← Quay lại trang sách

Đôi cánh trên chiến lũy

Đám đông mỗi lúc một đông thêm. Đến phố Billettes, một người cao lớn, tóc hoa râm cũng nhập bọn. Courfeyrac, Enjolras thấy hắn có vẻ lầm lì và táo tợn, nhưng không ai biết rõ hắn. Gavroche chỉ lo hát hỏng, huýt sáo, nói chuyện, lấy báng súng của cái súng không cò mà đập vào cửa chớp các hiệu buôn nên cũng không để ý đến hắn.

Đến phố Verrerie, cả bọn đi qua cửa nhà Courfeyrac, Courfeyrac nói:

- Hay quá! Tớ quên tiền lại mất cả mũ!

Anh bỏ đám đông chạy lên cầu thang bốn bậc một. Anh lấy ra cái mũ cũ và cái túi tiền. Anh còn lôi ra một cái thùng vuông to như một cái va-li lớn, bấy lâu vẫn khuất trong đống quần áo bẩn. Anh mang tất cả chạy vội xuống thang gác thì bà gác cổng gọi với:

- Ông De Courfevrac ơi!

Courfevrac hỏi vặn lại:

- Tên bà là gì?

- Ông biết chán tên tôi mà! Tôi là bà Veuvain.

- Này, tôi nói cho bà biết: bà còn gọi tôi là ông De Courfeyrac thì tôi sẽ gọi bà là bà De Veuvain cho mà xem. Bây giờ bà hãy nói nhanh đi! Có việc gì thế?

- Có người muốn nói chuyện với ông.

- Ai vậy?

- Tôi không biết.

- Ở đâu?

- Trong buồng của tôi.

- Mặc xác!

- Nhưng người ta đã đợi ông hơn một tiếng đồng hồ rồi!

Vừa lúc ấy, một người ở trong buồng đi ra, trông có vẻ là một công nhân trẻ tuổi, gầy gò, xanh xao, nhỏ nhắn, mặt có những nốt đỏ. Hắn mặc áo bờ-lu, quần nhung vá, giống như con gái mặc giả trai. Nhưng giọng nói của hắn không có vẻ đàn bà chút nào.

- Thưa ông, tôi muốn gặp ông Marius.

- Ông ta không có nhà.

- Tối nay ông ta có về không?

- Tôi không biết. - Và Courfeyrac nói tiếp - Còn tôi thì tôi không về!

Người trẻ tuổi nhìn anh chăm chú và hỏi:

- Tại sao thế?

- Bởi vì...

- Ông đi đâu vậy?

- Anh hỏi làm gì?

- Ông có muốn tôi mang cái thùng này hộ ông không?

- Tôi ra chiến lũy.

- Tôi đi với ông có được không?

- Tùy ý! Đường phố thênh thang ai muốn đi thì đi.

Và anh bỏ chạy ra ngoài để đi với các bạn. Gặp họ, anh đưa cái thùng cho một người mang. Một khắc đồng hồ sau, anh mới nhận ra rằng gã thanh niên kia cũng nhập bọn với họ.

Một đám đông ngẫu nhiên tụ họp như có ngọn gió cuốn đi nhưng không phải muốn đi đâu thì đi. Họ vượt qua phố Saint-Merry và không hiểu sao lại đưa nhau đến phố Saint-Denis.

Ở đây, một nhóm thanh niên đang tụ tập tại một quán rượu. Họ vừa uống rượu vừa tranh luận về thời cuộc, về khởi nghĩa. Bossuet say khướt nhưng vẫn bình tĩnh. Anh ngồi lên bậu cửa sổ để ngỏ, đưa lưng ra hứng mưa và nhìn các bạn. Bỗng nhiên anh nghe tiếng ồn ào sau lưng, tiếng chân chạy hấp tấp, tiếng kêu: “Hãy cầm súng”. Anh quay lại và nhận thấy ở phố Saint-Denis, cuối phố Chanvrerie có một đoàn người. Đó là Enjolras đang đi qua, súng cầm tay rồi Gavroche với khẩu súng ngắn của nó, Feuilly cầm mã tấu, Courfeyrac cầm gươm, Jean Prouvaire với khẩu mút-cơ-tông, Combeferre mang súng, Bahorel xách các-bin cùng với tốp vũ trang ồn ào sôi nổi đi theo họ. Phố Chanvrerie dài không quá một tầm các-bin. Bossuet lấy hai bàn tay làm ống loa gọi:

- Courfeyrac! Courfeyrac! Lại đây.

