← Quay lại trang sách

Chương 13 Một Hình Ảnh Khác Về Hester Prynne

Trong cuộc gặp gỡ kỳ dị đêm ấy với Dimmesdale, Hester bàng hoàng khi nhìn thấy tình trạng sa sút đến thế của chàng giáo sĩ. Khí lực của anh dường như đã hoàn toàn tiêu tan. Tinh thần của anh sụp xuống mức còn thấp hơn sự yếu đuối của con trẻ, như phủ phục xuống mặt đất bất lực không gượng cất đầu len được nữa, ngay cả trong lúc những năng lực trí tuệ của anh vẫn duy trì được sức mạnh như xưa, hoặc có lẽ đã được bồi bổ một thứ sinh lực bệnh hoạn mà chỉ tình trạng ốm đau mới tạo ra được. Do chị biết rõ một loạt tình huống giữ kín không cho mọi người biết, chị có thể dễ dàng kết luận rằng, ngoài tác động tất yếu của chính lương tâm anh, còn có một mưu đồ ghê gớm chĩa vào anh đang ráo riết phá hoại hạnh phúc và sự yên tĩnh của anh. Biết rõ con người suy sụp tội nghiệp này đã từng có một thời như thế nào, chị xúc động đến não cả lòng khi nhìn anh rùng mình khiếp sợ kêu gọi sự cứu viện của chị - của người đàn bà bị ruồng bỏ! – để chống lại một kẻ thù mà anh đã phát hiện ra được bằng bản năng. Thêm nữa, chị cũng khẳng định rằng anh có quyền được sự giúp đỡ đến mức tối đa của chị. Trong thời gian lâu dài sống tách biệt khỏi xã hội, chị ít có thói quen xác định những ý niệm của mình về cái đúng cái sai theo bất kỳ một thứ tiêu chuẩn mẫu mực nào ngoài quan điểm của riêng mình, nên Hester thấy – hoặc dường như thấy – rằng chị có một trách nhiệm đối với chàng giáo sĩ, một trách nhiệm mà chị không có đối với bất kỳ một ai khác, đối với toàn thiên hạ, ngoài ah ra. Những mối dây nối liền chị với mọi kẻ khác của loài người – những mối dây tết bằng hoa, hay bằng lụa, hay bằng vàng, hay bằng chất liệu gì gì đi nữa – đều đã đứt rời tất cả. Còn đây là một mối dây bằng sắt của tội lỗi cùng phạm, mà cả chị lẫn anh đều không thể rứt đứt đi được. Cũng giống như mọi loại ràng buộc khác, mối dây này mang theo những nghĩa vụ của nó.

Cái thế của Hester Prynne hiện nay không phải vẫn y nguyên là cái thế của chị trong thời kỳ đầu chị mang nỗi ô nhục. Những năm tháng đã tiếp tục trôi qua. Bé Pearl nay đã lên bảy. Người mẹ, với chữ A màu đỏ trên ngực lấp lánh những đường thêu kỳ dị, đã từ lâu trở thành một mục tiêu thân thuộc trước con mắt của mọi người trong thành phố. Như vẫn thường có khả năng xảy ra trong trường hợp một con người nổi bật lên trước cộng đồng xã hội vì một tính chất đặc biệt nào đó mà đồng thời lại không làm thiệt hại gì đến lợi ích công cộng hoặc lợi ích riêng của cá nhân nào, cuối cùng mọi thứ cảm tình đã nảy nở và phát triển ơ khắp mọi người đối với Hester Prynne. Đáng ca ngợi thay bản chất con người, là trừ trường hợp tính ích kỷ tác động tới, người ta thường sẵn lòng thương yêu hơn là căm ghét. Thậm chí sự căm ghét cũng sẽ có thể đổi thay thành lòng yêu thương, qua một quá trình chuyển biến dần dần và trầm lặng, trừ phi sự biến đổi ấy bị cản trở bởi một sự kích thích liên tục trở đi trở lại của ý thức đối lập ban đầu. Trong trường hợp Hester Prynne, không có một tác nhân kích thích nào, cũng không có gì làm người ta khó chịu. Chị không bao giờ đụng độ với công chúng, mà cam chịu mọi sự bạc đãi dù là tàn tệ nhất không một chút than phiền ; chị không đòi hỏi ở công chúng một điều gì để đền bù lại những đau khổ mà chị đã phải chịu đựng ; chị không nài ép người ta phải thông cảm với chị. Rồi thì, sự trong sáng không thể chê trách được của cuộc đời chị trong tất cả những năm dài ô nhục bị ruồng rẫy ấy cũng đã góp phần rất lớn biện hộ cho chị. Nay không còn gì để mà mất, trước con mắt của người đời, không có niềm hy vọng, và dường như không còn một chút mong ước đạt được một điều gì, ở chị chỉ có thể có một tinh thần thực sự trọng điều đức hạnh là nhân tố đã đưa được kẻ lạc lối tội nghiệp này trở về con đường chính đáng.

