Chương 10 Thầy Lang Và Bệnh Nhân
Trong suốt cuộc đời của gã trước đây, Roger Chillingworth là một con người tính khí điềm đạm và tốt bụng. Tuy không có tình cảm nồng nhiệt, nhưng trong mọi mối giao tiếp xã hội, bao giờ gã cũng là con người trong sáng và ngay thẳng. Gã đã bắt đầu cuộc khảo sát nghiên cứu ở chàng mục sư trẻ với một tinh thần chính trực, theo gả nghĩ và nghiêm khắc sánh ngang với tinh thần của một quan tòa, chỉ ham muốn tìm ra sự thực, như thể vấn đề này chỉ gồm có những đường nét và hình vẽ của một bài toán hình học, chứ không dính líu đến những đam mê của con người và những điều làm tổn hại đến chính mình. Nhưng, trong quá trình tiến hành, gã bỗng thấy có một sự lôi cuốn ghê gớm, một thứ nhu cầu bức bách thật là quyết liệt mặc dù vẫn nằm dưới cái bề ngoài trầm tĩnh, túm chặt lấy gã và sẽ không bao giờ buông thả gã cho đến khi gã phải hoàn thành mọi mệnh lệnh của nó. Bây giờ thì gã đào bới trong tâm hồn của chàng mục sư khốn khổ, như một người đi tìm vàng, hay nói cho đúng hơn, như một gã đào huyệt moi móc trong một ngôi mộ, hòng tìm một báu vật chôn cùng tử thi, nhưng có thể là cuối cùng chẳng tìm thấy gì ngoài sự chết chóc và rữa nát. Khốn nạn thay cho chính linh hồn của gã, nếu như điều mà gã cố công tìm kiếm rốt cuộc chỉ có vậy mà thôi.
Thỉnh thoảng một tia sáng ánh lên trong đôi mắt của lão thầy lang, xanh lét và bất thường, như phản chiếu từ một lò nung, hoặc có thể nói, như một ánh lóe sáng của ngọn lửa ghê rợn phụt ra từ cửa hang khủng khiếp của Bunyan bên sườn núi, chập chờn rọi trên khuôn mặt người hành hương (1). Có thể là mảnh đất mà gã đào bới nham hiểm này đang cày xới vừa lộ ra một số dấu hiệu nào đó khích lệ gã.
Vào một lúc như vậy, gã tự nhủ:
- Con người này, mà người ta cho là trong sáng, con người có vẻ như hoàn toàn sống với giá trị tinh thần, lại kế thừa từ bố hay từ mẹ một bản tính thú vật mạnh mẽ. Ta hãy đào sâu thêm vào mạch này.
Thế rồi sau một thời gian dài sục tìm vào cõi nội tâm mờ mịt của chàng mục sư, lật đảo nhiều chất quý dưới những dạng thể hiện khác nhau: những khát vọng cao cả đối với hạnh phúc của giống nòi, tình yêu nồng nhiệt đối với các linh hồn đồng loại, những tình cảm trong sáng, lòng mộ đạo tự nhiên, được củng cố nhờ quá trình tư duy và nghiên cứu, và được sáng thêm nhờ sự soi rạng – đối với kẻ lục tìm, tất cả những chất vàng vô giá này có lẽ cũng không hơn gì những rác rưởi – gã đành phải quay đi, thất vọng, và bắt đầu dò theo một mạch khác. Gã dò dẫm đi theo một cách lén lút, đặt từng bước thận trọng, cẩn thận dè chừng, như một tên trộm lẻn vào một căn buồng có một người đang nằm dở ngủ dở thức – hoặc có thể là hoàn toàn đang thức – nhằm mục đích lấy cắp chính cái của báu mà người đó giữ gìn như con ngươi của mắt mình. Mặc dù hắn đã chủ tâm dè chừng cẩn thận đến như vậy, nhưng sàn gỗ đôi lúc vẫn phát ra tiếng cọt kẹt ; quần áo của hắn vẫn có lúc khẽ sột soạt ; cái bóng của hắn, ở một khoảng cách sát gần nguy hiểm như thế, có thể sẽ ngả xuống trùm qua người nạn nhân của hắn. Nói một cách khác, mục sư Dimmesdale, người mà sự nhạy cảm của hệ thần kinh thường có hiệu lực như một khả năng trực giác của tinh thần, sẽ lờ mờ nhận biết được một cái gì đó thù địch đã lẻn đến tiếp cận mình muốn phương hại đến sự yên tĩnh của mình. Nhưng lão Roger Chillingworth cũng có một khả năng cảm thụ gần như là trực giác ; khi chàng mục sư giật nảy mình đưa mắt nhìn gã, thì kia, người thầy thuốc vẫn lặng lẽ ngồi đó, người bạn tốt bụng, ân cần theo dõi trông nom, đồng tình thông cảm, mà không hề sỗ sàng xoi mói.
