← Quay lại trang sách

Chương 22 Đám Rước

Trong khi Hester Prynne có thể tĩnh trí lại và suy nghĩ xem liệu có gì khả dĩ thực hiện được trong tình huống mới đảo lộn làm sững sờ choáng váng này, bỗng nổi lên tiếng quân nhạc đang tiến gần lại dọc một con đường kế cận. Nó báo hiệu cuộc diễu hành của các vị quyền cao chức trọng đang trên đường đi tới ngôi nhà thờ ở quảng trường. Tại nhà thờ này, theo đúng một tục lệ đặt ra từ thuở ban đầu ấy, và suốt từ ngày đó vẫn được duy trì, Đức Cha Dimmesdale sẽ giảng bài “Thuyết giáo ngày Bầu cử”.

Chẳng mấy chốc, đoạn đầu của đám rước đã hiện ra, với bước đi chậm rãi và trang nghiêm, ngoặt theo một góc phố, rồi đi ngang qua quảng trường họp chợ. Đi đầu là đoàn quân nhạc. Họ dùng nhiều loại nhạc cụ khác nhau, có lẽ không hợp với nhau lắm, và trình độ chơi nhạc cũng không cao ; thế nhưng cũng đạt được mục đích trọng đại của cuộc hòa âm của kèn trống hướng về quần chúng: mục đích đó là truyền một khí sắc tôn nghiêm hơn và hùng dũng hơn cho quang cảnh đang diễu qua trước mắt mọi người. Thoạt tiên bé Pearl thích thú vỗ tay, nhưng ngay sau đó ngừng bặt. Sự bồn chồn đã khiến bé liên tục rộn rực suốt buổi sáng nay bỗng lắng xuống một lúc: bé im lặng đứng nhìn chăm chú và dường như được nâng lên tựa con chim biển nổi bập bềnh trên những ngọn sóng còn nhấp nhô vươn dài của tiếng nhạc. Nhưng rồi bé lại rơi trở vào trạng thái tâm thần kích động như cũ khi nhìn thấy những tia phản chiếu ánh nắng chói lóa trên vũ khí và các bộ giáp trụ sáng loáng của một đại đội quân sĩ đi tiếp sau đoàn quân nhạc, làm đội hộ tống danh dự của cuộc diễu hành. Đội quân này, mà hình thức tổ chức vẫn còn tồn tại qua dòng lịch sử, đã tiếp tục cuộc hành quân từ thuở xa xưa ấy xuống đến đời nay, luôn giữ được một tiếng tăm lâu đời đầy vinh dự. Trong đội ngũ của nó không có thành phần lính đánh thuê, mà chỉ gồm những con người hào hiệp sôi nổi tinh thần thượng võ. Những người này đã tìm cách lập nên một thứ Hội chiến binh: trong hội đó, cũng giống như trong một hội kết giao của những hiệp sĩ dòng tu Templar (1), họ có thể học tập khoa học chiến tranh, và trong chừng mực mà sự tập dượt thời bình có tác dụng đào luyện được cho họ, họ có thể học cách thực hành chiến tranh. Ở tư thế hiên ngang đầy tự hào của mỗi thành viên trong đại hội ấy, người ta có thể thấy rõ sự đánh giá cao của thời đó đối với binh nghiệp. Một số người trong bọn họ, do những thành tích phục vụ ở Hà Lan và trên những chiến trường khác ở châu Âu, đã thật sự xứng đáng với danh hiệu và vinh quang của người chiến sĩ. Hơn nữa, toàn bộ đội ngũ chỉnh tề ấy, trong những bộ giáp bóng lộn, chiếc ngủ lông lắc lư gật về phía trước trên chỏm những chiếc mũ bằng sắt sáng ngời, đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về một sự rực rỡ chói lọi mà không một cuộc biểu diễn nào trong thời hiện đại hòng sánh kịp.

_______

(1) KnightTemplar: Thành viên của một dòng tu vừa mang tính chất tôn giáo vừa mang tính chất quân sự, do quân Thập tự chinh thành lập năm 1118 ở Jerusalem để bảo vệ những kẻ hành hương tới đất thánh.