Người ta cũng nhận thức thấy rằng, trong khi Hester không bao giờ vịn vào một danh nghĩa gì dù là khiêm nhường nhất để đòi được dự phần vào những đặc quyền của xã hội – ngoài cái quyền được hít thở bầu không khí chung và cái quyền được kiếm miếng ăn hàng ngày cho bé Pearl và cho bản thân chị bằng sức lao động chính đáng của mình – thì chị lại rất nhanh nhạy thừa nhận tình nghĩa chị em ruột rà với loài người bất cứ khi nào có kẻ cần được giúp đỡ. Không ai sẵn lòng bằng chị trong việc bớt ra một phần trong số của cải ít ỏi của mình để cứu trợ cho một nhu cầu quẫn bách của kẻ bần cùng, dù rằng con người nghèo đói mang nặng trong tim nỗi đắng cay có khi lại buông lời chế giễu đáp lại công ơn chị mang miếng ăn đến cửa nhà họ đều đặn hàng ngày hoặc khâu vá quần áo cho họ bằng đôi bàn tay xứng đáng dành cho công việc thêu thùa những tấm áo bào vương giả. Không ai tận tụy quên mình bằng chị khi bệnh dịch hoành hành trong thành phố. Quả vậy, bất cứ lúc nào xảy ra tai họa đó, dù là lan rộng khắp nơi hay riêng một số người măc phải, người đàn bà bị xã hội ruồng bỏ này cũng lập tức tìm thấy vị trí của mình. Chị đến không phải với tư cách là khách, mà như là một người nhà thực thụ, hòa mình vào nội bộ gia đình đang ủ dột vì lo buồn, như thể bóng tối ảm đạm trùm xuống gia đình ấy đúng là môi trường trong đó chị có quyền giao tiếp với đồng loại của chị. Tại nơi đó ánh lên chữ A màu đỏ thêu trên ngực chị, với một nguồn an ủi toát ra từ những tia sáng siêu tự nhiên của nó. Ở mọi nơi khác, nó là biểu tượng của tội lỗi, còn ở đây nó là ngọn nến nhỏ chung trong buồng người bệnh. Thậm chí nó còn rọi ánh sáng của nó qua phía bên kia bờ vực của thời gian, trong khi người bệnh khổ đau lâm vào giờ phút tận cùng khắc nghiệt. Nó soi cho người ấy thấy chỗ đặt chân đi. Trong khi mà ánh sáng của trần gian đang chóng vánh tối sập xuống và trước khi ánh sáng của cõi tương lai chiếu được đến kẻ lìa trần. Trong những tình huống khẩn thiết như vậy, bản chất của Hester Prynne bộc lộ ra nồng hậu và dồi dào tình cảm vô tận – một nguồn suối nhân tình hiền dịu, không bao giờ cạn đối với mọi yêu cầu chính đáng, và không hề biết mệt mỏi trước những đòi hỏi to lớn nhất. Bộ ngực mang dấu hiệu ô nhục chỉ còn là chiếc gối mềm dịu để kê đầu người bệnh cần chỗ gối êm. Chị đã tự chỉ định mình làm một Bà Phước, hoặc là nói đúng hơn, bàn tay nghiêm khắc của thế gian đã chỉ định chị làm một người như vậy, trong khi cả thế gian lẫn chị đều không mong chờ đến kết quả này. Cái chữ trên ngực chị được xem là tượng trưng cho xu hướng của chị. Công chúng tìm thấy ở chị một tinh thần giúp đỡ thật là nhiệt tình – một năng lực hành động và một khả năng đồng cảm thật là mạnh mẽ - đến nỗi nhiều người không chịu hiểu chữ A màu đỏ theo ý nghĩa nguyên thủy của nó nữa. Họ bảo rằng chữ A ấy có nghĩa là Abel (1), bởi lẽ sức mạnh của một người đàn bà thôi, mà Hester Prynne mạnh mẽ xiết bao.