Thế nhưng, có thể là Dimmesdale đã nhìn thấy được tính cách của kẻ này một cách hoàn chỉnh hơn, nếu như ở con người của anh không có một thứ tính bệnh hoạn, mà những tâm hồn đau ốm thường dễ mắc phải, khiến cho anh đâm ra hoài nghi tất cả mọi người. Đã không tin ai là bạn của mình. Thì cũng như không thể nhận ra thù khi kẻ thù thực sự xuất hiện. Bởi vậy anh vẫn duy trì mối giao tiếp thân mật với lão thầy lang, hàng ngày tiếp gã trong phòng làm việc của mình hoặc sang thăm phòng pha chế của gã, và để giải trí, anh thường quan sát quá trình chế biến các thứ cây cỏ thành thuốc chữa bệnh.
Một hôm, ngồi tựu khuỷu tay vào bệ cửa sổ trông ra bãi tha ma, đầu tựa vào bàn tay, anh nói chuyện với Roger Chillingworth trong khi lão thầy lang đang xem xét một bó cỏ dại trông thật xấu xí.
Liếc mắt nghiêng nhìn bó cỏ - chả là hiện nay có một điều khác thường ở chàng mục sư là anh hiếm khi nhìn thẳng, dù nhìn người hay nhìn một vật gì – anh hỏi:
- Bác sĩ thân mến, ngài hái ở đâu thứ cỏ có những lá đen đủi và nhèo nhẽo thế kia?
- Ngay ở bãi tha ma cạnh nhà này đấy – Gã thầy lang vừa tiếp tục công việc vừa trả lời – Tôi mới nhìn thấy nó lần đầu. Tôi thấy nó mọc trên một ngôi mộ, không có bia. Không có một cái gì khác để ghi nhớ về người chết, ngoài thứ cỏ dại xấu xí này, như thể đám cỏ này tự nhận trách nhiệm nhắc người đời tưởng nhớ đến kẻ đã nằm xuống đó. Có thể là cỏ này từ trong tâm can người chết mọc lên, tiêu biểu cho một điều bí mật gớm guốc nào đó đã bị chôn vùi đi cùng với xác chết, mà đáng lẽ kẻ quá cố nên thú nhận ra trong khi còn sống thì tốt hơn.
- Có lẽ người ấy cũng đã tha thiết muốn thế - Dimmesdale nói – nhưng không làm sao thú nhận ra được.
- Tại sao vậy? – Gã thầy lang đáp lời – Tại sao lại không? Khi mà tất cả các uy lực của thiên nhiên đều đòi hỏi tội lỗi phải được thú nhận, đòi hỏi một cách khẩn thiết đến nỗi những ngọn cỏ hắc ám này đã phải bật ra từ trong quả tim của người chết, để bộc lộ rõ ràng tội lỗi?
