Chương 12 Đêm Thức Của Chàng Mục Sư
Như bước đi trong bóng tối mờ ảo của một giấc mơ, hay có lẽ thực sự đang chìm đắm trong một loại trạng thái miên hành, mục sư Dimmesdale đi tới một nơi mà, cách đây khá lâu rồi, Hester Prynne đã trải qua những giờ phút đầu tiên gánh chịu nỗi ô nhục trước công chúng. Cũng cái bục bêu – đoạn đầu đài - ấy, đã xám xịt đi vì dãi nắng dầm mưa qua bảy năm ròng rã, và cũng bị mòn đi dưới bước chân của nhiều kẻ tội phạm khác đã kế tiếp leo lên đó kể từ ngày ấy, cũng cái bục bêu xưa, nay vẫn còn đó, dưới ban công nhà thờ. Chàng mục sư bước tới, leo lên các bậc.
Ấy là một đêm tối trời, đầu tháng năm. Một tấm màn mây mênh mang giăng ngang không biết mệt mỏi bịt kín toàn bộ bầu trời từ thiên đình xuống tận chân trời. Nếu cũng đám mây đã từng đứng chứng kiến cảnh Hester Prynne bị trừng phạt hôm ấy bây giờ lại có thể được triệu tập đến đây, thì chắc là nó sẽ không thể phân biệt ra khuôn mặt của ai đứng trên bục, mà cũng khó phân biệt được dáng hình của một con người trong bóng tối mịt mù giữa lúc nửa đêm này. Nhưng toàn thành phố đang ngủ say. Không có nguy cơ bị phát hiện. Chàng mục sư có thể cứ đứng đấy, nếu anh muốn, cho đến khi vừng hồng ửng sáng ở đằng đông, mà không có một điều mạo hiểm nào khác trừ phi bị không khí ẩm ướt và lạnh giá ban đêm nhiễm vào cơ thể, khiến các khớp tê cứng đau nhức vì phong thấp và cổ nghẹt tắc vì viêm họng và ho, và như vậy sẽ làm thất vọng cử tọa đầy nhiệt tình mong đợi trong buổi lễ cầu kinh và giảng đạo ngày mai. Đêm nay không kẻ nào có thể trông thấy anh, trừ một con người luôn cảnh giác theo dõi anh, trước đây đã nhìn thấy anh trong buồng riêng vung chiếc roi dính máu tự quất mình.
Vậy thì tại sao anh lại đến đây? Có phải chỉ là một trò giả sám hối? Một trò giả tạo, quả như vậy thật, nhưng trong cái trò này linh hồn anh tự đùa cợt nhạo báng mình. Một trò giả tạo khiến cho các thiên thần xấu hổ phát khóc, còn lũ ma quỷ thì lại hoan hỉ cười chế giễu! Anh đã bước chân đến đây do sự thôi thúc của Lòng Hối Hận đã nhằng nhẵng bám theo anh khắp nơi, nhưng đồng thời Sự Hèn Nhát là chị em bầu bạn luôn đi cùng với nó bao giờ cũng lại cứ níu kéo anh lại, run run túm chặt lấy anh, đúng vào lúc sự thôi thúc kia đẩy anh đến chỗ suýt thú nhận ra tội lỗi của mình. Ôi con người tội nghiệp khốn khổ! Một tính chất ốm yếu như anh sao lại khoác lên mình gánh nặng của tội lỗi? Tội lỗi là để cho những kẻ có bộ thần kinh cứng như sắt chuốt lấy, những kẻ có khả năng lựa chọn một trong hai cách, hoặc là rán mà cam chịu, hoặc là, nếu cái gánh ấy đè quá nặng, thì sử dụng sức mạnh dữ dội và man rợ của họ mà lập tức tống khứ nó đi cho thoát nợ. Cái tinh thần yếu đuối và nhạy cảm số một này không thể thực hiện được cách nào trong hai cách đó, thế nhưng lại cứ liên tục làm theo cách này hoặc cách nọ, hai cách cứ rối bời xoắn vào nhau, trong cùng một cái nút buộc không thể gỡ ra được, nỗi đau khắc khoải vì mắc tội thách thức Thượng đế và lòng ăn năn hão.