Chỉ những ngôi nhà trùm trong bóng tối u sầu mới có thể thấy chị hiện diện giữa bốn bức tường của nó. Khi ánh mặt trời trở lại thì chị không còn đấy nữa. Bóng chị bước qua ngưỡng cửa biến mất. Người bạn sốt sắng đỡ đầu như người nhà ấy đã ra đi, không hề một lần ngoái lại để nhận phần thưởng của sự biết ơn, nếu như có một sự biết ơn nào đó trong trái tim những kẻ mà chị đã phục vụ tận tình như vậy. Khi gặp họ ngoài đường, chị không bao giờ ngẩng đầu đón nhận lời chào hỏi của họ. Nếu họ quyết đến gần bắt chuyện với chị, chị đặt một ngón tay lên chữ A màu đỏ, rồi tiếp tục đi qua. Thái độ đó có thể là lòng kiêu hãnh, nhưng lại rất đỗi giống như sự hạ mình, đến nỗi nó tạo nên tất cả ảnh hưởng êm dịu của đức tính khiêm tốn này tác động đến tâm trí của công chúng. Công chúng thường mang tính chuyên chế ; khi có ai đòi hỏi một điều công bằng sơ đẳng nhất, nhưng lại cứ đòi hỏi quá nằng nặc coi đó là quyền lợi phải được, thì họ có thể từ chối phắt ; nhưng họ lại thường ban thưởng nhiều hơn mức của sự công bằng, khi mà kẻ ấy kêu cầu hoàn toàn ở lòng rộng lượng của họ, giống như các bậc vua chúa chuyên chế thích mọi người cúi xin lượng cả bao dung. Hiểu thái độ Hester Prynne là một sự kêu cầu thuộc loại như vậy, xã hội có khuynh hướng tỏ ra với kẻ nguyên là nạn nhân của họ một sự đồng tình ủng hộ còn ân tình hơn cả mức mà chị cần được chiếu cố đến, thậm chí có thể là hơn mức mà chị đáng được hưởng.

Các bậc cầm quyền và các nhà thông thái lịch lãm trong cộng đồng phải mất một thời gian dài hơn so với quần chúng, mới chịu thừa nhận tác động của những đức tính tốt của Hester Prynne. Những định kiến mà họ chia sẻ với quần chúng đã được củng cố thêm vững chắc bên trong đầu óc họ bởi một khuôn khổ lý lẽ sắt đá, cho nên muốn xua đuổi đi thì phải có sự cố gắng dai dẳng hơn nhiều. Tuy nhiên, hết ngày này sang ngày khác, những nếp nhăn giữa đôi mày cau lại khắt khe và cứng rắn của họ dần dần giãn ra, dịu đi, và sau một quá trình thích đáng nhiều năm trôi qua, có thể phát triển thành một vẻ gần như là nhân từ độ lượng. Thế đấy, thái độ những con người của tầng lớp thượng đẳng, mà địa vị cao trọng của họ buộc phải thực hiện trách nhiệm bảo vệ đạo đức xã hội, là như vậy. Trong khi đó, người dân thường trong đời tư đã hoàn toàn tha thứ cho sự yếu đuối sa ngã của Hester Prynne ; còn hơn thế nữa, họ đã bắt đầu coi chữ A màu đỏ không phải là biểu hiện của tội lỗi mà để sám hối Hester Prynne đã phải tự mình hành xác lâu dài và thảm thương làm vậy, mà như là biểu hiện của những việc tốt chị đã làm rất nhiều từ bấy đến nay. “Ngài có thấy người đàn bà mang cái dấu hiệu thêu trên ngực kia không? – Họ nói với những khách lạ - Chị Hester của chúng tôi đấy! – Hester của chính thành phố này – một con người tốt bụng làm sao đối với người nghèo, nhiệt tình làm sao đối với người ốm, mang lại nguồn an ủi ấm áp làm sao đối với kẻ đau buồn!”.