Courfeyrac nghe tiếng gọi, nhìn thấy Bossuet, anh tiến mấy bước vào phố Chanvrerie, hỏi to:

- Cậu cần gì?

Câu hỏi ấy cùng lúc với câu Bossuet hỏi:

- Cậu đi đâu đấy?

Courfeyrac trả lời:

- Dựng một chiến lũy.

- Nào, thì ta dựng ở đây đi. Chọn chỗ này thật là tuyệt!

- Đúng đấy, Phượng hoàng ạ! - Courfeyrac đáp.

Courfeyrac ra hiệu, cả đoàn lao vào phố Chanvrerie. Chỉ trong mấy phút họ đã tháo được hai mươi cái song sắt ở chỗ trước cửa quán và nạy được hai mươi thước đá lát đường. Gavroche và Bahorel rồi Enjolras, Feuilly... mọi người đều cố gắng làm một việc để góp phần xây dựng chiến lũy. Các xe bò được lật úp xuống, thùng rượu trống đã được khuân ra, các chồng đá to tướng được xếp vào để chống đỡ cỗ xe.

Họ tháo cả những đòn chống trước mặt một nhà lân cận và đặt nó nằm trên các thùng rượu. Khi Bossuet và Courfeyrac quay lại thì một nửa phố đã bị một bức lũy cao quá đầu người chắn ngang.

Thực không ai bằng quần chúng trong việc phá hoại để xây dựng. Bahorel say sưa với chiến lũy, kêu lên:

- Xem đường phố mặc áo cổ bẻ đẹp chưa?

Courfeyrac vừa dỡ quán rượu vừa an ủi bà chủ quán:

- Bà Hucheloup! Chẳng phải hôm nọ bà đã phàn nàn rằng người ta làm biên bản và phạt bà chỉ vì con Gibelotte đã giũ nệm qua cửa sổ là gì?

- Đúng thế, ông Courfeyrac tốt bụng ạ! Lạy Chúa! Ông cũng vứt cái bàn ấy vào chiến lũy của ông à? Cũng vì cái nệm ấy và cũng vì một chậu hoa trên cửa sổ rơi xuống mà nhà nước lấy của tôi mất năm franc tiền phạt. Ông thấy có phải quá vô lý không?

- Bởi thế chúng tôi báo thù cho bà đây, bà Hucheloup ạ!

Họ đốt một số lò sưởi trong nhà bếp để thổi chảy tất cả những thìa nĩa, ly cốc bằng thiếc mạ bạc trong quán rượu rồi đổ vào khuôn đạn. Họ vừa làm vừa uống rượu. Trên bàn bày la liệt những hạt kíp, những đạn lớn, đạn con cùng với những cốc rượu vang. Trong buồng bi-a, thầy trò bà Hucheloup xé khăn lau cũ để làm băng rịt thuốc.