Và như vậy, trên đoạn đầu đài, trong cuộc đứng ra chuộc tội thật hão huyền này, Dimmesdale thấy đầu óc mình tràn ngập một nỗi ghê rợn khủng khiếp, như thể tất cả thiên hạ đều đang nhìn chằm chặp vào một cái dấu đỏ tươi trên bộ ngực phanh trần của mình, ngay đúng chỗ trái tim. Thực sự là, đúng ở chỗ này, anh hiện cảm thấy rõ, cũng như đã luôn luôn cảm thấy từ lâu, hàm răng độc của nỗi đau cắn xé và gậm nhấm trên thể xác anh. Anh thốt thét lên một tiếng lớn, không một cố gắng nào của ý chí mà cũng không có một sức mạnh nào bên trong anh giúp anh tự kiềm chế được: một tiếng thét rung chuyển ngân dài qua màn đêm, va đập vào các bức tường hất trở lại từ nhà này sang nhà khác, và vang dội lại từ những đồi núi ở phía sau xa ; nghe như thể một bầy ma quỷ, phát hiện thấy biết bao khổ não và kinh hãi trong tiếng kêu đó, đã dùng nó làm một đồ chơi ném qua vứt lại giữa chúng với nhau.
- Thế là xong! – Chàng mục sư thì thào, hai tay bưng lấy mặt – Toàn thành phố sẽ thức dậy và đổ xô tới, và nhìn thấy ta ở đây!
Thế nhưng không xảy ra điều đó. Có lẽ đôi tai hoảng hốt của anh đã nghe thấy tiếng thét ấy của mình vang động với một sức mạnh lớn hơn rất nhiều so với cường độ thực của nó. Người trong thành phố không thức dậy ; hoặc nếu có thức dậy, thì những kẻ đang lơ mơ trong giấc ngủ hẳn đã nhầm tưởng tiếng kêu ấy là tiếng ai đó rú lên trong một cơn ác mộng, hoặc tiếng những mụ phù thủy mà thời đó người ta thường nghe vang lên bên trên những khu định cư hoặc những túp nhà nhỏ hiu quạnh, trong khi chúng cùng Quỷ Xa tăng bay lướt qua trên không. Bởi vậy, chàng giáo sĩ không nghe thấy một triệu chứng gì náo động khiến phải lo âu. Anh bỏ tay ra, mở mắt nhìn xung quanh. Trong một khung cửa sổ của dinh thự Thống đốc Bellingham trên một đường phố khác cách đó một quãng, anh nhìn thấy hình dáng viên thống đốc già, tay cầm một cây đèn, đội một cái mũ ngủ màu trắng và mặc một áo choàng dài cũng màu trắng. Trông ông ta giống như một hồn ma bị gọi từ dưới mồ lên không đúng lúc. Rõ ràng là tiếng thét đã làm ông ta giật mình thức dậy. Ở một cửa sổ khác, cũng của tòa dinh thự ấy, xuất hiện mụ già Hibbins em gái viên thống đốc, cũng cầm một cây đèn. Tuy ở một khoảng cách xa đến thế, vẫn có thể nhìn thấy dưới ánh đèn vẻ mặt cau có và bất bình của mụ. Mụ thò đầu ra khỏi khung cửa sổ mắt cáo, băn khoăn nhìn lên trời. Thật không chút mảy may hồ nghi gì nữa, bà lão phù thủy đáng kính này chắc chắn cũng đã nghe thấy tiếng thét của Dimmesdale, và bằng vào những tiếng vang dội râm ran của nó, bà ta hẳn đã cho rằng đó là tiếng la hét của lũ ma quỷ và yêu tinh, mà mọi người đã biết rõ là bà ta thường đi cùng trong những cuộc dạo chơi trong rừng.
Sực nhận thấy ánh sáng hắt ra từ ngọn đèn của Thống đốc Bellingham, mụ già vội tắt đèn của mình rồi biến mất. Có thể là mụ ta đã bay lên các tầng mây. Chàng mục sư không còn nhìn thấy động tĩnh gì của mụ nữa. Còn viên thống đốc, thì sau khi cảnh giác thận trọng quan sát trong bóng đêm – tuy nhiên chắc ngài cũng chỉ nhìn thấy xa hơn chóp mũ của mình được tí chút – ngài rút lui khỏi khung cửa sổ.