- Đó chỉ là sự tưởng tượng của ngài thôi, thưa ngài quý mến – Chàng mục sư trả lời – Nếu tôi nghĩ không sai, thì không thể có một uy lực nào, ngoài đức từ bi của Chúa, phát giác ra, dù bằng lời nói hay bằng vật tượng trưng, những bí mật chôn giấu trong trái tim con người. Trái tim, khi đã chuốc lấy cái tội chứa chấp những điều bí mật ấy, tất yếu phải giữ kín chúng cho đến cái ngày mà tất cả mọi điều ẩn giấu nhất định sẽ phải bộc lộ ra. Mà tôi cũng không nhận thức hoặc giải thích Kinh Thánh theo cái kiểu quan niệm rằng việc phơi bày những suy nghĩ và hành vi của con người vào cái ngày tối hậu ấy là nhằm thực hiện một phần sự trừng phạt. Rõ ràng đó là một cách xem xét nông cạn. Không! Nếu tôi không nhầm, những sự tiết lộ ấy chỉ nhằm làm thỏa mãn khát vọng hiểu biết của tất cả những con người có trí thông minh, những con người ấy sẽ chờ đợi để nhìn thấy vấn đề khó hiểu mờ mịt của cuộc sống này được làm sáng tỏ vào ngày đó. Sự thông hiểu những tâm hồn con người sẽ là điều cần thiết cho việc giải đáp trọn vẹn nhất vấn đề mờ tối ấy. Hơn nữa, tôi nhận thức rằng những tâm hồn chứa đựng những điều bí mật khốn khổ mà ngài đã nói, sẽ trút chúng ra trong cái ngày tối hậu ấy, không phải một cách bất đắc dĩ, mà với một niềm vui sướng khôn tả.
- Thế thì tại sao không bộc lộ ra ngay giữa cõi trần này? – Roger Chillingworth kín đáo liếc nhìn chàng mục sư chất vấn – Tại sao những kẻ tội lỗi không tận hưởng lấy sớm hơn niềm khuây khỏa khôn tả ấy?
- Phần lớn bọn họ đã làm như vậy – Chàng giáo sĩ nói, tay đè chặt lên ngực như thể bị một cơn đau đột ngột nhói lên trong đó – Cố nhiên, nhiều linh hồn tội nghiệp đã thổ lộ những điều bí mật ra với tôi, không phải chỉ khi hấp hối, mà cả khi sống còn khỏe mạnh, thanh danh vẫn còn sáng trong. Và bao giờ cũng vậy, tôi đều đã chứng kiến một sự khuây khỏa biết đến chừng nào ở những người anh em tội lỗi ấy, sau khi điều sâu kín trong lòng họ đã được trút ra ; giống như một người sau thời gian dài ngột ngạt vì chính hơi thở ô nhiễm của mình, cuối cùng được thở hít không khí trong lành. Làm sao có thể khác đi được? Tại sao một kẻ khốn nạn – ví dụ kẻ phạm tội giết người – lại thích giữ lại cái thây ma chôn kín trong trái tim mình, hơn là vứa nó ngay ra ngoài, để cho thiên hạ giải quyết.
- Ấy thế nhưng một số người vẫn cứ chôn giấu những điều bí mật của họ như vậy – Lão thầy lang điềm tĩnh nói.
- Đúng, có những người nhu vậy – Dimmesdale trả lời. – Nhưng, khỏi phải nói đến những lý do hiển nhiên, có thể là họ bị chính cái cơ cấu của bản chất riêng của họ kìm giữ buộc họ nín lặng. Hoặc là – ta có thể giả định như thế này không? – tuy họ có thể tội lỗi là thế, nhưng họ vẫn có một tấm lòng nhiệt huyết vì danh Chúa và vì hạnh phúc của con người, nên họ chùn lại không dám phơi bày mình ra xấu xa và dơ dáy trước con mắt mọi người, bởi vì kể từ lúc phơi bày ra như vậy họ sẽ không còn có thể làm được trò trống gì nữa, không còn có thể thực hiện được điều gì tốt hơn trước để chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ. Vậy là, họ vẫn lui tới nơi này nơi nọ giữa những người anh em đồng loại trông thật trong trắng như bông tuyết mới rơi, nhưng tâm hồn thì hoen ố bởi tội lỗi mà họ chưa thể giũ sạch đi được, điều đó khiến lòng họ mang nặng nỗi day dút giằn vặt khôn tả.