Rồi thì, phải thú thật rằng, khuynh hướng của bản chất con người muốn nói ra điều xấu hơn hết của chính mình, khi mà điều xấu này biểu hiện ở một kẻ khác, thường vẫn thôi thúc một số người rỉ tai tiết lộ điều tai tiếng nhục nhã kia của những năm xưa. Thế nhưng lại cũng có một sự thật là trước con mắt của chính những người đã nói như vậy, chữ A màu đỏ ấy lại có tác dụng như một chiếc thánh giá trên ngực một nữ tu sĩ. Nó truyền cho người đàn bà đeo nó một thứ tính bất khả xâm phạm, giúp cho chị đi lại an toàn giữa mọi hiểm nguy. Nếu như chị rơi vào giữa một bầy kẻ cướp, cái dấu hiệu ấy hẳn sẽ giữ cho chị bình yên vô sự. Người ta kể lại, và có nhiều người đã tin là thật, rằng một người da đỏ đã bắn một phát tên vào cái dấu hiệu ấy, mũi tên trúng đích, nhưng không phạm vào da thịt, mà rơi xuống đất.

Cái biểu tượng ấy – hay đúng là cái vị trí mà biểu tượng ấy chỉ định cho chị trong mối quan hệ của chị với xã hội – đã gây một tác động mãnh liệt và khác thường đến tinh thần của Hester Prynne. Tất cả những gì là hoa lá thanh thoát hồn nhiên và duyên dáng trong tính cách chị đều đã héo tàn dưới dấu sắt nung cháy bỏng này và đã rơi rụng hêt từ lâu, để lại những nét trần trụi và xù xì có thể đã làm cho những bầu bạn thân thuộc phải phát gớm nếu như chị còn có những bầu bạn như vậy. Ngay cả cái vẻ hấp dẫn của con người chị cũng đã bị biến đổi giống như vậy. Có thể một phần là do chị cố tìm cách mặc thật xuềnh xoàng khắc khổ, và một phần là do chị kín đáo giữ gìn không biểu lộ gì trong dáng vẻ của mình. Có một thay đổi nữa cũng đáng buồn là bộ tóc dày dặn mượt mà rất đẹp của chị không rõ đã bị cắt đi hay bị cuộn chặt giấu kín hoàn toàn vào bên trong chiếc mũ mềm trên đầu chị, nên không bao giờ còn món tóc bóng láng nào của chị ngời lên dưới ánh mặt trời. Một phần vì tất cả những lý do đó, nhưng phần lớn là vì một lẽ nào đó khác nữa, nên dường như không còn gì trên khuôn mặt của Hester cho Tình Yêu say đắm ; không còn gì ở thân hình Hester, dù vẫn uy nghi và cân đối như pho tượng, cho Tình Dục còn bao giờ mơ ước ôm chặt lấy trong vòng tay mình ; không còn gì trên bộ ngực của Hester để có bao giờ nó trở thành chiếc gối êm dịu của Tình Thương. Một thuộc tính nào đó đã rời bỏ chị, một thuộc tính mà sự bảo tồn thường trực trong con người chị là thiết yếu để giữ cho chị tiếp tục là một người phụ nữ. Nghiệp chướng cuộc đời thường là vậy, sự phát triển đáng buồn của tính cách và của con người nữ giới là vậy, khi người đàn bà đã gặp phải và kinh qua một cuộc thử thách đặc biệt khắc nghiệt. Nếu ở người đàn bà ấy hoàn toàn chỉ là sự dịu hiền dễ cảm, thì tất chị ta sẽ chết. Nếu chị ta sống sót, thì tính dịu hiền dễ cảm ấy sẽ hoặc là bị vắt kiệt khỏi con người của chị, hoặc là bị nhét xuống trong lòng chị sâu đến nỗi nó không bao giờ còn có thể biểu lộ ra được nữa – và cái vẻ bề ngoài trong cả hai trường hợp ấy sẽ hoàn toàn giống nhau. Giả thiết sau có lẽ là đúng sự thật nhất. Chị, kẻ đã từng là một người đàn bà, và nay không còn là thế nữa, có thể một lúc nào đó lại trở lại là một người đàn bà, nếu như có một chiếc đũa thần nào đó chạm vào để đem lại sự biến đổi ấy. Chúng ta sẽ xem liệu sau này có bao giờ Hester được sự tác động của một phép thần thông như vậy và biến đổi như vậy hay không.