Chàng mục sư đã trở lại tương đối bình tĩnh. Nhưng chẳng mấy chốc mắt anh lại bắt gặp một ánh đèn nhỏ chập chờn, thoạt tiên nhấp nháy từ một nơi rất xa, rồi dần dần tiến đến, trên đường phố. Nó tỏa ra một vùng sáng nhỏ di động, soi rọi ở đây một cái cột, kia một mảng hàng rào, đây một cánh cửa sổ mắt cáo, lại kia một máy bơm nước chảy xối xả, đây nữa một khung cửa vòm bằng gỗ sồi với một cái búa sắt để gõ cửa và một khúc gỗ xù xì dùng làm ngưỡng. Dimmesdale để ý nhận thấy tất cả mọi chi tiết tỉ mỉ ấy, mặc dù trong lúc này anh tin chắc rằng phút phán quyết cuối cùng của cuộc đời anh sắp điểm, đang âm thầm tiến tới kia, cùng với tiếng bước chân đi lại gần mà bây giờ anh đã nghe rõ ; rằng ánh sáng ngọn đèn xanh kia chỉ trong chốc lát nữa thôi sẽ chiếu vào anh và phát giác điều bí mật từ lâu vẫn dấu kín của anh. Ánh đèn tiến đến gần hơn. Và anh nhận ra, trong vùng sáng của nó, vị giáo sĩ anh em – hay nói cho chính xác hơn, người cha, đồng thời là người bạn đồng nghiệp rất đỗi quý trọng của anh – Đức Cha Wilson. Bây giờ thì Dimmesdale phỏng đoán rằng vị giáo sĩ này hẳn vừa mới cầu nguyện bên giường một người nào đó hấp hối. Quả đúng như vậy. Người mục sư già đức hạnh vừa rời khỏi căn buồng chết của Thủ hiến Winthrop, vị này đã lìa trần lên thiên giới cũng chính trong giờ này. Và bây giờ Đức Cha Wilson đang trở về nhà. Bao quanh người, giống như hình ảnh bậc thánh sống thời xưa, là một vầng hào quang tỏa sáng, tôn niềm vinh dự cho người giữa nền âm u ám tội lỗi này – như thể vị thủ hiến quá cố đã để lại cho người một di sản của ơn phước vĩnh hằng nơi cực lạc, hoặc như thể người đã đón nhận được luồng ánh sáng từ cõi thiên đường xa xăm rọi xuống bản thân mình trong khi người ngước mặt về phía đó để nhìn theo kẻ hành hương thoát kiếp trầm luân thắng lợi đang bước qua cổng trời – nói tóm lại, bây giờ Đức Cha Wilson đức hạnh đang trở về nhà, dưới ánh sáng soi đường của một ngọn đèn xách! Chính ánh chập chờn của vật tỏa sáng này đã gợi lên cho Dimmesdale những hình tượng kỳ diệu trên đây, và anh mỉm cười – không, anh suýt cười to lên – nhạo báng những hình tượng ấy, nỗi kinh ngạc tự hỏi không rõ mình có phải sắp phát điên lên không.
Khi Đức Cha Wilson đi qua bên cạnh đoạn đầu đài, một tay giữ chặt chiếc áo choàng quấn quanh người, tay kia nâng chiếc đèn xách ngang ngực, Dimmesdale hầu như không thể kìm nổi mình thốt lên tiếng nói:
- Chào ngài giáo hữu Đức Cha Wilson kính mến. Xin mời ngài lên đây, cùng tận hưởng với tôi một giờ khắc thật là thú vị!
Trời đất quỷ thần ơi! Dimmesdale có thực sự nói lên như vậy không? Trong thoáng chốc, anh tưởng chừng như những lời ấy đã bật ra khỏi môi mình. Nhưng thật ra chúng chỉ mới được phát lên trong trí tưởng tượng của anh. Đức Cha Wilson tiếp tục chậm rãi bước tới phía trước, đưa mắt thận trọng nhìn xuống lối đi bùn lầy trước chân mình, và không một lần quay mặt nhìn về phía cái bục bêu tội lỗi. Khi ánh chập chờn của ngọn đèn xách đã hoàn toàn biến mất tự dưng cảm thấy mình bải hoải muốn xỉu đi, Dimmesdale mới sực nhận thấy những giây phút ngắn ngủi vừa qua là cả một cơn khủng hoảng khắc khoải ghê gớm biết chừng nào, mặc dù đầu óc anh đã tự phát cố gắn giải tỏa sự căng thẳng cho mình bằng một lối đùa giỡn thật kinh khiếp.
