Chương 23 Bộc Lộ Chữ A Màu Đỏ
Tiếng thuyết giảng hùng hồn, mà mọi tình cảm xúc động trong lòng người nghe được nâng theo như trào dâng trên những ngọn sóng cồn giữa biển, cuối cùng đã ngừng lại. Không gian nín bặt một lúc, lặng ngắt như tờ, như tất yếu thường là vậy sau khi những lời thánh truyền được phát ra. Rồi tiếp theo là tiếng rì rầm và những xung động xôn xao phần nào được nén lại, như thể những người nghe vừa được giải phóng khỏi phép lạ huyền diệu đã đưa họ vào địa hạt tinh thần của một kẻ khác, nay đang quay về với mình, trong khi tất cả nỗi hãi hùng và ngỡ ngàng vẫn còn đè nặng lên họ. Thêm một lát nữa, rồi đám đông mới bắt đầu từ trong các cửa lớn của nhà thờ tràn ra. Bây giờ, khi mà buổi thuyết giảng đã kết thúc, họ cần được hít thở thoải mái một thứ không khí thích hợp hơn cho cuộc sống dung tục giữa trần gian đã trở lại với họ, thích hợp hơn bầu không khí mà nhà thuyết pháp đã tạo ra quanh họ nóng bỏng những lời lửa thiêng và chất chứa hương thơm ngào ngạt của tư tưởng của người.
Ra ngoài trời, cảm xúc mê ly của họ bùng ra thành lời nói. Toàn bộ đường phố và khu chợ, từ bên này sang bên nọ, khắp nơi rộn rã tiếng trầm trồ ngợi ca chàng giáo sĩ. Những người vừa nghe anh thuyết giáo không thể lặng yên chừng nào chưa nói được với nhau những gì mà mình cảm nhận rõ hơn mình có thể nói ra hoặc nghe được. Theo ý kiến xác nhận thống nhất của họ, chưa bao giờ có người phát biểu với một tinh thần thật thông hiểu, thật cao cả và thật thánh thiện như anh phát biểu hôm nay. Cũng chưa bao giờ sức truyền cảm của thần linh lại được biểu thị qua đôi môi người trần nào một cách hiển nhiên như qua anh trong buổi thuyết giáo này. Người ta dường như có thể nhìn thấy ảnh hưởng của sự cổ xúy thần thánh truyền xuống tác động vào anh, chiếm lĩnh lấy anh, liên tục nâng anh lên siêu thoát khỏi nội dung viết sẵn trong tập bài thuyết giảng đặt trước mặt, rót đầy vào tâm trí anh những tư tưởng mà chắc hẳn là cả bản thân anh, chứ không chỉ người nghe, cũng thấy là kỳ diệu. Chủ đề bài thuyết giáo của anh muốn nói về mối quan hệ giữa Chúa Trời và những cộng đồng của loài người, có liên hệ đặc biệt đến miền Niu Inglơn mà họ đang xây dựng ở đây giữa nơi hoang dã. Và khi anh đi vào đoạn kết, dường như một cảm hứng thần linh chợt truyền cho anh nói lời tiên đoán tương lai, thúc bách anh cũng mạnh mẽ như những nhà tiên tri xưa của Israel đã bị thúc bách, chỉ có khác là các nhà tiên tri Do thái phải dự báo sự trừng phạt và tai họa giáng xuống đất nước họ, còn anh thì có nhiệm vụ báo trước vận số cao đẹp vẻ vang dành cho những tôi con của Chua1 mới tụ hội đến nơi này. Nhưng xuyên qua tất cả và suốt từ đầu chí cuối bài thuyết giảng, đã luôn luôn có một tiếng kêu thầm thì xúc động nào đó, sâu thẳm, buồn bã, mà người ta chỉ có thể giải thích được là tiếng của nỗi lòng tiếc nuối tất nhiên của một con người sắp rời bỏ cõi đời này, chứ không thể hiểu theo cách nào khác. Đúng vậy, vị mục sư của họ, mà xiết bao yêu thương – và người cũng yêu thương tất cả bọn họ biết chừng nào, đến mức không thể từ giã cõi đời này lên thiên đường mà không buông một tiếng thở dài – đã có linh tính là mình chết yểu, sẽ sớm lìa bỏ họ trong nỗi đau thương không cùng. Ý nghĩ cho rằng người chỉ còn lưu lại tạm thời ít lâu giữa trần thế đã tô một nét đậm cuối cùng làm nổi bật thêm ảnh hưởng của nhà thuyết pháp: như thể là một thiên thần, trên đường trở về trời, đã vẫy đôi cánh rộng ngời sáng trên đầu mọi người trong chốc lát – dưới đôi cánh đó vừa là bóng râm vừa là ánh rực rỡ huy hoàng – buông xuống họ một trận mưa vàng chân lý.