Tuy nhiên, trước con mắt của một nhà quan sát chín chắn thâm thầm, thì những người có địa vị cao trọng trong giới dân sự, đi diễu hành trong hàng ngũ tiếp ngay sau đội quân hộ tống, lại là những mục tiêu đáng chú ý hơn. Ngay cả ở phong thái bên ngoài, họ biểu thị một tính cách uy nghi đường bệ khiến cho lối đi bước dài ngạo nghễ của người chiến binh nom có vẻ thô kệch, nếu không phải là lố bịch. Trong thời đại ấy, cái mà chúng ta gọi là tài năng được quan tâm đến ít hơn rất nhiều so với hiện nay, còn những nhân tố chắc nặng tạo ra sự vững chãi và chững chạc trong tính cách thì được vô cùng coi trọng. Dân chúng hồi ấy mang nặng bệnh sùng bái di truyền. Thứ bệnh này nếu còn tồn tại trong con người những thế hệ đời sau của họ thì cũng chỉ còn một phần nhỏ, với một sức tác động đã suy giảm đi rất nhiều trong vấn đề lựa chọn và đánh giá những vị thay mặt dân điều hành công cụ. Sự thay đổi cày có thể đưa lại cái hay hoặc cái dở, và một phần nào đó, có lẽ, cả hay lẫn dở. Trong thời xưa ấy, những người Anh đến định cư trên những miền duyên hải hoang dã này – bỏ lại đàng sau tất cả những thứ vua chúa, quý tộc và mọi tầng lớp cao sang đáng kinh khiếp, những trong con người của họ vẫn còn nguyên vẹn một tính năng là lòng sùng bái, mạnh mẽ như một nhu cầu tất yếu – đã đặt cả niềm tôn sùng ấy vào mái đầu bạc và vầng trán tôn nghiêm của tuổi già – vào đạo dức liêm khiết qua thời gian dài thử thách – vào sự từng trải vững vàng và những kinh nghiệm nhuốm đau buồn – vào những thứ khả năng thiên phú có khí chất trang nghiêm và sức nặng cho người ta một ý niệm về tính bềnh vững và được định nghĩa chung là “tự cách đáng kính”. Bởi vậy, những nhà chính khách trong thuở ban sơ ấy, - những Bradstreet, những Endicott, những Dudley, những Bellingham… - được dân chúng lựa chọn đưa lên cương vị quyền lực, dường như thường thường chẳng phải là tài cán gì, mà chỉ nổi lên nhờ tính cách đĩnh đạc chắc nịch chứ không phải nhờ sự linh lợi sắc sảo của trí tuệ. Họ có sức dũng cảm chịu đựng và khả năng tự lực, và trong những thời điểm khó khăn nguy biến họ đứng lên ngoan cường bảo vệ lợi ích dân tộc như một tuyến vách đá đương đầu với sóng bão. Những nét tính cách ấy thể hiện rõ trên vẻ mặt kiên quyết và thể chất phát triển to lớn của các vị quan chức chính quyền mới của miền định cư đang diễu qua kia. Xét về mặt phong thái biểu hiện một uy quyền tự nhiên, nước mẹ Anh quốc sẽ không có gì phải lấy làm hổ thẹn nếu chấp nhận những con người lỗi lạc nhất này của một nền dân chủ thật sự được chọn vào Thượng nghị viện hoặc Hội đồng cơ mật của Hoàng gia Anh.

Đi tiếp sau hàng ngũ các vị quan chức là nhà thần học trẻ ưu tú mà công chúng đang chờ đợi để được nghe giảng bài thuyết giáo thần thánh nhân ngày lễ trọng đại này. Nghề nghiệp của người, trong thời đại ấy, là thứ nghề nghiệp thể hiện năng lực trí tuệ lớn hơn rất nhiều so với nghề làm chính trị. Chưa nói đến một động cơ cao hơn, sự kính trọng gần như là tôn thờ của toàn thể cộng đồng đối với giới tăng lữ đã là một lý do thôi thúc đủ mạnh mẽ để thu hút vào nghề nghiệp này những niềm khát vọng thiết tha nhất. Ngay cả cương vị quyền lực về chính trị cũng nằm trong tầm tay của một giáo sĩ có tài năng – chẳng hạn như trường hợp Increase Mather.