- Những kẻ đó tự lừa dối mình – Roger Chillingworth nói với giọng sôi nổi hơn bình thường và giơ ngón tay trỏ lên phác một cử chỉ - Họ sợ phải nhận lấy mối nhục mà họ đáng phải chịu. Tình yêu của họ đối với con người, lòng nhiệt thành của họ đối với việc phụng sự Chúa – những tình cảm thôi thúc thánh thiện này có thể có mà cũng có thể không cùng tồn tại trong trái tim họ song song với những điều xấu xa mà tội lỗi của họ đã mở cửa của họ vào, những điều xấu xa này nhất thiết sẽ làm sinh sôi nảy nở một nòi ma quỷ ghê tởm bên trong con người của họ. Nhưng, nếu họ muốn làm sáng danh Chúa, thì họ chớ có giơ những bàn tay ô uế của họ hướng lên thiên đường. Nếu họ muốn phục vụ đồng loại của họ, thì họ hãy chứng minh rõ ràng uy lực và sự có thực của lương tâm bắt buộc họ phải tự hạ mình để mà ăn năn sám hối. Phải chăng ngài muốn làm của họ tôi tin, hỡi ông bạn uyên bác và ngoan đạo của tôi, rằng vì danh Chúa và vì phúc của con người, một cái bề ngoài giả tạo có thể tốt hơn là chân lý của bản thân Đức Chúa? Ngài hãy tin tôi, những con người ấy đã tự lừa dối mình.
- Có thể là thế - Chàng mục sư trẻ hờ hững trả lời, như muốn chấm dứt một cuộc tranh luận không thích hợp hoặc không đúng lúc ; anh có một khả năng thoát nhanh ra khỏi bất cứ đề tài gì làm khích động cái tính khí quá nhạy cảm và hay bồn chồn của anh – Nhưng bây giờ tôi xin phép hỏi ngài, vị bác sĩ tài giỏi của tôi, là thật ra liệu ngài có của họ rằng sự chăm sóc ân cần của ngài đối với cái cơ thể ốm yếu của tôi đây có thể đem lại được một lợi ích nào chăng?
Trước khi Roger Chillingworth kịp trả lời, họ bỗng nghe tiếng cười như điên của một đứa trẻ lanh lảnh ngoài bãi tha ma ngay cạnh nhà vọng vào. Ngẩng đầu theo bản năng nhìn qua cửa sổ mở rộng – chả là đang giữa mùa hè – chàng mục sư trông thấy Hester Prynne và bé Pearl đang theo lối mòn băng qua bãi tha ma. Trông bé Pearl xinh đẹp như hoa, nhưng nó đang giữa lúc nổi cơn nghịch ngợm tai ác. Mỗi khi xảy ra một cơn đùa giỡn thế này, dường như con bé hoàn toàn thoát hẳn ra ngoài phạm vi đồng cảm hoặc liên quan với con người. Lúc này nó đang lếu láo nhảy phóc từng bước từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác, của họ đến khi tới mặt phẳng rộng rãi trên ngôi mộ của một danh nhân nào đấy – có thể chính đó là mộ Isaac Johnson – thì nó bắt đầu nhảy múa trên đó. Đáp lại mệnh lệnh và những lời khẩn nài của mẹ đòi bé phải có thái độ tôn kính, bé ngừng lại và quay sang hái những cụm ho có lông dính của một cây ngưu bàng mọc cạnh ngôi mộ. Hái được một nắm, nó đến bên mẹ, xếp những hoa ấy dọc theo các nét của chữ A màu đỏ trên ngực mẹ, và các mẩu hoa, do đặc tính của chúng, bám chặt vào đấy. Hester chiều con, để nguyên không bứt chúng ra.