Chỉ một chốc lát sau, cũng cái ý thức hài hước đáng ghê sợ ấy lại lần nữa len vào giữa những ảo tượng trang nghiêm trong suy nghĩ của anh. Anh cảm thấy chân tay tê cứng lại bởi cái giá lạnh khác thường đêm nay, và anh tự hỏi không biết rồi mình có thể bước trở xuống các bậc của đoạn đầu đài này được hay không nữa. Trời sẽ sáng, và anh sẽ vẫn đứng chết lặng lồ lộ ra ở đây. Cả vùng lân cận xung quanh sẽ bắt đầu thức dậy. Kẻ thức giấc đầu tiên bước ra ngoài, trong ánh sáng lờ mờ sẽ phát hiện ra một hình thù không xác định rõ sừng sững trên cái bục ô nhục ; cuống quýt lên phần vì hoảng sợ, phần vì tò mò nóng lòng muốn biết đó là cái gì, người ấy sẽ đi gõ hết cửa này đến cửa khác, gọi tất cả mọi người ra mà xem hồn ma của một kẻ tội phạm nào đó đã chết – nhất thiết người ấy cho là như vậy. Sự xôn xao như một bóng chim hắc ám vỗ cánh bay từ nhà này sang nhà khác. Rồi thì, trong khi ánh bình minh rạng dần, các bậc lão thành sẽ vội vã vùng dậy, mặc nguyên chiếc áo nỉ lùng thùng, cùng các bà mệnh phụ, không kịp nán lại thay bộ đồ ngủ. Toàn bộ tập đoàn những nhân vật lịch sự đoan trang, cho đến nay chưa bao giờ xuất hiện ra chỗ công cộng với một sợi tóc nào không ngay ngắn trên đầu, sẽ hối hả chạy ra trước công chúng với cái bề ngoài bừa phứa rối loạn trong cơn ác mộng. Vị thống đốc già Bellingham sẽ bước ra khỏi nhà với thái độ dữ dội, chiếc cổ áo xếp nếp kiểu cũ thời Vua James cài lệch, đàng sau là mụ Hibbins, với vài nhánh cây con trên rừng còn bám vào váy, trông mụ có vẻ cáu kỉnh hơn bao giờ hết, như thể mụ chưa chợp mắt được tí nào sau cuộc đi rông ban đêm ; và có cả Cha Wilson đức hạnh cũng đến, sau khi đã thức hết nửa đêm bên giường người chết, nay lại không may bị đánh thức dậy sớm đến thế, cắt đứt mất một giấc mơ đẹp về những bậc hiền thành được vinh quang đời đời. Trong đám đông kéo đến đây còn có những vị cao niên và các trợ tế trong giáo khu của Dimmesdale, và những cô gái đồng trinh đã xiết bao tôn sùng người mục sư của mình, lập điện thờ anh ngay trong lòng ngực trinh trắng, bộ ngực mà trong lúc này vì vội vã và bối rối các cô hầu như không đủ thì giờ che lại bằng chiếc khăn tay của mình. Tóm lại, tất cả mọi người sẽ chạy ra, vội đến vấp cả chân vào ngưỡng cửa, đến đây quanh đoạn đầu đài ngước những khuôn mặt sửng sốt và ghê rợn nhìn lên. Họ sẽ phát hiện thấy ai ở kia, vầng trán đỏ bừng dưới ánh mặt trời đàng đông chiếu rọi? Còn ai nữa, nếu không phải là Đức Cha Arthur Dimmesdale, gần như đã chết cóng, gục đầu tê tái vì hổ nhục, đang đứng ngay ở chỗ mà trước kia Hester Prynne đã đứng!
Bị lôi cuốn theo bức tranh tưởng tượng ghê rợn lố bịch ấy, chàng mục sư vô tình phá lên cười lớn, làm cho chính anh vô cùng hoảng sợ. ngay lập tức, một tiếng cười đáp lại, một tiếng cười trong trẻo khanh khách của trẻ thơ. Tim anh run lên – vì đau buốt hay vì vui mừng đột ngột, anh cũng chả biết – bởi anh nhận ra giọng của bé Pearl!
- Pearl! Bé Pearl! – Anh kêu lên sau một giây ngập ngừng. Rồi hạ thấp giọng;
- Hester! Hester Prynne! Cô đấy ư?
- Vâng! Hester Prynne đây! – Tiếng chị trả lời, kinh ngạc. Và anh nghe thấy tiếng chân chị từ ngoài vỉa hè, mà chị đang đi dọc theo, bước vào, tới gần. – Em đây! Và cả bé Pearl.
- Em từ đâu đến? – Chàng mục sư hỏi – Cái gì đã xui khiến em tới đây?
- Em đã thức cạnh bên giường một người hấp hối – Hester Prynne trả lời – bên giường Thủ hiến Winthrop vừa qua đời, và em đã đo để may một chiếc áo khâm liệm cho người. Bây giờ em đang trở về nhà.