Những người đang đứng nhìn Dimmesdale lúc này nhận thấy rằng kể từ khi anh mới đặt chân tới bờ biển miền Niu Inglơn, chưa bao giờ anh biểu lộ một sinh lực dồi dào như trong dáng đi và khí sắc của anh hôm nay giữa lúc anh đang theo bước mọi người trong đoàn diễu hành kia. Bước chân đi không yếu đuối như mọi lần khác, thân hình anh không còng xuống, bàn tay cũng không còn đặt lên tim một cách thiểu não. Tuy vậy, nếu nhìn chàng giáo sĩ với cách nhìn đúng đắn, thì dường như sức mạnh ấy không phải là của phần thể xác. Có thể nó là của linh hồn, do bàn tay hỗ trợ của các thiên thần truyền cho. Cũng có thể nó là niềm hồ hởi được tạo ra nhờ thứ rượu bổ hiệu nghiệm chỉ chưng cất trên lò lửa nóng rực của quá trình tư duy nhiệt thành và liên tục lâu dài. Hay cũng có thể là khí chất nhạy cảm của anh được tiếp thêm sinh lực bởi tiếng nhạc inh ỏi, chói tai đang cất cao và nâng anh trên cánh sóng bay bổng của nó lên phía trời xanh. Tuy nhiên, trông đôi mắt của người lơ đãng thế kia, không biết liệu Đức Cha Dimmesdale có để tai nghe tiếng nhạc không? Thể xác của người đang cử động kia, tiến về phía trước, với một sự sung sức chưa từng thấy. Nhưng tâm trí của người để ở đâu? Tách ra xa và rút vào sâu trong địa hạt riêng của mình, tâm trí người đang bận rộn, với một súc hoạt động linh lợi phi thường, sắp xếp thành hàng ngũ một cuộc diễu hành của những ý những lời trang trọng chốc nữa sẽ từ địa hạt đó được đưa ra trình bày trước công chúng ; và bởi vậy người không thấy gì, không nghe gì, không biết gì về mọi sự đang diễn ra quanh mình ; nhưng nhân tố tinh thần đang đảm nhận cái thân thể yếu đuối và dẫn nó tiến lên, không cảm thấy đó là một gánh nặng, biến nó thành tinh thần như mình. Những con người có trí tuệ lạ thường mà tinh thần đã mang tính bệnh hoạn thì thỉnh thoảng trong trường hợp đặc biệt lại có khả năng nỗ lực to lớn ấy. Họ ném vào nỗ lực ấy toàn bộ vốn liếng sinh khí trong nhiều ngày của họ, rồi sau đó trở lại tình trạng không có sinh khí trong bằng ấy ngày nữa.

Hester Prynne đưa mắt nhìn chàng mục sư chằm chằm không rời, một cảm giác buồn thảm xâm chiếm cả tâm hồn chị, tại sao và do đâu chị cũng chẳng biết nũa, chỉ thấy anh dường như quá xa xôi cách biệt với môi trường của riêng mình, chị không sao với tới được. Trước đó chị đã hình dung rằng nhất thiết phải có một liếc nhìn nhận ra nhau trao đổi giữa anh và chị. Chị nghĩ đến khu rừng mờ tối, nơi thung lũng nhỏ hiu quạnh, đến tình yêu, nỗi thống khổ, khúc thân cây phủ đầy rêu, nơi đó chị đã ngồi bên anh, tay nắm tay, hòa lẫn tiếng trò chuyện đượm sầu và say sưa của hai người vào tiếng thầm thì u buồn của con suối nhỏ. Lúc đó họ đã thấu hiểu nhau sâu sắc biết chừng nào! Còn bây giờ, có phải là anh đó không? Chị hầu như không nhận ra anh nữa! Con người kia, đang đi qua với vẻ kiêu hãnh, được bao bọc trong âm thanh vang lừng của tiếng nhạc, có thể cho là như vậy, cùng với đoàn diễu hành của những nhà lãnh đạo oai vệ và tôn nghiêm ; con người kia, khó với tới biết bao trên cương vị xã hội của anh, và lại càng khó với tới trong viễn cảnh xa vời của những tư tưởng không đồng cảm của anh, qua đó chị nhìn thấy anh giữa lúc này. Tinh thần chị đổ sụp xuống khi trong óc nảy ra ý nghĩ rằng chắc hẳn tất cả đều chỉ là ảo ảnh, và dù chị đã hình dung thấy một cách sinh động là thế, nhưng giữa chàng giáo sĩ với chị không thể có một mối quan hệ thực tế nào. Và trong con người của chị còn nhiều chất đàn bà đến nỗi khó mà chị có thể tha thứ cho anh – giữa lúc này lại càng ít khả năng hơn cả, khi mà tiếng bước chân nặng nề của Vận Mệnh của họ đang tiến đến gần, mỗi lúc một gần lại, gần lại, gần lại! – khó mà tha thứ việc anh đã có thể rút lui hoàn toàn như vậy ra khỏi thế giới chung của hai người – trong khi chị dò dẫm trong bóng tối mịt mù, giơ hai tay giá buốt ra sờ soạng, mà chả tìm thấy anh đâu.