Vậy đó, Đức Cha Dimmesdale đã bước vào một thời điểm rực rỡ hơn và thắng lợi lẫy lừng hơn bất kỳ một giai đoạn nào khác trong cuộc đời trước đây hoặc sau này nếu còn có thể sống tiếp – phần lớn mọi người, trong những lĩnh vực hoạt động khác nhau, đều có một thời điểm như vậy, mặc dù hiếm khi nhìn thấy ngay nếu họ chưa nhìn xa về sau họ. Lúc này đây, Dimmesdale đang đứng trên đỉnh cao của địa vị kiệt xuất hãnh diện hơn hết. Thiên tài trí tuệ, học vấn uyên bác, tài hùng biện lỗi lạc, và một tiếng thơm về phẩm chất thánh thiện trong sáng nhất, những đức tính này có thể nâng lên địa vị kiệt xuất như vậy một người giáo sĩ trong thời kỳ ban sơ của miền Niu Inglơn, khi mà thiên chức giới tăng lữ tự nó đã là một chỗ đứng cao quý rồi. Mục sư Dimmesdale đã đạt tới một vị trí như thế khi anh cúi đầu về phía trước bên chiếc đệm của bục giảng để kết thúc bài “Thuyết giảng ngày Bầu cử” của mình. Và cũng trong lúc đó, Hester Prynne đang đứng cạnh bục bêu tội nhân, với chữ A màu đỏ vẫn cháy bỏng trên ngực.
Giờ dây người ta lại nghe nổi lên tiếng nhạc vang lừng và tiếng bước chân nện nhịp nhàng của đội quân danh dự từ trong cửa nhà thờ đi ra. Hàng ngũ lại sắp xếp theo thứ tự kéo đi thành đám rước, từ đây tiến đến Tòa Thị chính, tại nơi đó, một bữa tiệc trọng thể sẽ là mục cuối cùng làm trọn vẹn những nghi thức của ngày lễ lớn.
Một lần nữa, người ta nhìn thấy đoàn những nhà lãnh đạo và các bậc quyền quý đáng kính và tôn nghiêm bước ra qua một lối đi mở rộng giữa đám đông. Quần chúng ở cả hai bên kính cẩn lùi lại nhường chỗ khi ngài Thống đốc cùng các quan chức, các bậc lão thành uyên bác, các mục sư thánh thiện và tất cả những người có địa vị cao trọng và danh tiếng lớn tiến tới giữa bọn họ. Khi toàn bộ hàng ngũ các vị đã đi vào hẳn trong quảng trường họp chợ, một tiếng reo hò nổi lên vang dậy. Mặc dù tất nhiên lòng dạ trung thành như trẻ thơ của người dân trong thời đại này đối với các nhà cầm quyền đã làm tăng thêm cường độ và âm lượng cho tiếng hò đó, nhưng người ta vẫn cảm thấy đó chính là cơn bột phát không thể nén được của lửa nhiệt tình cảm kích được nhóm lên trong con tim quần chúng bởi những lời thuyết giảng hùng hồn mà nhạc điệu vẫn còn âm vang trong tai họ. Mỗi người đều cảm thấy sự thôi thúc ấy ở ngay bản thân mình, và trong hơi thở cùng nhịp, lại nhiễm lây nó từ người bên cạnh. Bên trong nhà thờ, người ta đã hầu như không thể nén nó lại, thì khi ra dưới vòm trời, nó bùng ra vang dội lên tới thiên đỉnh. Ở đây có khá nhiều người, cảm xúc nhiệt thành và đồng điệu khá mạnh, đủ để tạo nên một âm thanh gây ấn tượng lớn lao hơn tiếng gió gào, hoặc tiếng sấm, hoặc tiếng ầm ầm của biển ; một sự lên bổng mạnh mẽ của nhiều tiếng người hợp lại thành một tiếng vang động lớn, do tác động của sự thôi thúc chung đã hun đúc nhiều trái tim lại thành một trái tim vĩ đại. Chưa bao giờ từ mảnh đất Niu Inglơn từng cất lên một tiếng reo hò như vậy! Chưa bao giờ trên mảnh đất Niu Inglơn từng có một con người nào như nhà thuyết pháp hôm nay, được những đồng bào trần tục của mình ngưỡng mộ kính yêu đến thế!