Cái cảm giác nguội lạnh như tiền của Hester Prynne chủ yếu là do cuộc đời của chị chuyển hướng, trong một chừng mực lớn, từ quá trính đam mê và cảm xúc sang quá trình tư duy. Đứng trơ trọi một mình giữa thế gian – trơ trọi trong bất kỳ một mối quan hệ nào lệ thuộc vào xã hội, và mang nặng trách nhiệm phải điều dắt và bảo vệ cho bé Pearl – trơ trọi, và không chút hy vọng phục hồi lại địa vị của mình trong xã hội, dù cho chị không coi khinh sự phục hồi đó, - chị quẳng ra xa những mảnh vụn của chiếc dây xích trói buộc chị đã bị phá đứt tung. Luật của thế gian không còn là luật đối với đầu óc chị. Chị đang sống trong một thời đại mà trí tuệ con người vừa mới được giải phóng, đã vươn lên một tầm cao rộng hơn, đã đạp đổ và sắp đặt lại – không phải trên thực tế, mà trong phạm vi lý luận và địa hạt hoạt động thực sự nhất của họ - toàn bộ hệ thống định kiến cổ xưa, vốn liên kết chặt với phần lớn những nguyên tắc đạo đức cũ kỹ. Hester Prynne đã hấp thụ xu hướng tinh thần ấy. Chị đã tiếp nhận một luồng tư tưởng tự do trong việc suy xét, lúc ấy đã khá thịnh hành ở phía bên kia Đại Tây dương, nhưng ở đây nếu các vị tổ tiên của ta mà biết được thì các cụ tất sẽ coi đó là một trọng tội còn nguy hiểm hơn nhiều so với cái tội bị cộp cái dấu chữ A màu đỏ. Tại ngôi nhà nhỏ hiu quạnh của chị cạnh bờ biển, nhiều tư tưởng đã ghé đến thăm chị, những thứ tư tưởng đó không hề dám bén mảng vào một nhà nào khác ở Niu Inglơn ; những bóng khách vô hình mà chỉ cần người ta có thể nhìn thấy được chúng gõ cửa nhà chị là đủ để có thể trở thành một hiểm họa như ma quỷ gieo tai ương cho gia chủ rồi.