Courfeyrac, Combeferre và Enjolras có để ý đến một người dáng vóc cao lớn, nhập bọn lúc đoàn người đi qua phố Billettes. Nhưng rồi công việc bận rộn làm họ lãng quên. Người ấy bây giờ đang góp sức xây dụng chiến lũy nhỏ, trông chừng cũng được việc. Gavroche thì làm việc ở chiến lũy lớn một cách hăng say, bền bỉ, hào hứng và có sức thúc đẩy công việc lạ thường. Chú đi, chú lại, chú chạy lên chạy xuống, lúc thì xuýt xoa, khi thì tươi cười. Hình như chú đến đây để khuyến khích mọi người. Chú có kim chích chăng? Có đấy, đó là do cảnh nghèo đói của chú. Chú có cánh chăng? Cũng có, đó là sự hân hoan của chú. Chú là sự quay cuồng, là cơn lốc. Người ta luôn luôn trông thấy chú, luôn luôn nghe tiếng chú. Chú là cái ám ảnh gần như khó chịu vì không thể nào dừng lại một phút với chú. Cái chiến lũy to tướng như cảm thấy có chú cưỡi trên lưng. Chú làm cho những anh lêu têu, lè phè phải ngượng ngùng, xấu hổ. Chú kích thích người làm biếng. Chú hồi sức cho người mệt nhọc. Chú chọc tức những anh mơ màng. Vì chú mà kẻ này vui lên, kẻ kia thêm hăng hái, kẻ nọ nổi nóng. Có điều ai ai cũng hoạt động sôi nổi hơn lên. Chú châm anh sinh viên này, đốt anh thợ kia, đáp xuống, dừng lại, bay đi, lượn trên cảnh huyên náo, nhảy từ người này qua người nọ, vo ve, vù vù, hành tội đoàn ngựa kéo. Gavroche là con ruồi của cỗ xe cách mạng vĩ đại. Đôi cánh tay nhỏ của chú là sự chuyển động thường trực, hai lá phổi tí hon của chú chứa đựng sự huyên náo không ngừng.

- Giỏi lắm! Chất thêm gạch đá lên! Thêm thùng rượu nữa! Nữa, thêm cái gì nữa chứ! Ở đâu có những thứ này nhỉ? Nào, cho tôi một giò vôi gạch vụn để nhét vào lỗ hổng này. Ồ, cái chiến lũy của các ông chả ra làm sao cả. Nó nhỏ quá! Phải cho nó cao, to hơn nữa đi. Có cái gì đem xếp cả lên đây! Vứt cả lên đây! Ném mẹ nó cả lên đây! Đập nhà ra mà bỏ vào. Một chiến lũy chứ có phải cái chợ đâu. Một chiến lũy cũng như một bữa tiệc trà ở nhà hàng mụ Gibou. À đây này! Còn cái cửa kính nữa này.

Mọi người la ó:

- Cửa kính à? Cửa kính để làm quái gì, hỡi chú bé hạt mít kia?

Gavroche cãi lại:

- Các anh là bị thịt thì có! Dựng chiến lũy mà có cửa kính thì tuyệt. Cửa kính không ngăn được tấn công, nhưng chiếm được chiến lũy cũng khó. Thế các anh chưa bao giờ trèo tường có cắm mảnh chai để hái trộm táo à? Cửa kính, ừ cửa kính sẽ cắt mẹ chân của lũ quốc dân quân nếu chúng leo lên chiến lũy. Lạ gì, cái thứ thủy tinh là chúa phản phúc. Thế ra các anh em chẳng có chút trí tưởng tượng nào cả, các anh em ạ!

Gavroche lại còn tức điên ruột vì khẩu súng ngắn không có cò của mình nữa. Chú chạy hết từ người ngày đến người khác, luôn mồm đòi hỏi:

- Súng đâu? Tôi cần một khẩu súng! Tại sao không phát cho tôi một khẩu súng?

- Phát súng cho mày à? - Combeferre nói.

- Ơ kìa! Sao lại không kia chứ? Năm 1830, khi đánh nhau với Charles X, tôi vẫn được phát một cây súng mà.

Enjolras nhún vai.

- Khi nào người lớn có đủ súng thì sẽ phát cho trẻ con.

Gavroche kiêu hãnh quay lại, bảo:

- Hễ đằng ấy chết trước thì tớ sẽ lột súng tớ lấy đấy!

- Đồ nhãi con! - Enjolras buột miệng.

- Còn hơn là bạch diện. - Gavroche trả miếng, giễu cái dáng học trò của Enjolras.