Vậy thì hãy nhìn xem lúc này người như thế nào? Phải chăng có những hạt sáng rực rỡ của một vầng hào quang trong khoảng không bao quanh đầu của người? Tinh thần của người siêu thoát như thiên tiên là thế, vậy những bước chân của người trong cuộc diễu hành có thực còn giẫm lên bụi trần trên mặt đất kia không?
Trong khi hàng ngũ đội quân danh dự và các nhà lãnh đạo dân sự diễu qua, mọi con mắt của công chúng đều quay về phía mà vị mục sư đang tiến đến. tiếng reo hò thốt lịm xuống thành một tiếng rầm rì, khi hết bộ phận này đến bộ phận khác của đám đông kế tiếp nhìn thấy anh. Ôi trông anh sao yếu đuối và nhợt nhạt làm vậy, ngay giữa những phút vinh quang lẫy lừng này của anh! Nguồn sinh lực – hoặc nói cho đúng hơn, sức truyền cảm thần linh đã chống đỡ anh cho đến khi anh truyền đạt xong bức thông điệp thiêng liêng đã mang theo sức mạnh của chính nó từ thiên đường tới – bây giờ đã rút đi đâu mất, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ mình một cách thủy chung là thế! Nét ửng đỏ mà mới vừa nãy đây thôi họ còn nhìn thấy trên gò má anh, nay đã tắt ngấm như một đốm than hồng lụi đi một cách tuyệt vọng giữa đám tro tàn. Nhìn cái sắc tái mét như thây ma kia, khó có thể hình dung được đó là khuôn mặt của một người đang sống: hầu như không còn sự sống trong con người kia, con người đang lảo đảo bước đi bồn chồn như vậy, tuy nhiên vẫn cứ lảo đảo bước, không gục ngã.
Một trong những vị tăng lữ đồng sự - Đức Cha John Wilson đáng kính – nhận thấy tình trạng của Dimmesdale sau khi làn sóng trí năng và tri giác đã rút ra khỏi người anh, vội vã bước nhanh đến đỡ lấy anh. Chàng mục sư, run run nhưng kiên quyết, đẩy tay ông già ra. Anh tiếp tục bước tới – không biết có thể mô tả động tác của anh lúc này như thế được chăng, nhưng nói cho đúng hơn thì nó giống như những cố gắng chập chững của một em bé khi nhìn thấy trước mặt hai cánh tay của mẹ dang ra khuyến khích vẫy gọi. Thế rồi, dù hầu như không thể nhận thấy những bước sau cùng của anh nhích tới được bao nhiêu là thế, nhưng kìa anh đã đến ngay trước cái bục bêu tội nhân, cái đoạn đầu đài mà ký ức còn ghi đậm nét, mà mưa gió dãi dầu đã phủ lên một màu xám xịt, nơi mà đã lâu rồi – từ bấy đến nay là cả quãng thời gian dài buồn thảm ấy – Hester Prynne đã phơi mình ra ô nhục, đọ sức với cái nhìn chòng chọc của thế gian. Nay Hester lại đang đứng đấy kia, cầm tay bé Pearl! Và kia, chữa A màu đỏ trên ngực chị! Chàng mục sư đến đây dừng lại ; dẫu cho vẫn vang lừng khúc nhạc quân hành hùng tráng và rộn niềm vui mà đoàn diễu hành đang bước theo. Tiếng nhạc mời anh đi tới – đi tới cuộc liên hoan – nhưng đến đây anh đã dừng lại.