- Lên đây, Hester, em và cả bé Pearl – Dimmesdale nói – Hai mẹ con trước kia đã đứng đây, nhưng không có tôi bên cạnh. Lên đây một lần nữa em, và cả ba ta cùng đứng với nhau.
Chị cầm một tay bé Pearl, lẳng lặng leo các bậc lên đứng trên bục. Chàng mục sư dò tìm bàn tay kia của đứa trẻ và nắm lấy. Anh vừa cầm tay nó thì dường như một sự sống mới mẻ, một sự sống khác với sự sống của bản thân anh, lập tức xôn xao ào vào trái tim anh như một dòng nước lũ, và hối hả chảy cuồn cuộn qua mọi huyết quản trong người anh, như thể người phụ nữ và đứa trẻ này đang truyền hơi nóng sinh khí sang cơ thể gần như đã đờ đẫn mê mụ của anh. Cả ba người hình thành một mạch điện nối liền.
- Ông mục sư! – Bé Pearl thì thầm.
- Gì hở con? – Dimmesdale hỏi.
- Trưa mai ông có đứng đây với mẹ và cháu không?
- Không, không đâu, bé Pearl ạ - Chàng mục sư trả lời, bởi cùng với luồng sinh khí mới bừng lên lúc này, đã trở lại với anh tất cả nỗi kinh hãi lo sợ điều bí mật của anh bị phơi bày ra trước công chúng, nỗi kinh hãi ấy đã bao lâu làm cuộc sống anh đau đớn khắc khoải ; và trong cuộc hội ngộ này, dẫu cho anh cảm thấy một niềm vui kỳ lạ, anh đã lại run sợ - Không đâu, con ạ! Một ngày nào đó sau này, quả thực ta sẽ cùng đứng với mẹ con và con, nhưng ngày mai thì không!
Pearl cất tiếng cười và định rút tay ra, nhưng chàng mục sư giữ chặt.
- Nán một lát nữa, con – Anh nói.
- Nhưng ông có hứa là trưa mai, ông sẽ nắm tay cháu và nắm tay mẹ không? – Pearl lại hỏi.
- Không phải ngày mai – Chàng mục sư nói – Mà một lúc khác.
- Lúc khác là lúc nào? – Đứa bé gặng hỏi.
- Ngày phán quyết cuối cùng – Chàng mục sư thì thào ; kỳ lạ thay, ý thức mình là một nhà giảng đạo chuyên nghiệp giáo dục chân lý đã thúc đẩy anh trả lời đứa bé như vậy – Lúc ấy, và ở đây, trước tòa án ấy, mẹ con, con, và ta phải cùng đứng với nhau. Nhưng ánh sáng ban ngày của thế giới này nhất định sẽ không nhìn thấy cuộc họp mặt ấy của chúng ta.
Pearl lại cất tiếng cười.
Nhưng trước khi Dimmesdale dứt lời, một luồng ánh sáng bỗng lóe lên, bừng ra xa và rộng khắp trên toàn bộ bầu trời đầy mây ủ kín. Không có gì phải nghi hoặc, đó chỉ là ánh sáng của một trong những ngôi sao băng mà người thức đêm thường hay nhìn thấy bùng cháy rực rỡ rồi tàn đi giữa những khoảng trống trên tầng cao bầu khí quyển. Ánh sao sa chói lọi đến nỗi nó chiếu rọi khắp khối mây dày đặc nằm xen giữa đất với trời. Vòm trời rộng lớn rạng rỡ như cái chao của một ngọn đèn vĩ đại. Nó soi khung cảnh quen thuộc trên đường phố trông rõ như giữa ban ngày, nhưng đồng thời cũng khoác lên cảnh vật ấy một vẻ rùng rợn ; dưới một thứ ánh sáng khác thường, những vật vốn đã rất quen thuộc bao giờ cũng mang cái vẻ kỳ quái ghê rợn như vậy. Những ngôi nhà gỗ, với những tầng gác thò ra và những chóp đầu hồi kỳ quặc ; những ngưỡng cửa cỏ mọc lún phún xung quanh ; những mảnh đất vườn mới xới từng mảng đen kịt ; con đường hằn vết bánh xe nhưng ít người qua lại ; và ngay cả quảng trường họp chợ hai bên có bãi cỏ xanh – tất cả đều rõ ràng minh bạch, nhưng trông có một vẻ đặc biệt, cái vẻ ấy dường như tạo ra cho mọi vật trong thế giới này một ý nghĩa tinh thần khác hẳn với bất kỳ lúc nào trước đây. Và trong khung cảnh ấy, kia chàng mục sư đang đứng trên bục, bàn tay đè lên tim ; và Hester Prynne, với chữ A màu đỏ viền đường thêu lấp lánh giữa ngực ; và bé Pearl, bản thân cũng là một biểu tượng, và là mối dây nối liền hai người kia. Họ đứng đấy, trong lúc vừng ánh sáng chói lọi kỳ lạ và trang nghiêm hơn lóe lên rạng rỡ, như thể đó là thứ ánh sáng sẽ phải làm bộc lộ ra mọi điều bí mật, là ánh bình minh sẽ nhất định hợp nhất lại tất cả những kẻ thuộc về nhau.