Vừa lúc ấy, một chàng công tử bột đi thơ thẩn lạc đến, làm cho họ quên phắt chuyện cãi cọ. Gavroche gọi hắn:

- Ê! Thanh niên kia! Lại đây với chúng tớ. Nào, cũng phải làm một cái gì cho bác Tổ quốc già này với chứ?

Chàng công tử hoảng quá bỏ chạy mất.

Sau một thời gian tập trung sức lực, chiến lũy đã được dựng xong. Các vị trí chiến đấu đã có người giữ. Súng đã nạp đạn, người gác đã được bố trí. Họ cùng đứng vững bên nhau giữa những đường phố vắng tanh, xung quanh là những ngôi nhà lầm lì yên lặng, vắng hết bóng người như đã chết. Xung quanh họ, bóng sẫm của buổi chiều tà mỗi lúc một dày. Giữa cảnh âm u, tĩnh mịch, người ta cảm thấy có một cái gì ghê gớm, hãi hùng đang tiến đến và mọi người tay nắm vũ khí cương quyết và bình tĩnh chờ đợi.

Người ta thắp một ngọn đèn con ở chiến lũy nhỏ. Còn ở chiến lũy lớn thì có một cây đuốc cháy sáng. Đường phố và chiến lũy vẫn chìm trong bóng tối nên chỉ thấy ngọn cờ đỏ uy nghi rực rỡ như được soi sáng bởi một ngọn đuốc được vây quanh bởi một cái lồng bằng đá. Ánh đuốc đỏ nhuốm thêm cho màu đỏ của lá cờ một màu huyết dụ dữ dội.

Đêm xuống hẳn, vẫn chưa xảy ra việc gì. Nghe vẳng tiếng ồn ào không rõ tiếng gì, thỉnh thoảng có tiếng súng đì đùng nhưng rời rạc và xa xôi.

Enjolras cảm thấy nóng ruột như tất cả những người dũng cảm khi phải chờ đợi một sự việc hiểm nghèo. Anh tìm Gavroche. Nó đang lo chế đạn trong phòng thấp, dưới ánh đèn lờ mờ của hai ngọn nến đặt rất xa trên quầy hàng, để lửa khỏi bén vào thuốc súng trên bàn. Ánh sáng của ngọn nến không tỏa ra ngoài... Nghĩa quân đã đề phòng không thắp gì trên các tầng gác.

Bây giờ, Gavroche đang đăm chiêu suy nghĩ, không phải suy nghĩ về việc chế đạn. Thằng cha gặp ở đường Billettes vừa bước vào phòng. Hắn đến ngồi cạnh cái bàn xấu nhất. Hắn cắp vào đùi một khẩu súng trận lớn. Nãy giờ Gavroche cứ nghĩ đến trăm ngàn trò thú vị nên không nhìn thấy hắn.

Lúc hắn bước vào, Gavroche đưa mắt nhìn một cách tự nhiên. Chú khen thầm khẩu súng. Đột nhiên khi hắn ta ngồi xuống thì thằng bé đứng dậy. Giá có ai theo dõi hắn ta từ trước thì đã thấy hắn ta quan sát tất cả mọi việc trong chiến lũy và theo dõi nghĩa quân rất chăm chú. Nhưng từ khi bước vào phòng thì hắn có vẻ trầm ngâm như không nhìn thấy cái gì ở xung quanh. Chú bé lại gần anh chàng tư lự kia, rón rén đi xung quanh như sợ đánh thức hắn dậy, đồng thời trên khuôn mặt trẻ con của chú, cái bộ mặt vừa lấc cấc lại vừa đứng đắn, vừa bộp chộp đồng thời rất sâu sắc, có khi vui vẻ mà có lúc lại buồn não ruột, ta thấy xuất hiện những cái nhăn nhó của ông già. Hình như chú đang tự hỏi: “Phải rồi! Không thể thế được! Mình đoán sai chăng? Mình mê ngủ chăng? Hay chính là... Không phải đâu! Đúng rồi chứ gì nữa! Không phải”. Gavroche lắc lư thân người, hai tay nắm chặt đút trong túi quần, cổ quay quay như cổ một con chim. Chú bĩu dài môi dưới ra vẻ thạo đời. Chú ngơ ngác hoài nghi, không chịu tin nhưng rồi lại như vỡ lẽ và cảm thấy bàng hoàng. Tất cả con người của chú đang làm việc, bản năng đang đánh hơi, óc đang suy tính. Rõ ràng Gavroche gặp phải biến cố gì đây. Chính lúc chú đang băn khoăn cao độ như thế thì Enjolras đến gần, nói:

- Chú nhỏ người, người ta không trông thấy chú. Chú hãy ra ngoài chiến lũy, men theo hai dãy phố xem thử ngoài đó có gì không, rồi về đây báo cho tôi biết...

Gavroche đứng rướn người lên.

- Thế ra trẻ con cũng được việc đây nhỉ! May thế chứ! Em xin đi ngay. Nhân tiện nói cho anh biết, anh nên tin trẻ con chứ đừng tin người lớn...

Rồi Gavroche ngước đầu lên và hạ thấp giọng, chỉ thằng cha gặp ở phố Billettes:

- Anh thấy thằng cha cao lớn ấy chứ?

- Có, thì sao?

- Mật thám đây!

- Chắc không?

- Thì mới mười lăm hôm trước, em hóng mát trên cầu Royal, bị nó xách tai.

Enjolras liền bỏ chú bé và quay qua nói thầm mấy tiếng với một công nhân đang đứng đấy. Anh này ra khỏi phòng rồi lại quay vào ngay với ba người nữa. Tất cả bốn người đều là phu khuân vác lực lưỡng. Họ lẳng lặng đến đứng sau cái bàn có kẻ khả nghi đang ngồi, không để cho hắn biết gì hết, rõ ràng họ chỉ chực vồ lấy hắn. Enjolras đến gần hắn, hỏi:

- Anh là ai?

Nghe câu hỏi đột ngột ấy, hắn giật nẩy mình. Hắn nhìn chòng chọc vào cặp mắt trong sáng, trung thực của Enjolras và đọc ý nghĩ của anh. Hắn mỉm cười, nụ cười khinh bỉ nhất trên đời nhưng cũng quả quyết nhất, cương nghị nhất. Hắn trả lời đàng hoàng:

- Ta biết rồi... phải đấy!

- Anh là mật thám phải không?

- Ta là nhân viên nhà nước.

- Tên anh là gì?

- Javert.

Enjolras ra hiệu cho bốn người kia. Chỉ trong chớp mắt, Javert chưa kịp quay lại đã bị túm cổ, vật ngã xuống đất, trói gô lại và lục soát khắp người.

Trong người hắn có một thẻ tròn dán ép vào giữa hai miếng kính, một mặt in quốc huy nước Pháp, dưới có dòng chữ “Giám sát và cảnh giác”, còn mặt kia “Javert, thanh tra cảnh sát, năm mươi hai tuổi”, và chữ ký của Thị trưởng cảnh sát lúc bấy giờ là Gisquet. Hắn lại có một cái đồng hồ và một túi tiền, trong đó chỉ có mấy đồng tiền vàng. Người ta trả lại cái đồng hồ và túi tiền cho hắn. Dưới cái đồng hồ ở đáy túi con, họ lần ra được một tờ giấy bỏ trong phong bì. Enjolras mở ra. Có những dòng chữ do chính tay Thị trưởng cảnh sát viết: “Làm xong nhiệm vụ chính trị, thanh tra Javert sẽ đi thám thính đặc biệt, xem có đúng là bọn gian phi hành động ở phía hữu ngạn sông Seine, gần cầu Léna không”. Khám xong, người ta dựng Javert dậy, trói giật cánh khuỷu buộc vào cái cột ở giữa phòng thấp. Gavroche từ nãy giờ vẫn theo dõi mọi việc vui vẻ gật đầu. Chú bé đến gần Javert, nheo nheo đôi mắt.

- Chuột bắt mèo đấy nhé!