Trong những giây phút vừa qua, Bellingham đã lo lắng để mắt theo dõi anh. Bây giờ ngài vội rời vị trí của mình trong đoàn diễu hành và bước tới để hỗ trợ ; bằng vào cái vẻ bề ngoài của Dimmesdale, ngài thấy rằng nếu không chạy tới đỡ thì chắc chắn anh sẽ gục xuống mất. Nhưng có một cái gì đó trên nét mặt của chàng giáo sĩ khiến cho ngài giật mình lùi lại, mặc dù ngài thuộc loại người không dễ gì tuân theo những tín hiệu mơ hồ truyền từ tâm linh này sang tâm linh khác. Trong lúc ấy, đám đông đứng nhìn, hãi hùng và kinh ngạc. Theo con mắt của họ, sự lả đi của thể xác trần tục này chẳng qua chỉ là sự chuyển sang một giai đoạn mới của sức mạnh thiên tiên của chàng giáo sĩ ; đối với một con người thánh thiện làm vậy, sẽ cũng chẳng có gì có vẻ là một phép màu quá ư huyền diệu đến làm cho mọi người phải sửng sốt, nếu như người bay lên trước mắt họ, dần dần nhòa đi và bừng sáng lên, để rồi cuối cùng tan biến vào trong bầu ánh sáng của thiên giới.
Nhưng kìa, anh quay về phía bục bêu – đoạn đầu đài – và hai cánh tay dang tới.
- Hester, - Anh gọi – đến đây! Đến đây, bé Pearl của ta!
Cái vẻ anh nhìn hai mẹ con trông thật rùng rợn, nhưng chứa đựng một cái gì đó vừa âu yếm vừa đắc thắng một cách kỳ lạ. Đứa trẻ, với động tác nhanh như chim bay vốn là một trong những đặc điểm của nó, lao vút đến, vòng đôi cánh tay ôm chặt lấy đầu gối của anh. Hester Prynne – chậm chạp, như thể bị đẩy tới bởi bàn tay cưỡng ép của định mệnh không thể nào tránh được, trái với ý muốn kiên quyết của mình – cũng bước lại gần, nhưng dừng lại trước khi tới sát anh. Ngay lúc ấy, lão già Roger Chillingworth băng qua đám đông xô đến – hoặc có thể nói, với cái vẻ hắc ám, hiểm độc, đầy sát khí của lão, trông lão có vẻ như vừa từ một cõi âm ty nào đó vọt lên – để hòng giật lấy kẻ nạn nhân của lão, kéo lùi anh lại không cho anh làm điều mà anh định làm! Dù đúng làm như vậy hay là gì đi nữa, nhưng người ta thấy lão xông đến, nắm lấy cánh tay chàng mục sư.
- Điên à! Ngừng lại! Ngài định làm gì vậy? – Lão thì thào – Bảo người đàn bà kia lui ra! Đuổi đứa bé này đi! Tất cả sẽ còn tốt đẹp! Đừng làm o uế mất thanh danh của ngài và chết rụi trong nhục nhã! Tôi còn có thể cứu ngài! Ngài trát bùn ô nhục lên nghề nghiệp thiêng liêng của ngài sao?
- A! Quỷ Xa tăng! Hình như nhà ngươi đến quá chậm mất rồi! – Chàng mục sư trả lời, đương đầu với cái nhìn của lão, ghê sợ nhưng không hề chùn – Uy lực của ngươi nay không còn như trước nữa! Nhờ ơn phước của Chúa, bây giờ ta sẽ thoát khỏi tay ngươi!
Lần nữa anh lại dang tay về phía người phụ nữ mang chữ A màu đỏ.
- Hester Prynne! – Anh kêu lên với một giọng thống thiết – Nhân danh Đấng Cứu thế, Người vừa rất đỗi khủng khiếp vừa rất đỗi bao dung, đã ban ơn cho ta ở giây phút cuối cùng này được làm điều mà ta đã tự ngăn mình lại không chịu làm bảy năm về trước – vì tội lỗi nghiêm trọng và nỗi thống khổ cực độ của ta – bây giờ nàng hãy đến đây, hỗ trợ cho ta bằng sức mạnh của nàng! Sức mạnh của nàng, Hester! Nhưng hãy để cho sức mạnh ấy được sự dắt dẫn của ý chí mà Chúa đã ban cho ta! Lão già bất hạnh và khốn nạn này đang dốc hết sức chống lại điều đó! – dốc hết sức lão và dùng cả sức của quỷ sứ nữa! Lại đây, Hester! Giúp ta bước lên đoạn đầu đài kia!