Giữa lúc đó Roger Chillingworth bước đến gần cửa sổ nhìn xuống, miệng nở một nụ cười nham hiểm:
- Trong các thành phần cấu tạo tính chất đứa bé này, không có một luật lệ nào, không một sự tôn kính nào đối với người có uy tín. Không có sự đếm xỉa gì đến quy định hay dư luận của con người, đến phải hay trái. – Gã thầy lang nhận xét, tự nói với mình mà cũng là muốn nói với chàng mục sư. – Hôm nọ tôi nhìn thấy nó vục nước trong máng ăn gia súc ở đường Spring Lane vẩy vào chính ngài Thống đốc. Ôi! Nhân danh Thượng đế xin hỏi, nó là cái thứ gì vậy? Con tiểu yêu này có phải hoàn toàn là xấu không? Nó có tình cảm không? Nó có một nguyên tắc sống nào mà người ta có thể phát hiện ra được không?
- Không có gì, ngoài tính tự do phát sinh từ một luật lệ bị vi phạm – Dimmesdale bình thản trả lời, như thể bên trong anh của họ đến lúc này đã liên tục diễn ra cuộc tranh luận với chính mình về điều ấy – Nhưng có khả năng trở thành tốt không, thì tôi không biết.
Có lẽ đứa trẻ nghe được tiếng trò chuyện của hai người, vì nó ngẩng lên nhìn vào cửa sổ với một nụ cười bỡn cợt tinh khôn, tươi tắn nhưng nghịch ngợm, rồi ném một bông hoa ngưu bàng vào Dimmesdale. Người giáo sĩ nhạy cảm lùi lại trước viên đạn nhẹ tênh đó với một vẻ thảng thốt. Nhận thấy nét kinh động ấy ở Dimmesdale, bé Pearl vỗ tay reo hò khoái trá. Hester Prynne cũng tự nhiên ngẩng lên. Cả bốn con người, già và trẻ, lẳng lặng nhìn nhau một lúc, của họ đến khi đứa bé cười vang và kêu lên:
- Đi đi, mẹ “Đi đi, kẻo cái ông già đen kia bắt mẹ bây giờ! Ông ta tóm chặt được ông mục sư rồi. Đi đi mẹ, kẻo ông ta bắt mẹ mất! Nhưng ông ta không bắt được bé Pearl đâu!”
Thế là con bé kéo mẹ đi. Nó vừa đi vừa nhảy múa, nô nghịch tai quái giữa những gò đóng chôn người chết, như là một thứ sinh vật không cùng chung một tính chất gì với thế hệ đã qua vùi dưới ba tấc đất ; không thừa nhận mình có mối liên quan gì với những kẻ quá cố đó. Cứ như thể nó, được cấu tạo bằng những nguyên tố hoàn toàn mới, và tất yếu phải được phép có sự sống riêng của nó, tự hình thành một luật lệ của chính nó, những hành động lập dị của nó không bị xem là có tội.
Sau giây lát im lặng, Roger Chillingworth nói tiếp:
- Còn người đàn bà kia, lầm lỗi của chị ta có thể đáng chê trách như thế nào đi nữa, nhưng ở chị ta không có điều bí ẩn của tội lỗi bị che giấu, mà như ngài đã nói, kẻ nào mang nặng trong lòng sẽ vô cùng đau khổ. Theo ý ngài, có phải là Hester Prynne, vì đã mang cái chữ A màu đỏ ấy trên ngực, nên đỡ khổ sở đi không?
- Đích thực là tôi tin như vậy – Người giáo sĩ trả lời – Tuy nhiên, tôi không thể bảo đảm chắc chắn là tâm trạng cụ thể của chị ta như thế nào, trên mặt chị ta có một vẻ đau đớn mà tôi những mong khỏi phải nhìn thấy. Thế nhưng, theo tôi, đối với con người đau khổ, được tự do bộc lộ nỗi đau của mình ra như chị Hester đáng thương này nhất định là tốt hơn giấu kín nó đi trong trái tim mình.