Có một cái gì đó như ma thuật trong đôi mắt của bé Pearl: và trong khi nó ngước mắt liếc lên nhìn mục sư Dimmesdale, trên mặt nó lại xuất hiện nụ cười mỉm nghịch ngợm tai ác thường tạo ra cho nó cái vẻ xiết bao tinh quái. Nó rút tay ra khỏi bàn tay Dimmesdale, và trỏ sang bên kia đường. Nhưng chàng mục sư chắp cả hai tay trước ngực, ngẩng đầu lên Thiên đỉnh.
Thời ấy không có gì phổ biến bằng cái lối giải thích cho rằng tất cả các biểu hiện khí tượng và những hiện tượng tự nhiên khác xuất hiện thất thường không nhịp độ điều đặn như mặt trời mặt trăng mọc lên lặn xuống, là bấy nhiêu điều tiết lộ từ một nguồn siêu nhiên báo trước một cái gì đó. Theo lối giải thích ấy, một ngọn giáo rực sáng, một thanh gươm lửa, một cánh cung hoặc một bó mũi tên nhìn thấy trên trời vào lúc nửa đêm đều là dấu hiệu báo trước sẽ có chiến tranh với người da đỏ. Người ta đều biết rằng bệnh dịch hạch được dự báo bằng một trận mưa ánh sáng màu đỏ thắm. Chúng tôi thật nghi hoặc không rõ có bao giờ xảy ra một sự kiện nào đó nổi bật dù tốt hay xấu ở nước Niu Inglơn từ ngày bắt đầu thành lập cho đến thời kỳ cách mạng, mà dân chúng lại không được báo trước bởi một điểm gì đó của thiên nhiên không? Không phải là hiếm khi quần chúng nhìn thấy những điều như vậy. Nhưng trường hợp phổ biến hơn, là người ta tin vào một kẻ nào đó là một mình mục kích, nhằm ngắm hiện tượng kỳ lạ qua môi giới của đầu óc tưởng tượng tô màu phóng đại và bóp méo của anh ta, rồi sau đó suy nghĩ tạo hình cho nó rành mạch hơn. Quả thật là một ý niệm cao siêu khi người ta cho rằng vận mệnh của các dân tộc nhất định phải được tiết lộ lên trên vòm trời bằng những thứ chữ tượng hình lạ lùng ấy. Thượng đế chắc hẳn đã không cho rằng việc dùng một cuộn giấy rộng như vậy để viết số phận một dân tộc lên trên đó là quá hoang phí. Các tổ tiên của chúng ta đã thích nuôi trong lòng một niềm tin như vậy, bởi nó chỉ rõ là khối cộng đồng đang thời trứng nước của họ được đặt dưới sự bảo vệ đặc biệt nghiêm ngặt và ân tình của Thượng đế. Nhưng chúng ta sẽ nói sao, khi mà một cá nhân nào đó, phát hiện ra một điều tiết lộ, chỉ tiết lộ ra riêng cho bản thân anh ta thôi, mà cũng viết trên cùng một tờ cáo bạch mênh mông ấy? Trong trường hợp này, chỉ có thể là triệu chứng của một tình trạng rối loạn tâm thần nặng, khi mà một người, bị một nỗi đau lâu dài nhức nhối và thầm kín dẫn tới trạng thái nhập định trầm tư mang tính chất bệnh hoạn, đã mở rộng cái tôi của mình ra toàn bộ thiên nhiên rộng lớn, đến mức xem cả bầu trời chẳng khác gì một trang giấy thích hợp để ghi lên đó lịch sử và số phận của riêng linh hồn mình.