Công chúng xôn xao náo động cả lên. Những bậc quyền cao chức trọng, là những người đứng sát ngay xung quanh anh, đều hết sức kinh ngạc và hoang mang bối rối không biết sự tình mà họ đang nhìn thấy kia có nghĩa là gì – không thể nào tiếp thu được sự giải thích đang sẵn sàng bộc bạch ra trước mắt họ, cũng không thể hình dung ra một cách giải thích nào khác – đến nỗi họ đứng nín lặng và bất động chờ chứng kiến sự phán quyết của Thượng đế dường như sắp thể hiện ra trong chốc lát. Họ nhìn thấy chàng mục sư tựa vào vai Hester, một tay Hester ôm lấy ngang lưng anh dìu đi, hai người tiến đến bục xử tội và trèo lên các bậc, trong khi bàn tay bé nhỏ của đứa trẻ sinh ra từ tội lỗi vẫn nằm trong tay anh siết chặt. Lão Roger Chillingworth bước lên theo, như một kẻ có mối ràng buộc mật thiết với tấn thảm kịch của tội lỗi và đau thương trong đó tất cả bốn con người đều đã là những diễn viên, và bởi vậy hoàn toàn có đủ danh nghĩa để hiện diện bên nhau trong màn kết thúc.
- Ví như nhà ngươi có cố đi bằng được trên toàn trái đất – Lão vừa nói vừa nhìn cay độc vào mắt chàng giáo sĩ – cũng không thể có một nơi nào kín đáo – một nơi nào dù cao quý hoặc thấp hèn, mà ở đó ngươi thoát được khỏi tay ta – từ chính cái đoạn đầu đài này.
- Tạ ơn Chúa đã dẫn dắt ta đến đây – Chàng mục sư trả lời.
Tuy nhiên anh vẫn run, và quay sang Hester với một vẻ nghi hoặc và băn khoăn trong đôi mắt, cái vẻ đó không phải là không lộ ra rõ rệt, dù môi anh nở một nụ cười yếu ớt.
- Có phải nơi đây là tốt hơn không em? – Anh thì thầm – tốt hơn những gì mà chúng ta đã mơ tưởng trong rừng?
- Em không biết! Ôi em không biết! – Chị vội vã trả lời – Tốt hơn ư? Vâng, thế thì có thể cả hai chúng ta cùng chết, và bé Pearl cùng chết với chúng ta.
- Đối với nàng và bé Pearl, hãy để tùy mệnh lệnh phán quyết của Chúa – Chàng mục sư nói – và Chúa rất rộng lượng bao dung. Còn bây giờ thì hãy để ta thực hiện ý muốn mà Người đã chỉ rõ ra trước mắt ta. Bởi vì, Hester! Ta là kẻ sắp chết. Vậy hãy để ta mau mau nhận lấy mối nhục của mình.
Một phần được Hester Prynne đỡ, và nắm một bàn tay của bé Pearl, Đức Cha Dimmesdale quay ra hướng về các bậc quyền quý và các nhà lãnh đạo tôn nghiêm và đáng kính ; hướng về các mục sư thánh thiện, những người bạn đồng sự của mình ; hướng về quần chúng, mà tấm lòng quảng đại đang xiết bao kinh hoàng, tuy nhiên chan chứa mối thông cảm buồn thương muốn phát khóc, như biết rằng một vấn đề sinh tử nghiêm trọng – vấn đề đó, nếu đầy tội lỗi, thì chắc cũng đầy thống khổ và hối hận – bây giờ đây sắp sửa được bộc lộ ra cho họ rõ. Mặt trời lúc này chỉ mới nhích qua thiên đỉnh một ít, chiếu rực rỡ xuống người chàng giáo sĩ, làm nổi bật dáng hình anh, trong khi anh đứng đấy như tách hẳn khỏi toàn bộ trần gian, để phát biểu lời nhận tội trước vành móng ngựa của Tòa Công lý Vĩnh hằng.
