← Quay lại trang sách

Về thăm nhà

Paris có những đứa trẻ, trong rừng có đàn chim. Đàn chim là đàn chim sẻ, lũ trẻ là những thằng “nhóc con”. Bọn trẻ ấy lúc nào cũng vui. Không phải ngày nào cũng có cái ăn nhưng tối nào cao hứng chúng cũng đi xem hát được. Người không mặc áo, chân không đi giày, đầu không có mái che, mình trần thân trụi, chúng giống như những con chim con trên trời. Chúng cũng có những thói quen không hay: thích lê la chỗ này chỗ nọ, thích văng tục chửi thề, đôi khi còn nói lóng, hát nhảm và lúc đói quá thì cũng móc túi, “chôm” đồ song chẳng có chút ác ý nào vì lòng chúng chứa một viên ngọc. Đó là hòn ngọc của tuổi thơ mà ngọc thì có ngâm dưới bùn cũng chẳng tiêu tan trong bùn. Nếu người ta hỏi cái thành phố khổng lồ ấy: “Bọn trẻ ấy là ai?” Thành phố đó sẽ vui vẻ trả lời: “Con tôi đấy!”

Người ta thường thấy hay đi về trên đại lộ Temple và trong vùng Château-d’Eau một em trai nhỏ độ mười một, mười hai tuổi với một nụ cười tươi trên môi và trái tim tràn lòng tin yêu cuộc sống. Em bé đó mặc một chiếc quần dài và một cái áo ngắn nhưng không phải của cha mẹ em. Quần áo ấy là của những người từ thiện đã cho em. Ấy thế mà em cũng có cha mẹ! Nhưng cha em không nghĩ đến em và mẹ em cũng chẳng yêu em. Em bé ấy là một trong những em nhỏ đáng thương hơn cả, có cha mẹ mà lại mồ côi. Em bé ấy cảm thấy không ở đâu khoan khoái bằng ở ngoài đường. Những viên đá lát đường không rắn bằng trái tim mẹ em và những cái nhìn của khách qua đường cũng không lạnh giá bằng đôi mắt của cha em. Với một cú đá, cha mẹ em đã vứt em vào cuộc đời và thế là em bay đi.

Đó là một chú bé vui nhộn, xanh xao, nhanh nhẹn, tinh khôn, ưa chế giễu, có vẻ hoạt bát mà ốm yếu. Chú đi, chú lại, chú hát, chú cười, chú ranh mãnh và bụng đói thì ăn cắp vặt một tí, nhưng ăn cắp mà vui vẻ, hồn nhiên như con mèo hay con chim sẻ. Chú cười khi người ta gọi chú là “nhãi ranh” nhưng tức giận khi người ta gọi chú là “mất dạy”. Chú không có nhà ở, không có bánh ăn, không có lửa sưởi, không có ai yêu, nhưng chú vui sướng vì chú tự do. Dân quanh vùng thường gọi chú là Gavroche.

Nhưng dù bị cha mẹ “mang con bỏ chợ” như vậy, đôi khi cứ hai, ba tháng chú lại nói: “Chà! Mình phải viếng thăm ông bà già một chút chứ!” Thế là chú rời đại lộ, bỏ rạp xiếc, ô Saint-Martin, đi xuống bờ sông, qua cầu, ra ngoại ô đến khu Salpêtrière, đến đúng cái số nhà ghép 50-52, cái nhà nát Gorbeau.

Cái nhà ấy thường vắng vẻ, bỏ không và luôn mang cái biển “có phòng cho thuê” nhưng ít khi có người ở. Những người ở đây, như lệ thường ở Paris, hoàn toàn không quen biết nhau, không có quan hệ gì với nhau, tất cả đều thuộc hạng nghèo khổ.

Những người nghèo khốn nhất trong đám những người thuê này là một gia đình bốn mạng: một người cha, một người mẹ và hai cô con gái đã khá lớn. Cả bốn người ở chung trong một cái buồng tồi tàn. Cái gia đình ấy thoạt nhìn không có vẻ gì đặc biệt ngoài sự túng thiếu cùng cực. Người cha khi thuê buồng báo tên mình là Jondrette [1]. Sau khi đã dọn nhà, lão Jondrette đã nói với mụ cho thuê nhà đồng thời là mụ gác cổng:

- Bà này! Nếu có ai đến hỏi một người Ba Lan, một người Ý hay một người Tây Ban Nha ở đây thì bà chỉ tôi đây nhé!

Đó chính là cái gia đình của chú bé khốn khổ và vui vẻ ấy. Chú bé trở về đây và thấy sự nghèo khổ, cái tiều tụy thảm hại ấy và đáng buồn hơn nữa là không có một nụ cười. Bếp lò lạnh tanh, lòng người cũng lạnh tanh. Khi chú bước vào buồng thì người ta hỏi: “Mày ở đâu về?” Chú trả lời: “Ở ngoài đường”. Khi chú đi nhà lại hỏi: “Mày đi đâu?” Chú trả lời: “Đi ra đường”. Mẹ chú lại bảo: “Thế mày đến đây làm gì?” Mỗi lần cũng chỉ từng ấy câu hỏi, đáp như vậy mà thôi. Chú bé về nhà và lại ra đi trong chớp nhoáng.