Pearl như thấy được và chịu ảnh hưởng của những cảm xúc của mẹ, hoặc là chính bé cũng cảm thấy vị mục sư xa vời đằng sau một bức tường cách biệt không thể hiểu thấu được. Trong khi đoàn người tiếp tục diễu qua, bé bứt rứt bồn chồn nhảy tới nhảy lui, như con chim xao xuyến muốn cất cánh bay đi. Đến khi toàn bộ đám rước đã đi qua hết, bé ngước nhìn vào mặt mẹ.

- Mẹ ơi! – Bé nói – Có phải ông ấy cũng chính là ông mục sư đã hôn con bên bờ suối không?

- Im đi con, bé Pearl yêu của mẹ - Người mẹ thì thầm - Ở nơi họp chợ này, chúng ta không được nói hoài đến những gì xảy ra với chúng ta trong rừng.

- Con không chắc có phải là ông ấy đấy không – trông ông ấy lạ quá mẹ ạ - Đứa bé tiếp tục nói – Nếu không con đã chạy lại với ông ấy, đòi ông ấy hôn con ngay lúc này trước mặt mọi người, như ông ấy đã hôn con giữa rừng cây già tối om ấy. Nếu vậy ông mục sư sẽ nói gì mẹ nhỉ? Ông ấy có vội đặt nay lên tim và quắc mắt nhìn con, bảo con xéo đi không hả mẹ?

- Ông ấy sẽ nói là không phải lúc – Hester trả lời con – là có ai lại hôn giữa quảng trường họp chợ này, chứ còn nói gì nữa, Pearl? Cũng may cho con đấy, con bé ngốc nghếch ạ, là con không nói gì với ông ta.

Ấy cũng thứ cảm nghĩ như vậy về mục sư Dimmesdale, dưới một sắc thái khác, lại được một người nữa phát biểu ra. Con người ấy, do tính lập dị - hay phải nói là sự mất trí? – đã làm một điều mà ít người trong thành phố này dám làm: tiếp xúc chuyện trò với kẻ đeo chữ A màu đỏ giữa công chúng. Con người kỳ cục ấy là mụ Hibbins, hôm nay ra đây xem đám rước, diện bộ cánh tuyệt đẹp, với chiếc cổ áo xếp nếp ba tầng, một cái yếm thêu, chiếc áo dài bằng nhung mượt mà lộng lẫy, và chống cây gậy bịt đầu bằng vàng. Vì mụ già này nổi tiếng khắp nơi là vai chính trong tất cả những vụ lên đồng gọi hồn đang xảy ra liên tục (tiếng tăm này về sau đã làm mụ phải trả giá bằng sinh mạng của mình), nên mọi người tránh ra nhường đường cho mụ, và dường như sợ chạm vào quần áo mụ, như thể nó mang bệnh dịch trong các nếp gấp hoa mỹ của nó. Thấy mụ đứng cùng Hester Prynne – dù hiện nay biết bao nhiêu người đã có thiện cảm với Hester đã là thế - nỗi sợ hãi của công chúng đối với mụ Hibbins lại tăng lên bội phần, gây ra một sự nhốn nháo kích động ở nơi có hai người đàn bà này đang đứng trên quảng trường họp chợ.

- Này! Có một đầu óc người trần nào lại có thể tưởng tượng được nào? – Mụ già thì thầm vào tai Hester như với một người tri kỷ - Hãy nhìn vào cái con người siêu phàm kia kìa! Vị thánh giữa trần gian, như mọi người đã xác nhận, và ta phải nói là trông ông ta cũng có vẻ như thế thật! Ai là người lúc này nhìn thấy ông ta đi qua trong đám rước mà ngờ được rằng chỉ mới đây thôi chứ có lâu la gì, ông ta vừa rời khỏi phòng làm việc! – vừa đi vừa lẩm nhẩm nghiền ngẫm một đoạn trích trong Kinh thánh bằng tiếng Hêbrơ, ta đảm bảo như vậy đó – để đi vào rừng hóng mát một cái! Aha! Hester Prynne, chúng ta rất hiểu như thế nghĩa là gì! Nhưng quả thực, ta khó mà tin được con người đang đi diễu hành kia chính là ông ta. Ta đã nhìn thấy nhiều người trong giáo hội bước đàng sau dàn nhạc, nhạc nhún nhảy theo cùng một nhịp điệu với ta, trong khi một Ngài nào đó là tên kéo nhị, và cũng có thể Ngài là một thầy mo của dân da đỏ hay một thầy phù thủy vùng Laplanđ (1) thay tay đổi chủ với chúng ta cũng nên! Đàn bà chúng mình mà biết mùi thế lực thì chỉ là chuyện vặt cãnh. Nhưng đằng này lại là ông mục sư. Nhà chị có thể nói chắc cho ta hay, Hester, có phải ông ta chính là con người đã gặp nhà chị trên con đường trong rừng không?