Chàng mục sư, trong khi ngước mắt nhìn lên thiên đỉnh, thấy hiện ra ở đấy một chữ cái rất lớn – một chữ A – hình thành bằng những nét ánh sáng đã mờ đục. Chúng tôi, như đã phân tích trên đây, cho rằng đó chẳng qua chỉ là do tình trạng bệnh hoạn trong đôi mắt nhìn và trái tim của bản thân anh thôi. Có thể là ngôi sao băng đã cháy bùng lên ở chỗ ấy, ánh sáng lạc qua màn mây, nhưng không có hình dạng như đầu óc trĩu nặng tội lỗi của anh đã tưởng tượng ra, hoặc ít nhất là hình dạng của nó cũng mơ hồ, khó xác định đến nỗi một kẻ tội lỗi khác lại có thể hình dung nó ra thành một biểu tượng khác.
Trạng thái tâm lý của mục sư Dimmesdale lúc này đang ở trong một tình huống thật là đặc biệt. Trong khi ngước mắt đăm đăm nhìn lên thiên đỉnh, anh vẫn hoàn toàn biết rõ là bé Pearl đang chỉ tay sang bên kia trỏ vào lão Roger Chillingworth đang đứng cách đoạn đầu đài một quãng không xa. Chàng mục sư hình như nhìn thấy lão cũng bằng cái nhìn đã khiến anh hình dung ra chữ A kỳ lạ kia trên bầu trời. Cũng như đối với mọi vật thể khác, ánh sáng ngôi sao băng đã khoác lên những nét mặt của lão một vẻ khác lạ ; hoặc cũng rất có thể là lúc này gã thầy thuốc không thận trọng như mọi lần khác, không lưu ý che giấu ác ý trong đôi mắt lão nhìn đối tượng của mình. Chắc chắn rằng, nếu như ngôi sao băng kia đốt rực bầu trời và làm bộc lộ cả trần gian ra một cách khủng khiếp báo hiệu cho Hester Prynne và chàng giáo sĩ biết là đã đến ngày phán quyết cuối cùng, thì hẳn là Roger Chillingworth sẽ được họ coi như là quỷ Xa tăng đứng đó với một nụ cười và vẻ cau mày đe dọa để đòi phần của hắn. Cái vẻ đó trên mặt lão thầy thuốc thật là quyết liệt, hoặc có thể là nó tác động đến cân não của chàng mục sư một cách thật là dữ dội, đến nỗi sau khi ngôi sao băng đã tắt, vẻ mặt ấy dường như vẫn còn tồn tại in đậm lên bóng đêm, lấn át tất cả như thể đường phố kia và mọi thứ khác cùng một lúc đều tan biến hết.
- Kẻ đó là ai thế, Hester? – Dimmesdale hổn hển hỏi, thất đảm kinh sợ - Hắn làm tôi rùng mình! Cô có biết hắn là ai không? Tôi căm ghét hắn, Hester!
Chị nhớ tới lời thề của mình, và nín lặng.
- Tôi xin nói em rõ, linh hồn tôi run lên khi giáp mặt hắn – Chàng mục sư lại thì thào – Hắn là ai? Hắn là ai? Em không giúp gì được cho tôi sao? Hắn gây cho tôi một cảm giác ghê rợn không thể tả xiết.
- Ông mục sư! – Bé Pearl nói – Cháu có thể nói cho ông biết lão ấy là ai!
- Ôi thế à! Nói đi! Bé! Nhanh lên! – Chàng mục sư cúi xuống, ghé tai vào mồm bé – Nói nhanh lên, và nói thầm thật khẽ vào.
Pearl thì thầm vào tai anh điều gì đó, nghe thì giống như ngôn ngữ con người, nhưng thực ra thì chỉ là thứ câu kệ lắp bắp vô nghĩa chả đâu vào đâu mà người ta có thể nghe bọn trẻ con lẩm bẩm đến hàng giờ để tiêu khiển. Dù thế nào đi nữa, nếu như những lời ấy quả có chứa đựng một thông tin bí mật nào đó về lão Roger Chillingworth, thì nó cũng phát ra bằng một thứ ngôn ngữ xa lạ mà nhà giáo sĩ thông thái không thể hiện nỗi, và chỉ làm cho đầu óc của anh lại càng hoang mang thêm mà thôi. Thế rồi con bé yêu tinh lại cười to lên.
- Con giấu ta đấy à? – Chàng mục sư hỏi?
- Ông không dũng cảm! Ông không thực thà! – Đứa bé trả lời – Ông không hứa sẽ cầm tay cháu, cầm tay mẹ trưa mai.