Lại một phút im lặng, rồi người thầy thuốc tiếp tục xem xét và xếp loại các cây cỏ mà gã đã thu hái.
- Khi nãy ngài có hỏi ý kiến tôi về sức khỏe của ngài. – Gã nói.
- Vâng! – Chàng giáo sĩ đáp – tôi sẽ rất vui lòng được nghe ý kiến của ngài. Xin ngài cứ nói thật cho, dù là vấn đề sự sống hay cái chết của tôi.
- Vậy xin phép nói thoải mái và thẳng thắn nhé – Gã thầy thuốc nói, tay vẫn hí hoáy sắp xếp các thứ cây cỏ, nhưng luôn luôn để mắt quan sát Dimmesdale – Bệnh của ngài là một chứng bệnh kỳ lạ ; không phải kỳ lạ ở tự nó, cũng không phải ở những biểu hiện của nó ra bên ngoài – tôi nói thế này là căn cứ ít nhất vào những triệu chứng bộc lộ rõ ràng mà tôi có thể quan sát thấy được. Hàng ngày nhìn ngài, thưa ngài mục sư thân mến, và cho đến nay theo dõi những dấu hiệu trên diện mạo của ngài sau nhiều tháng đã trôi qua, tôi cho rằng ngài ốm khá nặng, có thể như vậy, nhưng không phải ốm đến mức mà một người thầy thuốc giàu kiến thức và tỉnh táo chăm chút lại không thể hy vọng chữa khỏi. tuy nhiên tôi không biết nói thế nào, bệnh của ngài là một cái gì đó mà dường như tôi nhận biết, song lại không thể biết được.
- Ngài nói những lời bí ẩn quá, thưa ngài – Chàng mục sư khuôn mặt tái xanh quay nhìn ra ngoài cửa sổ, trả lời.
- Vậy xin nói rọ hơn – Gã thầy lang tiếp – Và tôi xin ngài thứ lỗi, nếu như có điều gì đó đáng được miễn thứ trong khi tôi cần phải phát biểu thẳng thắn. Với tư cách là một người bạn, một người được Thượng đế giao trách nhiệm bảo vệ sự sống và sức khỏe của ngài t xin phép hỏi là tất cả mọi chi tiết liên quan đến tình trạng đau ốm này đã được ngài thật sự giãi bày cởi mở và kể hết với tôi chưa?
- Sao ngài lại có thể nghi ngờ điều đó? – Chàng mục sư vặn lại – Thật là trò trẻ con nếu cần viện đến thầy thuốc rồi lại giấu chỗ đau của mình đi.
- Vậy là ngài muốn nói rằng tôi đã biết tất cả rồi chứ gì? – Roger Chillingworth khoan thai nói, trong khi đôi mắt gã ngời lên một ánh tinh ranh sắc sảo tập trung nhìn chằm chằm vào giữa mặt chàng mục sư – Thôi cứ cho là như vậy! Nhưng mà lại thế này cơ! Nếu ông thầy thuốc chỉ được người bệnh bộc lộ cho thấy cái đau bề ngoài của phần thể chất thì thường chỉ biết được một nửa cái đau mà người ta yêu cầu mình chạy chữa. Một chứng bệnh của thể xác, mà chúng ta xem như tự nó đã là một thể hoàn chỉnh trọn vẹn, xét cho cùng có thể chỉ là triệu chứng của một bệnh hoạn nào đó trong phần hồn. Lần nữa xin ngài thứ lỗi, ngài mục sư quý mến, nếu ý kiến của tôi có chút gì đó có thể làm mếch lòng. Trong số tất cả những người tôi từng quen biết, ngài là kẻ mà phần thể xác gắn chặt nhất, thấm đậm, có thể nói là đồng nhất với phần hồn mà thể xác ấy là công cụ.
- Thế thì tôi chẳng cần phải hỏi gì thêm – Người giáo sĩ vừa nói, vừa hơi vội vã xô ghế đứng bật dậy – Theo tôi hiểu, ngài chẳng liên quan gì đến việc chữa bệnh cho phần hồn!