- Hỡi đồng bào Niu Inglơn! – Anh nói lớn, bằng một giọng vút cao lên bên trên đám đông, sang sảng, uy nghi, trang trọng – tuy nhiên vẫn luôn luôn có một tiếng run trong đó, và thỉnh thoảng, một tiếng thét, vật vã vọt ra từ đáy sâu thăm thẳm của lòng hối hận và đau khổ - Các người đã yêu thương tôi – Các người đã cho tôi là một vị thánh – Xin hãy nhìn tôi đây, kẻ tội lỗi duy nhất giữa thế gian! Thế là rốt cuộc! rốt cuộc! tôi đã đứng vào các vị trí mà cách đây bảy năm đáng lẽ tôi đã phải đứng, ở đây, với người phụ nữ này, người phụ nữ mà cánh tay có sức mạnh, hơn là tí sức lực ít ỏi của tôi chỉ đủ cho tôi lê được tới đây, đã chống đỡ cho tôi trong giây phút khủng khiếp này khỏi ngã gục úp mặt xuống đất. Xin hãy trông đây! Chữ A màu đỏ mà Hester đeo trên ngực! Tất cả các người đã rùng mình khi nhìn thấy nó. Bất kỳ chỗ nào có bước chân chị ta đi tới – bất kỳ chỗ nào mà chị ta có thể hy vọng tìm thấy đôi chút nghỉ ngơi yên tĩnh trong khi trên vai trĩu nặng gánh bất hạnh khốn khổ nhường ấy – cái biểu tượng này đều luôn luôn phát ra một ánh sáng khủng khiếp gây hãi hùng và kinh tởm xung quanh chị. Nhưng thế lại có một kẻ khác cũng mang cái dấu tội lỗi và ô nhục, kẻ đó đứng ngay giữa các người, mà các người không thấy rùng mình.
Đến đây, trông như thể là chàng mục sư ắt sẽ thôi không nói ra phần còn lại của điều bí mật trong lòng mình nữa. Nhưng anh đã quyết liệt tự đấu tranh để vượt lên trên sự suy nhược của thể xác – và càng quyết liệt hơn để chiến thắng sự hèn yếu của tâm hồn – chúng đang cố giành giật với anh quyền làm chủ. Gạt phăng mọi sự hỗ trợ, anh sôi nổi bước lên một bước đứng trước người đàn bà và đứa trẻ.
- Cái dấu ấy có trên người gã – Anh nói tiếp với một thái độ dữ dội, bởi ý chí của anh quyết tâm nói ra toàn bộ sự thật mạnh biết chừng nào – Con mắt của Chúa nhìn thấy nó. Các thiên thần từng giây từng phút chỉ tay vào nó. Quỷ Xa tăng đâu còn lạ gì nó nữa, liên tục chọc ngón tay bốc lửa vẩy vào cho nó cháy bỏng lên. Nhưng gã đã ranh ma giấu biến đi không cho con người biết, và tiếp tục bước trong hàng ngũ của các người với phong thái của một nhân vật có phẩm cách, sắc mặt sầu muộn, bởi mình quá trong trắng giữa một thế gian đầy tội lỗi! – buồn bã, bởi nhớ mong những kẻ thân thích trên thiên đường! Giờ đây, trong những phút cuối cùng của cuộc đời, gã đứng trước mặt các người! Gã yêu cầu các người hãy lần nữa nhìn vào chữ A màu đỏ trên ngực Hester! Gã xin nói với các người rằng cái biểu tượng ấy, với tất cả vẻ kinh tởm huyền bí của nó như thế đó, cũng chỉ là hình bóng của cái mà chính gã mang trên ngực gã, và ngay cả cái này, cái dấu sắt nung đỏ trên chính người gã, lại cũng chỉ là hình tượng của cái đã hằn dấu lửa đốt trong đáy sâu kín nhất của tâm hồn gã. Liệu có ai trong các người ở đây còn nghi ngờ sự phán quyết của Chúa đối với một kẻ có tội? Xin hãy nhìn đây! Nhìn đây, một bằng chứng khủng khiếp.
Bàn tay run lên vì kích động của anh giật phăng chiếc dải cổ, xé toang vạt áo thầy tu ra khỏi ngực mình. Và thế là điều bí ẩn được bộc lộ! Nhưng mô tả cái gì được bộc lộ ra đó thì thật là bất kính. Trong chốc lát đám đông ghê sợ chú mục chăm chăm nhìn vào điều kỳ lạ rùng rợn. Còn chàng mục sư thì đứng thẳng, một niềm hân hoan ánh lên trên khuôn mặt, như một kẻ giữa cơn đau quyết liệt nhất đã giành được chiến thắng. Rồi lảo đảo, anh gục xuống sàn bục xử tội. Hester nâng người anh lên một tí, dựa đầu anh vào ngực mình. Lão Roger Chillingworth quỳ xuống cạnh anh, vẻ mặt ngây dại, thẩn thờ, dường như bên trong lão trống rỗng, không còn sự sống.
- Ngươi đã thoát khỏi tay ta! – lão lặp đi lặp lại, lần này rồi lần khác – Ngươi đã thoát khỏi tay ta…
- Cầu Chúa xóa tội cho ngươi – Chàng mục sư nói – Ngươi cũng thế, ngươi cũng là kẻ có tội, tội của ngươi thật là nặng!