- Thưa ngài đáng kính – Giọng của lão thầy thuốc cất lên, lúc này lão đã tiến tới bên chân bục xử tội – Ngài Dimmesdale thánh thiện, có phải ngài đấy không? Chao ôi, lạy Chúa, thực là ngài đây rồi! Ôi những con người làm công việc nghiên cứu như chúng ta, luôn vùi đầu trong đống sách, thật là cần phải được trông nom cẩn thận hết sức! Chúng ta nằm mơ trong khi thức, và bước đi lang thang trong khi ngủ. Nào thưa ngài tôn kính, người bạn thân mến của tôi, tôi xin ngài, ngài cho tôi được đưa ngài về nhà!
- Sao ông lại biết tôi ở đây? – Chàng mục sư ghê sợ hỏi.
- Thực tình tôi xin cam đoan rằng tôi không biết gì cả - Roger Chillingworth trả lời – Tôi đã thức già nửa đêm cạnh giường ngài Thủ hiến Winthwop đáng tôn kính, cố gắng làm hết sức mình trong phạm vi khả năng nghèo nàn của tôi để giảm nhẹ nỗi đau cho người. Người hiện nay đã về nơi yên nghỉ ở thế giới bên kia, còn tôi, tôi cũng đang trên đường trở về nhà thì ánh sao băng kia sáng bừng lên. Mời ngài về cùng tôi, tôi cầu xin ngài, thưa ngài kính mến, kẻo ngài sẽ khó mà có thể làm lễ chủ nhật ngày mai. Trời đất! Những cuốn sách đáng sợ! Những cuốn sách tai hại! Chúng là loạn đầu óc lên thế đấy! Ngài cần phải giảm đọc sách đi, thưa ngài kính mến, và giải trí thêm một chút, nếu không thì những cơn rối loạn ban đêm này sẽ phát triển mất thôi.
- Tôi sẽ về nhà cùng ngài. – Dimmesdale nói.
Với một sự chán nản đến ớn lạnh, giống như một kẻ bừng tỉnh thoát khỏi cơn ác mộng, toàn thân rã rời, anh phó mặc mình cho bàn tay điều khiển của lão thầy thuốc, và lão dắt anh đi.
Ấy thế nhưng hôm sau, ngày chủ nhật, khi anh lên bục giảng kinh, bài thuyết giáo của anh đã được người ta xem là bài giảng hay nhất từ trước đến nay của anh, có sức lôi cuốn mạnh mẽ nhất, biểu thị đầy đủ nhất sức truyền cảm của Thượng đế. Người ta bảo rằng, nhờ hiệu lực của bài giảng, linh hồn của nhiều người, không phải chỉ riêng một kẻ nào, đã được soi rọi ánh sáng của chân lý, và họ đã nguyện sẽ nâng niu một tấm lòng biết ơn thành kính đối với Đức Cha Dimmesdale suốt trong kiếp người của họ về sau.
Nhưng khi anh từ trên bục giảng đi xuống thì người trông nom nhà thờ, râu hoa râm, bước tới bên anh, tay giơ ra một chiếc găng tay màu đen, mà chàng mục sư nhận ra ngay là của mình.
- Tôi tìm thấy vật này sáng nay – Bác quản nhà thờ nói – trên đoạn đầu đài, nơi bêu bọn có tội trước công chúng. Tôi cho rằng Quỷ Xa tăng đã đem nó ra vứt ở đấy, với ý đồ chơi một trò đùa thô bỉ hại Đức Cha. Nhưng quả thực hắn mù và ngốc, bao giờ hắn cũng vậy. Bởi vì một bàn tay thanh khiết không cần gì phải đeo găng để che lại.
- Cám ơn, ông bạn quý mến – Chàng mục sư trả lời, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng trong tim giật thót, bởi vì trí nhớ của anh đã bị xáo trộn mờ mịt đến mức anh đã hầu như cho rằng những sự kiện đem qua đều chỉ là ảo mộng. – Vâng, chiếc găng này hình như là của tôi thật.
- Ấy, vì Quỷ Xa tăng muốn đánh cắp thứ này, nên từ nay về sau Đức Cha hãy thôi đừng dùng găng tay nữa – Người quản nhà thờ nói, miệng mỉm nụ cười dễ sợ - À Đức Cha có nghe nói về cái điềm lạ xuất hiện đêm qua không? Một chữ đỏ rất to ở trên trời – chữ A. Theo chúng tôi, chữ A đó có nghĩa là “Angel” (Thiên thần). Chả là đêm qua Thủ hiến Winthrop đáng kính của chúng ta đã được trở thành một thiên thần, nên chắc chắn là phải có một thông cáo về tin đó chứ!
- Không! – Chàng mục sư trả lời – Tôi chưa nghe nói gì cả.