Cũng thật kỳ là những người có những tư tưởng suy xét táo bạo nhất lại thường tuân theo những quy tắc của xã hội bên ngoài với một thái độ thanh thản êm ả nhất. Chỉ cần có tư tưởng là đủ đối với họ, không nhất thiết phải truyền tư tưởng ấy vào máu thịt của hành động. Hình như Hester thuộc loại người như vậy. Thế nhưng, giá như bé Pearl không bao giờ từ thế giới thần linh đến với chị, thì sự thể đã có thể khác xa rồi. Trong trường hợp ấy, chị hẳn đã có thể qua những trang lịch sử đến với chúng ta ngày nay, tay cầm tay sóng bước với anh Hutchinson. Với tư cách là người phụ nữ đã sáng lập một giáo phái. Chị đã có thể, trong một giai đoạn nào đó của cuộc đời chị, từng là một nữ sứ đồ. Chị đã có thể, và rất có khả năng là chị đã phải chịu án tử hình của những tòa án nghiêm khắc thời ấy, vì tội mưu toan phá hoại nền tảng của cơ chế Thanh giáo. Nhưng, trong công việc giáo dục đứa con của mình, những tư tưởng sôi nổi hăng hái của người mẹ đã tìm được một địa hạt để phát huy tác dụng. Thượng đế, khi cho chị đứa con gái này, đã giao vào bàn tay trông nom nuôi nấng của chị mầm non sẽ trưởng thành làm một người phụ nữ, để chị nâng niu và dưỡng dục trong hoàn cảnh bị vây bọc bởi muôn vàn khó khăn. Mọi thứ đều chống lại chị. Thế gian không chút thân thiện với chị. Bản tính của đứa bé cũng có một cái gì đó không ổn, nó thường xuyên chỉ rõ rằng đứa bé sinh ra là sai lầm – và thường buộc Hester phải tự hỏi, với nỗi đắng cay nghẹn trong lòng, rằng không biết con nhỏ tội nghiệp sinh ra để chịu điều bất hạnh hay được điều tốt lành.

Thực sự là cùng một câu hỏi buồn rầu đó thường hay bật ra trong đầu chị khi chị liên hệ đến toàn bộ giới phụ nữ. Liệu cuộc sống có đáng được chấp nhận hay không ngay cả đối với người hạnh phúc nhất trong nữ giới? Về phần cuộc sống của riêng chị, chị đã từ lâu quyết câu trả lời phủ định, và gạt vấn đề đi coi như đã giải xong. Một xu hướng tư duy có suy xét, dù rằng có thể giữ cho lòng người đàn bà được yên ả, cũng như đối với lòng người đàn ông, nhưng vẫn làm chị buồn. Có thể là chị nhận thấy rõ một công việc thật là tuyệt vọng trước mắt chị. Bước đầu tiên là toàn bộ hệ thống xã hội phải bị xé tan đạp đổ và được dựng lại hoàn toàn mới. Rồi thì ngay bản chất của giới đàn ông, hoặc thói quen di truyền lâu đời của họ nay đã trở thành như bản chất phải được thay đổi đi về cơ bản trước khi có thể để cho người phụ nữ đảm nhận một cái gì đó có vẻ là một cương vị công bằng và thích hợp. Cuối cùng là, khi tất cả mọi khó khăn khác đều đã được thanh toán, bản thân người đàn bà nhất định phải trải qua một cuộc thay đổi còn mạnh mẽ hơn thế nữa mới có thể tận dụng có lợi những cải cách mở đầu ấy. Kinh qua cuộc thay đổi này, có lẽ tính chất thiên tiên thanh tao, trong đó người đàn bà có cuộc sống thật sự nhất của mình, sẽ bay hơi tan biến đi mất. Người phụ nữ không bao giờ khắc phục những vấn đề ấy bằng bất kỳ một sự vận dụng tư tưởng nào. Không thể giải quyết được những vấn đề như vây, hoặc chỉ giải quyết bằng một cách. Nếu may mắn mà trái tim người phụ nữ chiếm được ưu thế, thì những vấn đề ấy tiêu tan. Vậy là, khi mà trái tim Hester Prynne đã mất đi nhịp đập bình thường và khỏe mạnh của nó, chị đi lang thang quanh quẩn trong cung mê rối rắm mờ mịt của cõi tư duy mà không lần ra mối ; khi thì phải rẽ ngoặc sang một bên vì vấp phải vách dựng đứng không thể vượt qua ; khi thì phải né vội trở lui trước mép vực thẳm. Khắp xung quanh chị là cảnh tượng rối loạn và rùng rợn, không đâu có tổ ấm và nguồn an ủi. Thỉnh thoảng một mối hoài nghi đáng sợ lại ra sức lấn tới xâm chiếm tâm hồn chị, đặt ra cho chị một vấn đề là phải chăng tốt hơn hết nên đưa bé Pearl lập tức lên cõi thiên đường, còn bản thân chị thì sẽ đi về phía số phận tương lai mà Công lý Vĩnh cửu của Thượng đế dành cho chị.