Đôi mắt anh, như ngọn đèn sắp tắt, rời khỏi lão già, quay sang đăm đăm nhìn người phụ nữ và đứa trẻ.
- Bé Pearl của bố! – Anh nói yếu ớt, một nụ cười ngọt ngào dịu dàng thoảng qua trên khuôn mặt, như của một linh hồn sắp thoải mái chìm đắm vào giấc ngủ say yên tĩnh ; hơn thế nữa, bây giờ gánh nặng đã được cất đi, hầu như có vẻ là anh muốn vui đùa với đứa bé một tí – Bé Pearl yêu quý, bây giờ con có muốn hôn bố một cái không? Ở kia, trong rừng, con không muốn! Nhưng bây giờ, con có muốn không?
Pearl hôn lên môi anh. Và thế là một phép lạ đã được giải. Màn bi kịch lớn sâu thẳm trong đó đứa bé hoang dã đóng một vai đã phát triển trọn vẹn tất cả những khả năng đồng cảm của bé, và trong khi nước mắt của bé ròng ròng chảy xuống má bố, những giọt lệ này là bằng chứng bảo đảm rằng bé sẽ lớn lên giữa những niềm vui và nỗi buồn của con người, không phải là mãi mãi còn đối đầu xung đột với xã hội, mà là trở thành một người phụ nữ thành viên của xã hội. Đối với mẹ, cũng như vậy, vai trò của Pearl làm sứ giả đem đến nỗi thống khổ cho Hester đã kết thúc.
- Hester! – Chàng giáo sĩ nói – Vĩnh biệt!
- Chẳng lẽ chúng ta không gặp lại nhau nữa ư? – Chị thì thào, cúi xuống ghé sát mặt anh – Chẳng lẽ chúng ta sẽ không còn cùng sống chung cuộc đời bất tử với nhau? Chắc chắn, rất chắc chắn, là chúng ta đã nộp trả xong khoản tiền chuộc cho nhau, bằng tất cả nỗi đau đớn này! Có phải anh đang nhìn xa vào cõi vĩnh cửu, bằng đôi mắt sáng ngời sắp tắt kia? Nói cho em hay, anh nhìn thấy gì?
- Thôi đừng nghĩ vậy nữa! Hester! Thôi em! – Anh nói bằng một giọng trang trọng run run – Pháp luật mà chúng ta đã vi phạm! Tội lỗi đã được bộc lộ ở đây một cách khủng khiếp như thế này! Em chỉ nên nghĩ đến những điều ấy thôi. Anh sợ! Anh sợ! Có thể rằng, khi chúng ta đã quên mất Đức Chúa của chúng ta! – khi chúng ta đã làm tổn thương đến lòng tôn trọng của mỗi chúng ta đối với linh hồn của nhau – thì sẽ là hão huyền nếu chúng ta hy vọng có thể gặp nhau mai sau trong một cuộc tái hợp đời đời và trong sáng. Chúa biết hết. Người rất rộng lòng bao dung, Người đã chứng tỏ lòng bao dung ấy rõ hơn hết trong những nỗi đau khổ của anh. Bằng cách cho anh mang nỗi cực hình cháy bỏng này đè trên ngực! Bằng cách điều lão già nham hiểm và ghê gớm kia đến, để giữ cho ngọn lửa tra tấn luôn hừng hực thiêu đốt! Bằng cách đưa anh đến đây, để chết cái chết ô nhục mà chiến thắng này trước công chúng! Nếu như thiếu đi một nỗi đau nào trong những nỗi đau ấy, ắt hẳn là linh hồn anh vĩnh viễn rơi xuống hỏa ngục, không hòng cứu vớt được nữa! Ôi sáng danh Chúa đời đời. Ý chí của Người phải được thực hiện! Vĩnh biệt!...
Lời cuối cùng này thều thào thốt ra cùng với hơi thở hắt cuối cùng của chàng mục sư. Từ đám đông, nãy giờ nín lặng, lúc này nổi lên một tiếng kỳ lạ như thoát ra từ nơi sâu thẳm, chứa chất hãi hùng và kinh ngạc, mà vẫn chưa thể nào diễn đạt nên lời, chỉ âm vang thành một tiếng ầm ì như sấm rền trầm đục và buồn thảm, tiễn đưa một linh hồn đang từ biệt cõi đời.