Chú bé sống không chút tình thương yêu, cũng như những đám cỏ nhợt nhạt trong hầm tối. Chú không lấy thế làm đau khổ mà cũng không trách ai. Chú cũng không biết đúng ra một ông bố, một bà mẹ thì phải như thế nào với con cái. Ấy thế mà bà mẹ lại rất yêu thương hai chị của chú.

Do thủ đoạn lừa lọc, tống tiền, cha mẹ chú Gavroche và đồng bọn bị sa lưới pháp luật. Không hay biết tai biến đã xảy ra với gia đình mình, Gavroche ít hôm sau lại về thăm nhà như thường lệ. Trời đã tối hẳn, giữa tháng Hai giá rét mà chú bé chỉ mặc một cái quần vải. Chú bé xanh xao, gầy guộc và rách rưới ấy vừa đi vừa hát vang. Ở góc phố Petit-Banquier, một bà già đang lom khom bới đống rác dưới ánh đèn treo ngoài phố. Chú bé đi qua chạm phải bà già, liền lùi lại và kêu lên:

- Kìa! Thế mà mình tưởng là một chú chó kếch sù, kếch sù.

Mắt nheo nheo, miệng chú chu lại, còn tay thì huơ trong không trung. Lần thứ hai nói tiếng kếch sù, chú rống lên một cách hài hước. Có lẽ phải viết hoa lên mới hình dung đúng cách nói đó. Một chú chó kếch sù, KẾCH SÙ. Bà già ngẩng lên giận dữ, làu bàu nói:

- Thằng oắt con! Nếu bà không cúi xuống thì bà đã đá cho mày một cái toạc mông.

Đứa bé đi xa còn quay lại kêu lên:

- Êu! Êu! Hóa ra mình không nhầm.

Bà già tức uất người lên, đứng thẳng dậy, ngọn đèn đỏ lòm chiếu rõ khuôn mặt nhợt nhạt, xương xẩu, nhăn nheo của bà. Cả người bà lẫn trong bóng tối, chỉ còn trông thấy cái đầu. Có thể nói đây là khuôn mặt của còm cõi lồ lộ dưới ánh đèn trong đêm tối. Đứa bé ngắm bà, nhăn mặt lại rồi nói:

- Thưa bà! Cái nhan sắc của bà thuộc loại tôi không ưa cho lắm.

Nói rồi chú quay người, lắc mông một cách giễu cợt như anh hề ở rạp xiếc. Thế rồi chú vừa đi vừa hát:

“Vua Coupdesabot

Lên đường đi săn

Đi săn chim quạ...”

Hát hết ba câu, chú ngừng bặt. Chú đến ngay trước số nhà 50-52. Thấy cổng đóng, chú lấy chân đạp. Tiếng đạp kêu ầm ầm, hùng dũng. Không phải cái bàn chân nhỏ của chú đạp cổng ầm lên như thế mà là do đôi giày người lớn chú đang đi. Bà già mà chú vừa gặp ở phố Petit-Banquier liền chạy đến đứng đằng sau chú. Mụ vừa hoa chân múa tay vừa kêu la om sòm:

- Trời ơi! Cái gì thế? Cái gì thế? Đứa nào đạp cửa, đứa nào phá nhà tao thế?

Tiếng chân đạp cửa vẫn ầm ầm không ngớt.

- Bây giờ người ta xử sự với nhà cửa như thế à?

Mụ bỗng dừng lại, nhận ra đứa bé.

- Thế nào? Lại thằng quỷ Satan này ư?

- Kìa! Bà già! Chào bà Burgonmuche. Tôi về thăm các cụ tổ nhà tôi đây.

Cái mặt già nua xấu xí nhăn lại một cách thù hằn nhưng uổng công vì đứa bé chẳng nhìn thấy gì trong bóng tối.

- Chẳng có ai cả, nhãi ạ!

- Sao? Thế cha tôi đâu?

- Ở khám lớn.

- Vậy mẹ tôi?

- Ở nhà giam.

- Còn các chị tôi đi đâu?

- Ở trong bốt.

Đứa bé gãi tai, nhìn bà Burgonmuche, kêu lên:

- Thế à!

Rồi chú xoay gót bước đi. Lát sau, bà già đứng trên ngưỡng cửa còn nghe tiếng hát trong trẻo, ngây thơ của đứa nhỏ:

“Vua Coupdesabot

Lên đường đi săn

Đi săn chim quạ

Cụ đi cà kheo

Người chui dưới cụ

Phải nộp hai xu”.

Dần dần, cái bóng nhỏ bé của chú chìm sâu vào trong đêm, dưới những lùm cây đang rùng mình trước ngọn gió đông ẩm ướt.

Chú thích:

[1] Thénardier - cha của Gavroche là kẻ bất lương, do đó hắn lấy nhiều tên, nhiều loại quốc tịch khác nhau để dễ hành động mờ ám.