Chữ A màu đỏ đã không làm tròn chức năng của nó.

Tuy nhiên, giờ đây, cuộc gặp gỡ Dimmesdale trong đêm thức ấy của anh đã làm nảy ra trong đầu chị một vấn đề mới phải suy nghĩ và chỉ ra cho chị một mục tiêu có vẻ đáng để chị huy động mọi nỗ lực và hy sinh mà đạt cho được. Chị đã chứng kiến sự đau đớn khổ sở cùng cực của chàng mục sư trong tình cảnh anh vật vã, hay nói cho chính xác hơn, trong tình cảnh anh thôi không còn sức vật vã nữa. Chị thấy anh đã tiến đến ven bờ của tình trạng mất trí, nếu như không phải là anh đã bước vào tình trạng đó. Không thể nào nghi ngờ gì nữa, dù cho sự cắn rứt âm thầm của lòng hối hận có thể gây đau nhức đến thế nào đi nữa, thì rõ ràng là có một nọc độc nguy hiểm hơn đã được truyền vào đó bởi một bàn tay mang danh nghĩa cứu chữa. Một kẻ thù giấu kín tông tích liên tục ở bên cạnh anh, với cái vẻ ngoài làm ra bộ là một người bạn và trợ thủ, đã lợi dụng mọi cơ hội mà điều kiện ấy tạo cho để vây vào những chỗ yếu tinh tế trong bản chất của anh. Hester không thể nào không tự hỏi là phải chăng từ lúc đầu chị đã thiếu thật thà, dũng cảm và trung nghĩa khi chị để cho chàng mục sư bị rơi vào một tình thế mà trong đó có thể linh cảm thấy biết bao tai họa và không hy vọng có một chút tốt lành nào. Lý lẽ duy nhất để bào chữa cho chị là lúc ấy chị đã không thể nào nhận thức được một phương kế gì để cứu anh khỏi một tai họa còn đen tối hơn cả mối họa đã chôn vùi bản thân chị, trừ phi chị đồng ý với âm mưu giả trá của Roger Chillingworth. Với động cơ ấy chị đã quyết một điều lựa chọn, và thế là chị đã chọn một phương sách mà thực tế hiện nay có vẻ chứng tỏ là phương sách tệ hại hơn trong hai cách lựa chọn. Nay chị quyết tâm chuộc lại sai lầm của mình chừng nào còn có thể. Được tăng thêm sức mạnh qua bao nhiêu năm thử thách gian khổ và khắc nghiệt, chị không còn cảm thấy mình bất lực không đương đầu nổi với Roger Chillingworth như cái đêm đó, giữa lúc phẩm giá bị chà đạp vì tội lỗi và gần như phát điên lên vì nỗi ô nhục còn mới nguyên, khi hai người nói chuyện với nhau trong buồng giam của nhà tù. Từ cái ngày đó, chị đã leo lên, theo con đường của chị, đến một điểm cao hơn. Trái lại, lão già đã tự hạ thấp lão xuống ngang tầm với chị, hoặc có lẽ là còn xuống thấp hơn, dưới tầm của chị, bởi lẽ lão đã sà xuống để thực hiện âm mưu báo thù của lão.

Tóm lại, Hester Prynne đã quyết sẽ gặp người chồng cũ của mình, và làm tất cả những gì mà khả năng của chị có thể làm được để cứu kẻ nạn nhân đang hiển nhiên nằm trong móng vuốt của lão. Chị đã không phải mất thời gian lâu để tìm cơ hội. Một buổi chiều nọ, khi đang đi dạo với bé Pearl ở một nơi vắng vẻ trên vùng bán đảo, chị nhìn thấy lão thầy lang già, một tay đeo cái giỏ, tay kia cầm cây gậy, đang cúi mình lúi húi mò theo mặt đất để tìm những cây cỏ làm thuốc.

Chú thích:

(1) Abel. – Con trai thứ hai của Ađam và Eva (kinh thánh). Theo kinh Tân ước – New Testament -, Abel được xem là kẻ đầu tiên trong những người chính trực, có sức mạnh của đạo đức, đã chết vì đức tin của mình.