- Thưa bà, tôi không hiểu bà nói gì – Hester Prynne trả lời, cảm thấy mụ Hibbins đang cơn loạn óc, nhưng giật nảy mình kinh hoảng khi thấy mụ khẳng định một cách quả quyết như vậy mối quan hệ cá nhân giữa nhiều người (trong đó có chị) với quỷ sứ - Tôi không được phép phát biểu một cách tùy tiện về một vị mục sư uyên bác và ngoan đạo của Chúa như Đức Cha Dimmesdale.

- Thôi đi, xin bà – thôi đi! – Mụ già kêu lên vung vẩy ngón tay chỉ vào giữa mặt Hester – Nhà ngươi tưởng rằng con người như ta đây, đã biết bao nhiêu lần đi vào rừng, mà lại không có tài xét đoán xem có ai khác cũng đi vào đấy không ư? Ta biết hết, mặc dù trên tóc chúng không còn vương lại một tí gì của những vòng hoa dại mà chúng tết lên đầu để nhảy múa trong rừng. Ta biết ngươi, Hester, vì ta nhìn thấy cái dấu hiệu kia trên ngực ngươi. Chúng ta đều nhìn thấy nó ban ngày! Còn ban đêm thì nó phát sáng như một ngọn lửa đỏ. Ngươi đeo nó công khai, bởi vậy không còn cần phải bàn cãi gì về nó. Nhưng còn ông mục sư này! Để ta rỉ tai ngươi một điều. Khi Ma vương thấy một trên những bầy tôi của Người đã ký tên và được đóng dấu, mà lại quá nhút nhát không dám thú nhận mối quan hệ giữa gã với người, như Đức Cha Dimmesdale chả hạn, thì Người có một phép xếp đặt các vấn đề sao cho cái dấu đó nhất định phải được bộc lộ ra rõ ràng giữa thanh thiên bạch nhật, trước con mắt của bàn dân thiên hạ. Ông mục sư cố tìm cách giấu cái gì vậy, với bàn tay luôn luôn đặt lên tim? Hả! Hester Prynne?

- Có cái gì ở đấy hả bà, Hibbins? – Bé Pearl háo hức hỏi – Bà đã nhìn thấy chưa?

- À. Không thành vấn đề, cháu yêu quý! Mụ Hibbins vừa trả lời vừa cung kính cúi rạp xuống chào bé Pearl – Thế nào cũng có lúc bản thân cháu sẽ nhìn thấy, không lúc này thì lúc khác. Này cháu! Người ta bảo cháu thuộc dòng dõi ông Chúa Yêu đấy! Cháu có muốn một đêm nào đó tốt trời, cùng với bà đi thăm bố cháu không nào? Lúc ấy cháu nhất định sẽ biết tại sao ông mục sư lại cứ đặt tay lên tim như vậy.

Rồi cất tiếng cười lanh lảnh mà khắp cả quảng trường có thể nghe thấy, mụ già quỷ quái kì dị từ giã hai mẹ con Hester ra đi.

Đúng vào lúc ấy, lễ cầu kinh mở đầu vừa được cử hành xong trong nhà thờ, và người ta nghe tiếng của Đức Cha Dimmesdale cất lên, bắt đầu bài thuyết giáo của mình. Một nỗi xúc động không sao cưỡng lại được đã khiến chị tiến đến khu vực gần đó. Vì ngôi thánh đường đã chật ních những người, không thể thêm một ai chen chân vào được, chị chọn một chỗ đứng bên cạnh cái bục bêu. Đứng ở đây đủ gần để nghe được toàn bộ bài thuyết giáo, tuy không rõ ràng lắm nhưng tất cả những tiếng trầm bổng khác nhau qua đó chị nhận chân được giọng nói rất đặc thù của chàng giáo sĩ đều lọt được đến tai chị.