- Và vậy là – Roger Chillingworth nói tiếp với giọng không đổi, không màng chú ý đến sự ngắt lời của Dimmesdale, nhưng cũng đứng lên, cái dáng hình thấp bé, đen tối và méo mó của gã đối mặt với chàng mục sư gầy guộc, nước da xanh tái – Và vậy là một bệnh hoạn nào đó, một chỗ đau, nếu ta có thể gọi như vậy, trong tâm hồn ngài, và sẽ lập tức phát lộ ra thành một biểu hiện tương ứng với nó trên phần thể xác của ngài. Vậy ngài có muốn người thầy thuốc của ngài chữa khỏi cái đau thể xác ấy không? Làm sao có thể thực hiện được điều này nếu trước tiên ngài không bộc bạch ra cho người thầy thuốc ấy vết thương hay căn bệnh trong linh hồn của ngài?
- Không! Không phải cho nhà ngươi! Không phải cho một tên thầy thuốc trần tục! – Dimmesdale sôi sục kêu lên, đôi mắt anh quắc lên sáng rực và dữ tợn nhìn thẳng vào lão già Roger Chillingworth – không bộc bạch cho người! Nếu đó là một bệnh của linh hồn, thì ta sẽ giao phó bản thân ta cho người thầy thuốc duy nhất chữa linh hồn. Nếu phù hợp với ý muốn của Người, Người có thể chữa cho, hoặc Người có thể giết đi. Hãy để Người quyết định số phận của ta, theo cách mà Người cho là đúng, hợp lẽ công bằng và đạo lý của Người. Nhưng còn ngươi, ngươi là ai, mà can thiệp vào giữa kẻ đau khổ và Đức Chúa của người ta?
Với thái độ điên cuồng, anh lao ra khỏi căn phòng:
- Đã đi tới nước này thì cũng là tốt – Roger Chillingworth tự nói với mình, trong khi gã nhìn chàng mục sư với một nụ cười thâm hiểm – Chẳng có gì mất mát. Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ trở lại là bạn bè của nhau thôi mà. Nhưng thế đấy, anh chàng này dễ xúc cảm sôi sục và dễ mất bình tĩnh biết nhường nào! Đã thế với một sự sôi sục này thì lại cũng thế với một sự sôi sục khác mà thôi. Hắn ta đã làm một điều ngông cuồng, cái anh chàng Dimmesdale ngoan đạo này, vì cái tính dễ xúc cảm của hắn.
Thực tế đã chứng tỏ là không có gì khó khăn trong việc lập lại mối quan hệ thân tình giữa hai người, trên cùng một cơ sở như trước đây và với cùng một mức độ mật thiết như vậy. Chàng mục sư trẻ, sau một vài giờ ngồi trong phòng riêng tĩnh trí lại, đã ý thức được rằng tình trạng thần kinh rối loạn đã khiến anh quá vội nổi xung lên một cách thật bất lịch sự, mà trong lời lẽ của người thầy thuốc không có gì để viện ra làm lý do bào chữa hoặc giảm nhẹ lỗi thất thế của anh được. Quả thật anh cũng lấy làm ngạc nhiên là làm sao mình lại có thái độ cự tuyệt hung dữ đến thế đối với ông già tốt bụng, khi mà ông ta chỉ hiến m lời chỉ bảo theo đòi hỏi của bổn phận, lời chỉ bảo mà chính anh rõ ràng đã yêu cầu. Với những cảm nghĩ đầy hối hận như vậy, không một chút chậm trễ, anh đã sang ông bạn láng giềng hết lòng tạ lỗi, và cầu xin ông ta hãy cứ tiếp tục chăm nom cho anh, sự chăm nom ấy dẫu cho không thể phục hồi lại sức khỏe cho anh, cũng rất có thể là biện pháp kéo dài được sự sống mỏng manh của anh cho đến giờ phút vô phương cứu chữa đó. Roger Chillingworth sẵn lòng đồng ý ngay, gã lại tiếp tục công việc theo dõi sức khỏe chàng mục sư. Gã làm hết sức mình với thái độ hoàn toàn thiện ý, nhưng mỗi lần rời khỏi căn buồng người bệnh khi kết thúc một cuộc thăm hỏi, bao giờ trên môi gã cũng hiện ra một nụ cười bí ẩn và nghi hoặc. Nụ cười ấy không hề lộ ra trước mặt Dimmesdale, nhưng hiển hiện thật rõ ràng khi gã vừa bước qua ngưỡng cửa.