Công việc này hoàn thành rất nhanh. Khi xung quanh biết thì đã đâu vào đấy rồi. Javert không kêu một tiếng. Thấy hắn bị trói vào cột, Courfeyrac, Bossuet, Joly, Combeferre và những người đứng tản mát ở hai chiến lũy chạy lại. Enjolras nói:

- Một thằng mật thám!

Và quay về phía Javert.

- Mày sẽ bị bắn trước khi chiến lũy thất thủ hai phút.

Javert đáp, giọng hách dịch vô cùng:

- Làm ngay đi có được không?

- Còn phải tiết kiệm đạn chứ!

- Thế thì cho một nhát dao là xong!

- Đồ mật thám! - Chàng Enjolras đẹp trai nói - Chúng tao xử án mày chứ có phải ám sát mày đâu.

Rồi quay lại phía Gavroche, anh bảo:

- Còn chú, chú đi đi. Nhớ làm cái điều tôi dặn đấy.

- Em đi đây!

Gavroche trước khi đi còn dừng lại, nói:

- Nhân tiện anh cho em khẩu súng của hắn.

Và chú nói thêm:

- Em giao ông nhạc sĩ cho anh đấy, em chỉ xin cái kèn thôi.

Chú bé chào quân sự rồi vui vẻ chui qua khe hở của chiến lũy lớn, lách ra ngoài.

Trong số những người đã gia nhập đám đông do Enjolras, Combeferre và Courfeyrac dẫn đầu, có một người mặc áo phu khuân vác sờn vai. Người ấy múa may hò hét như một tên say rượu hung hãn. Người ấy là Le Cabuc. Le Cabuc đã say mềm - hoặc vờ như thế - cùng mấy người nữa kéo bàn ra trước quán đánh chén với nhau. Hắn vừa chuốc rượu cho mấy người nhâm nhi cùng mình vừa ngắm nghía ra chiều nghĩ ngợi về tòa nhà to ở tận cùng bên trong chiến lũy. Tòa nhà năm tầng ấy đứng lù lù trên đường phố đối diện với phố Saint-Denis. Bỗng Le Cabuc kêu:

- Các đồng chí! Các đồng chí có biết không? Phải đứng trong tòa nhà ấy mà bắn ra. Chúng mình mà núp ở các cửa sổ thì liệu hồn mấy thằng dám bén mảng tiến lên.

- Đúng! Nhưng nhà đó đóng kín cửa cả rồi! - Một anh cùng bàn đáp.

- Ta gõ cửa!

- Người ta không mở đâu.

- Thì ta phá cửa!

Le Cabuc chạy đến cửa. Trên cửa có treo một cái búa khá nặng. Hắn lấy búa gõ. Cửa không mở. Hắn đập một lần nữa. Cũng không ai trả lời. Một tiếng thứ ba. Vẫn yên lặng. Le Cabuc thét:

- Có ai ở trong nhà này không?

Vẫn không thấy có gì động đậy. Le Cabuc bèn vớ một khẩu súng, trở báng nện thình thình. Cái cửa ấy làm bằng gỗ sồi có nẹp sắt rất chắc chắn. Báng súng làm rung động cả ngôi nhà nhưng cửa vẫn không lay chuyển. Tuy vậy, tiếng báng súng cũng làm kinh động đến những người ở trong nhà, cho nên ở tầng ba có một cái cửa sổ vuông nhỏ bừng sáng và mở ra.

Người gác cổng cầm một cây nến, nhô mái đầu bạc, mặt ngẩn ngơ hốt hoảng.

- Thưa các ông! Các ông cần gì ạ?

- Mở cửa!

- Thưa các ông, không thể được ạ!

- Cứ mở!

- Không thể được, các ông ạ!

Le Cabuc đưa súng lên vai ngắm người gác cổng. Trời tối mà hắn lại đứng dưới thấp nên ông già không nhìn thấy hắn.

- Mày có mở cửa không nào? Mày nhất định nói không đấy à?

- Không được! Thưa quý...