Cái giọng phát ra những âm thanh ấy tự nó là một khả năng thiên phú kỳ diệu, tuyệt vời đến độ một người đứng nghe dù không hiểu gì thứ ngôn ngữ mà người thuyết giảng đang dùng để nói, vẫn có thể thấy mình được đu đưa êm dịu bởi chỉ riêng tiếng nhạc và nhịp điệu của nó. Giống như một loại âm nhạc khác, nó toát ra hơi thở của đắm say và rung cảm, của mọi nỗi xúc động mãnh liệt hoặc dịu dàng, bằng thứ tiếng mẹ đẻ đối với trái tim con người, dù được truyền thụ ở một địa phương nào đi nữa. Tuy những âm thanh ấy có bị nghẹt lại vì truyền qua những bức tường là thế, mà Hester Prynne vẫn say sưa lắng nghe với một niềm xúc cảm thật mạnh mẽ, một sự cảm thông thật thân thương, đến nỗi bài thuyết giáo từ đầu đến cuối có một ý nghĩa riêng đối với chị. Hoàn toàn tách rời khỏi những lời lẽ không thể phân biệt được rõ của nó. Nếu nghe rõ hơn có lẽ những lời ấy sẽ có thể chỉ là một môi trường trung gian thô thiển hơn làm cho ý nghĩa tinh thần bị cản lại. Lúc thì chị bắt gặp một giọng trầm hẳn xuống, như tiếng gió lắng dịu để nghỉ ngơi ; lúc thì chị thấy mình được nâng lên cùng bay bổng khi tiếng nói cất cao qua những mức phát triển tăng dần của sự ngọt ngào và uy lực cho đến khi âm lượng của nó dường như bao bọc lấy chị trong một bầu không khí hãi hùng và tôn nghiêm trang trọng. Tuy nhiên, dù giọng nói ấy thỉnh thoảng vang động uy nghi là thế, thực chất nó vẫn luôn luôn chứa đựng một sự não nùng. Một tiếng kêu đau to hoặc nhỏ biểu lộ nỗi thống khổ - có thể hiểu là tiếng kêu rên khe khẽ hoặc tiếng thét lớn của loài người đau khổ, làm rung động sợi tơ nhạy cảm trong mọi tâm hồn. Đôi lúc, tất cả những gì có thể nghe thấy chỉ là cái âm thanh xúc động sâu xa ấy, mà cũng khó mà nghe thấy được, buông ra như một tiếng thở dài giữa thinh không im lặng đau buồn! Nhưng ngay cả khi giọng chàng mục sư cất cao sang sảng và oai nghiêm – khi nó trào lên không gì kiềm chế được – khi nó vươn đến múc tột bực về bề rộng và uy lực, ngập ứ trong nhà thờ đến độ muốn phá vỡ bốn bức tường rắn chắc để bung ra truyền lan giữa đất trời – ngay cả khi đó, nếu người ta chăm chú lắng nghe và cố ý tìm cho ra, người ta vẫn có thể lại phát hiện ra được cái tiếng kêu đau đớn ấy. Nó là cái tiếng kêu gì vậy? Tiếng than thở của một trái tim con người, trĩu nặng đau buồn, có thể là mắc tội, đang bộc lộ ra với tấm lòng quảng đại của loài người điều thầm kín ấy, hoặc tội lỗi, hoặc nỗi đau, và cầu xin sự thông cảm hoặc tha thứ - vào mọi lúc – trong mỗi âm tiết phát ra – và lời cầu xin ấy bao giờ cũng được đáp ứng. Chính cái tiếng kêu thầm thì sâu thẳm và liên tục ấy đã tạo nên sức lôi cuốn kỳ diệu của chàng giáo sĩ.

Trong suốt thời gian ấy, Hester đứng yên như một pho tượng dưới chân bục bêu. Nếu như không phải là giọng nói của chàng mục sư đã giữ chân chị lại, thì hẳn là đã có một sức hút không thể nào tránh được tại điểm này, nơi đã đánh dấu giờ khắc đầu tiên của cuộc đời ô nhục của chị. Bên trong chị có một thứ cảm giác – quá mập mờ nên không thể gọi nó là một điều suy ngẫm, nhưng nó luôn đè nặng lên đầu óc chị - thấy rằng tổng thể cuộc đời chị, cả trước đây và về sau nữa, nối liền với cái chỗ này, như thể nối liền với một điểm tạo nên tính đồng nhất của nó.