- Trường hợp hiếm có! – Gã lầm bầm – Nhất thiết ta phải dò sâu thêm. Một sự giao cảm kỳ lạ giữa linh hồn và thể xác! Cho dù đây chỉ là để nâng cao học thuật, ta cũng phải xem xét thật thấu đáo vấn đề này.
Thế rồi một hôm, không lâu sau khi xảy ra sự việc trên đây, vào một buổi trưa hè, Đức Cha Dimmesdale đang ngồi trên chiếc ghế bành đọc sách thì chợt ngủ thiếp đi lúc nào không biết, một giấc ngủ sâu li bì, cuốn sách lớn chữ đen mở ra trên bàn trước mặt. Chắc hẳn đó la một tác phẩm đặc biệt thành công trong trường phái văn chương gây buồn ngủ. Giấc ngủ say này của chàng mục sư lại càng là một điều đặc biệt bởi lẽ anh thuộc loại người thông thường tỉnh ngủ, giấc chập chờn rất dễ bị xua đi như con chim nhỏ cảnh giác trên cành. Tuy nhiên, lúc này tâm linh của anh lại bất thường rút vào bên trong sâu đến nỗi anh vẫn li bì không hề nhúc nhích khi lão Roger Chillingworth, theo cung cách như mọi ngày, không có sự thận trọng dè chừng gì đặc biệt, bước vào phòng.
Lão thầy lang tiến đến, đi thẳng lại trước mặt người bệnh, đặt tay lên ngực anh. Rồi gã vạch mép áo của anh ra nhìn vào bên trong ngực, mà cho đến nay áo luôn luôn che kín không để cho ngay cả con mắt thầy thuốc của gã nhìn được.
Lúc đó, quả là Dimmesdale có rùng mình và khẽ động đậy.
Sau khi dừng lại một tí, lão thầy lang quay ra.
Ôi, nhưng lão quay ra với một vẻ kinh ngạc, vui mừng và ghê sự trộn lẫn trông thật man rợ làm sao! Một vẻ đắc thắng mê ly đến tái người đi như xác chết, có thể cho là như vậy, một sự khoái trá cuồng nhiệt đến nỗi nếu chỉ biểu lộ ra qua đôi mắt và nét mặt thì chưa đủ, nên đã phải bùng ra toàn bộ những nét xấu xí trên hình thể của ga, thậm chí đã được diễn đạt ra rõ ràng bằng những động tác điên loạn: vung tay lên trời, giậm chân xuống đất. Nếu có kẻ nào nhìn thấy Roger Chillingworth lúc này trong cơn mê ly của gã, hẳn kẻ đó sẽ chẳng cần phải hỏi là thái độ của Quỷ Xa tăng như thế nào khi có một linh hồn quý giá của con người không lên được thiên đường mà bị rơi vào địa ngục của hắn.
Nhưng điểm phân biệt giữa gã với Quỷ Xa tăng là cơn mê ly của gã lại có một nét kinh ngạc ở trong đó.
Chú thích:
(1) John Bunany (1628 – 1688), một nhà văn Anh theo thuyết thần bí, tác giả cuốn “Chuyến đi của người hành hương” (The Pilgrim’s Progress), là một tác phẩm phúng dụ nổi tiếng ở nước Anh, mô tả cuộc đấu tranh của người tín đồ Cơ đốc chống tội lỗi.