Người gác cổng chưa nói hết câu, súng đã nổ, viên đạn trúng vào dưới cằm, xuyên mạch cổ, chui ra phía sau gáy. Ông già ngã ngục xuống. Cây nến rơi tắt phụt, chỉ còn làn khói lờ mờ. Le Cabuc thả rơi báng súng xuống nền phố, nói:

- Thế là hết đời!

Hắn vừa nói xong thì cảm thấy có một bàn tay nặng trịch như móng chim ưng đặt lên vai hắn và nói bằng giọng ra lệnh:

- Quỳ xuống!

Tên sát nhân quay lại và nhận ra khuôn mặt trắng trẻo, lạnh lùng của Enjolras. Bàn tay trái anh vừa tóm cổ, vừa tóm áo choàng, áo sơ-mi và dây đeo quần của Le Cabuc. Anh lặp lại:

- Quỳ xuống!

Bằng một miếng võ tuyệt diệu, chàng thanh niên mảnh khảnh uốn thằng du côn nở nang, mạnh khỏe như uốn một cây lau và đè nó quỳ lên bàn. Le Cabuc cố cưỡng lại nhưng không được, hắn run cầm cập. Enjolras buông hắn ra rồi rút đồng hồ xem và nói:

- Mày hãy tĩnh tâm đi. Cầu nguyện hay suy nghĩ gì tùy ý. Cho mày một phút.

Thằng sát nhân van vỉ:

- Tha chết cho tôi!

Enjolras vừa nhìn đồng hồ vừa lên đạn. Le Cabuc rú lên kinh hãi, thu người áp vào đầu gối anh. Anh nắm tóc hắn, gí miệng súng vào tai hắn. Súng nổ. Tên sát nhân ngã sấp mặt xuống đường. Enjolras lấy chân hất xác chết ra ngoài. Anh đăm chiêu suy nghĩ. Nghĩa quân vẫn đứng vây quanh anh. Bỗng anh cất giọng trầm hùng:

- Đồng bào! Tội ác của thằng ấy thật là ghê rợn, mà việc tôi làm cũng đáng kinh tởm biết bao! Nó giết người nên tôi phải giết nó. Làm cách mạng phải nghiêm lệnh. Giết người ở đâu cũng là tội ác, ở đây lại càng là một tội ác lớn. Chúng ta là những người xả thân vì nghĩa vụ, chúng ta không được để cho ai có cớ vu khống cuộc chiến đấu của chúng ta. Vì vậy, tôi đã nhân danh cách mạng xử tử tên kia. Về phần tôi, bị bức bách phải làm việc đó, tôi cũng đã luận tội và lát nữa tôi sẽ xử tội mình.

Những người đứng nghe đều rùng mình. Combeferre thét lớn:

- Chúng tôi tự nguyện chịu chung số phận với đồng chí!

- Vâng, thế cũng được! Tương lai sẽ không còn bóng tối, không còn sự tàn ác ngu dại, không có những hình phạt đẫm máu. Tương lai sẽ không còn ai giết ai, con người chỉ biết yêu thương. Cái ngày ấy sẽ đến, đồng bào ạ! Cái ngày mà tất cả sẽ là thân ái, là ánh sáng, là vui, là sống. Cái ngày ấy không xa. Và chính vì muốn cho nó đến mà chúng ta sắp phải hy sinh đấy!

Jean Prouvaire và Combeferre lặng lẽ siết tay nhau. Cả đoàn nghĩa quân đang xúc động về vụ án bi hùng kết thúc nhanh chóng thì Courfeyrac mới thấy người thanh niên bé bỏng lúc sáng đã đến tìm Marius cũng ở trong chiến lũy. Người thanh niên có vẻ dạn dĩ, vô tư ấy đã đến gia nhập nghĩa quân lúc chập tối.

Về sau, khi cuộc chiến đấu kết thúc. Lúc kiểm tra xác chết, người ta tìm thấy trong người Le Cabuc một tấm thẻ nhân viên Sở An ninh. Có lẽ hắn được phái đến để chia rẽ, phá rối nghĩa quân.