Trong lúc đó, bé Pearl đã rời khỏi mẹ và tự ý đi chơi lang thang đây đó trong quảng trường họp chợ. Bé như một điểm ánh sáng di động lấp lánh vui mắt giữa màu sắc ảm đạm của đám đông, như con chim có bộ lông sặc sỡ nổi bật thành một nét tươi tắn làm rạng rỡ toàn bộ một vòm lá cây âm u khi nó thoắt tới thoắt lui, khi ẩn khi hiện giữa bóng tối mờ của những đám lá dày đặc. Động tác của bé nhún nhảy giập giờn nhưng thỉnh thoảng lại hối hả đột ngột, tỏ rõ tinh thần bé hôm nay càng bị kích động bội phần, sôi lên không biết mỏi mệt trong những bước nhảy nhót như chân không chạm đất, bởi bé chịu ảnh hưởng và cùng rộn ràng theo sự bồn chồn của mẹ. Mỗi khi Pearl nhìn thấy một người hay vật nào đó kích thích đầu óc hiếu kỳ luôn luôn tích cực sục sạo của bé, thì bé chạy như bay đến, và có thể nói là bé vồ lấy người đó hoặc vật đó như thể là của riêng mình, nếu bé thích, nhưng kiên quyết kiềm chế mình không chịu tỏ ra một cử chỉ nào dù nhỏ nhất để đáp lại. Những người Thanh giáo đứng nhìn bé, và nếu họ có mỉm cười đi nữa thì họ vẫn có chiều hướng muốn lắc đầu tuyên bố là con bé này rõ thuộc nòi yêu quái, khi thấy cái vẻ đầy sức mê hoặc khó tả của sắc đẹp và tính kỳ cục tỏa ra qua con người nhỏ bé của nó và cứ ngời lên mỗi lúc nó tung tăng chạy nhảy. Bé chạy đến nhìn thẳng vào mặt những người thổ dân da đỏ, và những người này bỗng nhận thấy trước mắt mình một bản chất còn hoang dã hơn cả bản chất mình. Từ chỗ đó, bé lại vọt sang nơi khác, và với tính táo bạo bẩm sinh, nhưng vẫn thận trọng dè chừng, bé phóng thẳng vào giữa một nhóm thủy thủ mặt sạm đen, - những kẻ hoang dã của đại dương, như dân da đỏ là kẻ hoang dã trên đất liền. Đám thủy thủ chằm chằm nhìn bé ngạc nhiên và thán phục, như thể một mảng bọt nước biển đã biến thành hình thù một con bé, và được phú cho một linh hồn hun đúc lại từ những ánh lân tinh của biển lấp lánh dưới mũi tàu ban đêm.

Một trong những kẻ đi biển đó – gã thuyền trưởng, người đã đứng nói chuyện với Hester Prynne lúc nãy – say mê cái vẻ bề ngoài ấy của Pearl đến nỗi gã cố tìm cách tóm lấy bé để hôn một cái. Nhưng nhận thấy chạm được vào bé là việc không thể nào làm nổi, chẳng khác gì đuổi bắt một con chim ruồi đang bay trên không, gã bèn cởi chiếc dây chuyền vàng quấn quanh mũ, ném cho bé. Lập tức Pearl quàng sợi dây chuyền ấy quanh cổ và lưng mình một cách khéo léo tài tình đến nỗi sau khi đeo xong, vật trang sức ấy trở thành một phần tất yếu của con người bé, khó có thể hình dung ra bé mà lại thiếu nó được.

- Mẹ cháu là người đàn bà đeo chữ A màu đỏ kia hả? – Người thuyền trưởng hỏi – Cháu có chuyển hộ cho mẹ cháu một lời của ta không?

- Nếu lời nhắn ấy làm cháu vừa ý thì cháu chuyển – Pearl trả lời.

- Vậy cháu nói với mẹ cháu – Gã đáp lại – rằng ta đã nói lại với cái ông bác sĩ già mặt đen vai gù ấy, và ông ta hứa là sẽ đưa người bạn, người mà mẹ cháu đã biết, cùng lên tàu với ông ta. Nói vậy để mẹ cháu khỏi phải bận tâm nữa, chỉ còn lo cho bản thân mẹ cháu và cháu nữa thôi. Thế nào, cháu có nói hộ với mẹ cháu điều đó không, hỡi con nhỏ con phù thủy?

- Bà Hibbins nói bố tôi là ông Chúa Yêu đấy! – Pearl kêu lên với một nụ cười nghịch ngợm. – Nếu ông gọi tôi là đồ xấu xa như thế thì tôi sẽ mách với bố tôi, rồi bố tôi sẽ cho một cơn bão thổi bay tàu của ông đi.

Chạy ngoằn ngoèo qua đám đông trên quảng trường họp chợ, bé Pearl quay trở về bên mẹ và thuật lại với mẹ lời của người thuyền trưởng.. Vậy là, rốt cuộc, tinh thần chịu đựng mạnh mẽ, bình tĩnh và kiên gan của Hester Prynne hầu như đổ sụp hẳn, khi nhìn thấy vẻ mặt hắc ám và tàn nhẫn ấy của số kiếp đọa đày không thể tránh khỏi, hiện ra với nụ cười không thương xót ngay chính giữa đường đi của chị với chàng mục sư, vào lúc mà hai người thấy dường như có một lối thoát cho họ ra khỏi cung mê bất hạnh.

