế giới Cơ đốc đã bị quỷ ám, con quỷ ấy có thể chính là Xa tăng, hoặc cũng có thể là một thủ hạ của Quỷ Xa tăng, khoác cái lốt của lão Roger Chillingworth. Tên quỷ sứ nào đã được thánh thần cho phép sục sạo mò tìm trong cõi riêng tư của người giáo sĩ một thời gian để mưu hại linh hồn của anh. Phải nói rằng không có một con người nào hiểu phải trái mà lại hồ nghi không biết thắng lợi sẽ thuộc về ai. Với một niềm hy vọng không chuyển lay, công chúng đang chờ đợi nhìn thấy chàng mục sư từ trong cuộc xung đột bước ra với nét mặt rạng rỡ vì chiến thắng vẻ vang mà chắc chắn anh sẽ giành được. Tuy nhiên, trong thời gian chờ đợi, thật rầu lòng khi nghĩ đến những cơn đau đớn chết người mà anh có thể phải chịu đựng trong cuộc đấu tranh để đi đến thắng lợi.
Than ôi! Bằng vào cái vẻ u ám và khiếp đảm trong đáy sâu đôi mắt của chàng mục sư tội nghiệp, có thể thấy được trận chiến đấu thật là ác liệt và thắng lợi không bảo đảm chút nào.