Giữa khi tâm trạng đã rối bời khủng khiếp vì cái tin mà gã thuyền trưởng báo cho chị, Hester Prynne lại còn bị một thử thách đau đớn khác. Trên quảng trường lúc này có nhiều người từ các vùng lân cận đến, đã thường nghe nói đến chữ A màu đỏ mà họ hình dung ra là một cái gì đó thật là kinh khủng do sự tô vẽ của hàng trăm lời đồn sai lạc hoặc phóng đại, nhưng họ chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy chữ A màu đỏ. Những người này, sau khi mọi thứ trò tiêu khiển khác đã cạn, bây giờ tụ tập lại đông nghịt xung quanh Hester Prynne với một thái độ sấn sổ soi mói thật là lỗ mãng và thô bạo. Tuy nhiên, dù cho thái độ của họ sỗ sàng là thế, họ cũng đứng thành một vòng cách chị mấy thước, chứ không dám đến gần hơn. Lực ly tâm của sự ghê tởm do cái biểu tượng huyền bí ấy gây ra đã kìm chân họ lại ở khoảng cách ấy. Toàn bộ đám thủy thủ, khi thấy đông người chen chúc ở đấy và tìm hiểu được ý nghĩa của chữ A màu đỏ, cũng kéo đến và chen những bộ mặt sạm nắng và đầy vẻ liều mạng của họ vào giữa vòng tròn. Ngay cả những thổ dân da đỏ, bị nhiễm lây phần nào tính hiếu kỳ của người da trắng cũng len qua đám đông, đến giương những đôi mắt đen như mắt rắn của họ nhìn chòng chọc vào ngực Hester, có lẽ với nhận thức rằng người phụ nữ mang cái dấu hiệu thêu rực rỡ kia chắc hẳn là một nhân vật có chức vị cao trong xã hội. Và cuối cùng là, những người dân ở ngay đây trong thành phố (sự quan tâm của họ đối với vấn đề đã phai nhạt này nay lại lừ đừ sống động trở lại, do sự giao cảm với những biểu hiện tò mò kích động mà họ nhìn thấy ở những kẻ kia) cũng thơ thẩn kéo tới nơi này, đứng nhìn Hester. Cái nhìn chằm chằm lạnh lùng rất đỗi quen thuộc của họ chĩa vào cái biểu tượng nhục nhã chẳng ai còn lạ gì đó, và giày vò Hester có lẽ còn đau đớn hơn tất cả những cái nhìn khác. Chị nhận ra những khuôn mặt của chính các bà phu nhân, đã đứng trước cửa nhà tù bảy năm về trước chờ chị bước ra ; tất cả trừ một người, người trẻ nhất và duy nhất có tấm lòng thương cảm trong bọn họ, bà này đã mất rồi, chính chị đã khâu tấm áo liệm cho bà. Trong giờ phút cuối cùng này, khi mà chẳng mấy chốc nữa, theo dự định, chị sẽ quẳng được cái dấu cháy bỏng ấy đi, thì quái lạ thay nó lại bỗng nhiên trở thành một điểm trung tâm thu hút sự chú ý và gây kích động nhiều hơn trước, và như vậy để mà nung đốt trên ngục chị càng đau đớn hơn bất kỳ lúc nào kể từ ngày đầu tiên chị đeo nó.

Giữa lúc Hester đứng trong cái vòng ô nhục đầy ma lực ấy, nơi mà sự độc ác xảo quyệt của bản án kết tội chị dường như giam hãm chị vào mãi mãi, thì nhà thuyết pháp được quần chúng ngưỡng mộ đang đứng trên bục giảng thần thánh nhìn xuống một cử tọa mà tất cả tâm hồn, tận đáy sâu kín nhất, đã tự nguyện trao mình cho sự dắt dẫn của người. Người mục sư thánh thiện trong nhà thờ! Người đàn bà mang chữ A màu đỏ trên khu chợ! Làm gì có một đầu óc tưởng tượng nào lại ngạo ngược đến mức dám ước đoán rằng cùng một dấu sắt nung cháy bỏng ấy đã đóng vào cả hai người?

Chú thích:

(1) Lapland: Vùng cực bắc các nước Bắc Âu.