Gavroche hành quân
Bị áp bức bóc lột nặng nề, Paris đã khởi nghĩa. Cả một bầu không khí sôi sục ẩn náu dưới vỏ ngoài thầm lặng đã diễn ra trước ngày khởi nghĩa. Từng lúc, Paris có vẻ nhuốm thêm máu lửa chiến tranh ảm đạm và dữ dội của cuộc bạo khởi. Cuộc khởi nghĩa nổ ra từ sự va chạm giữa công chúng với quân đội ở trước xưởng quân khí. Sự va chạm đó làm nổ ra sự biến động của đám đông đi theo xe tang của tướng Lamarque, một vị tướng yêu nước và dũng cảm, được nhân dân yêu mến. Đám đông đó kéo dài suốt các đại lộ. Lúc bây giờ, đám tang dồn lại một cách đáng sợ. Dân chúng ùn ùn, mất cả hàng ngũ, nhốn nháo, kẻ đi, kẻ chạy, người tìm cách thoát ra, kẻ reo hò tấn công. Con sông người chảy trên các đại lộ chia dòng trong nháy mắt, tràn qua trái, lan qua phải, nhanh như dòng suối lũ ập qua hai trăm đường phố cùng một lúc, chảy xiết như mở cống sông đào.
Lúc ấy, một chú bé rách rưới từ phố Ménilmontant đi lại, tay cầm một cành hoa mà chú vừa hái được trên vùng đồi Belleville. Chú thấy trong quầy của bà hàng xén có một khẩu súng ngắn kỵ binh. Chú vứt cành hoa xuống đường, kêu:
- Này bà ơi, tôi mượn cái súng của bà...
Chưa nói hết câu, chú đã nhặt khẩu súng chạy biến đi. Vài phút sau, một đoàn tư sản sợ sệt chạy trốn qua phố Amelot và phố Basse, gặp chú bé đang vung súng hát:
“Đêm tối mò mò
Ngày thì sáng tỏ
Bởi sách đáng ngờ
Thằng giàu rối to
Đạo đức phải lo
Bo bo
Mũi nhọn chờ đó”.
Đó là chú bé Gavroche ra trận. Đến đại lộ, chú nhận thấy súng không có cò. Chú ngừng hát.
Ai đã đặt khúc hát để cho chú hát nhịp bước hành quân và nói chung tất cả những bài hát mà chú thích hát khi có dịp? Biết đâu không phải là chính chú? Cũng phải công nhận rằng Gavroche rất am hiểu những bài hát bình dân lưu hành và chú cũng thường thêm thắt điệu ngân nga của chú. Lêu lổng và tinh nghịch, chú đem âm thanh của tạo vật và âm thanh của Paris làm thành một hợp ca hổ lốn. Chú hòa hợp tiếng chim với tiếng xưởng thợ.
Thực ra, trong cái đêm mưa mà Gavroche đã cho hai chú bé tạm trú với mình trong bụng voi, chú đâu có biết chú chính là cứu tinh đối với hai đứa em ruột của mình. Cứu em lúc chập tối, cứu cha lúc sắp sáng. Cái đêm của chú là thế đây.
Tảng sáng, trở về chỗ con voi, chú đã moi hai đứa bé một cách nghệ thuật từ bụng voi ra. Chia cho chúng bữa ăn sáng mà chú đã sáng tạo, sau đó chú gửi chúng trở lại cho đường phố - bà mẹ hiền đã hầu như nuôi dưỡng chú. Rồi chú đi, không quên hẹn chúng đến tối lại cùng nhau trở về chỗ đó. Chú đọc bài diễn văn từ biệt này: “Tao bẻ gậy đây, tức là tao cút hoặc nói như bọn quan tòa: tao đi thẳng. Lũ nhóc, nếu chúng bay không tìm thấy cha mẹ thì tối nay lại cứ đến đây, tao sẽ kiếm cho cái mà ăn tối và tao cho ngủ”... Có thể cảnh sát đã hốt hai đứa bé và giữ lại để chờ cha mẹ chúng đến nhận. Hoặc là một tên xiếc rong nào đó bắt chúng hoặc chúng chỉ đi lạc trong cái bàn cờ Paris thôi. Song Gavroche không hề gặp lại hai đứa trẻ nữa. Đã nhiều lần chú gãi đầu tự hỏi: “Quái! Không biết hai đứa con ta đi đâu nhỉ?”
Vừa đi vừa vung súng, chú đã đến phố Pont-aux-Choux. Chú đã để ý ở phố đó chỉ còn một cửa hiệu mở cửa. Và điều đáng suy nghĩ, đó là một hiệu bánh ngọt.
Trước khi dấn thân vào nơi vô định, được ăn một cái bánh quai vạc nhân táo là một phúc lớn trời cho. Gavroche dừng lại, sờ hông, lục bao, lộn túi áo: không có lấy một đồng xu, không có gì cả! Chú bèn kêu lên: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!” Không được ăn bánh ngọt lần cuối, rõ là cay đắng.
Tuy nhiên Gavroche vẫn tiếp tục đi lên. Chỉ vài phút sau, chú đã đến phố Saint-Louis. Đi qua phố Parc-Royal, thấy cần phải bù đắp nỗi thiệt thòi không được ăn bánh nhân táo, chú bèn tự thưởng cho mình cái thú xé toạc các tờ quảng cáo sân khấu giữa ban ngày ban mặt. Đi một đoạn nữa, chú thấy một nhóm người hồng hào đi qua, có vẻ như là những nghiệp chủ. Chú nhún vai và tuôn ra một tràng triết lý như sau:
- À, cái ngữ có lợi tức này, chúng mới béo làm sao! Chúng nhồi nhét đầy bụng. Chúng lội bì lõm trong cao lương mỹ vị. Thử hỏi chúng dùng tiền làm gì, chúng cóc biết. Chúng dùng để ăn chứ để làm gì nữa! Bụng mang được chừng nào thì mang mà!
Chỉ riêng cái việc đi giữa đường cái, tay hoa một khẩu súng ngắn mất cò cũng đã là một điều quan trọng ghê gớm nên Gavroche ta càng đi càng phởn chí, càng nói năng huyên thuyên. Chú vừa hát từng mẩu của bài Marseillaise vừa kêu to:
- Tốt lắm! Chân trái ông đau, xương cứ nhức nhối vì cái anh thấp khớp hành hạ, nhưng ông đang khoái đây, quốc dân ạ! Bọn tư sản! Chúng mày liệu hồn, ông phết cho vài câu hát biếm bây giờ! Mật thám là cái thá gì? Là chó. Hừ, chó đểu! Thôi, cũng đừng làm mất danh giá chó làm gì, chính ông cũng muốn một con [1] cho cái khẩu súng này quá. Anh em ơi, tớ ở đại lộ về đây, nóng ra phết, đang sôi âm ỉ, đang sủi bọt. Phải vớt bọt đi thôi. Nào anh em hãy tiến lên! Hãy lấy máu bọn hôi tanh tưới ngập luống cày! Tớ hiến đời tớ cho Tổ quốc. Vui vẻ muôn năm! Đánh nhau đi! Ông ngấy chuyên chế rồi.
Phố Thorigny thật là bình yên, tĩnh mịch, trái ngược với cảnh huyên náo xung quanh. Trước cửa một ngôi nhà, bốn bà già đang nói chuyện. Đó là các bà gác cổng và nhặt giẻ rách. Câu chuyện của họ chuyển từ chợ búa nhảy sang đống rác:
- Thịt đắt quá, bà Patagon ạ!
- Chao ôi! Đừng có nói chuyện đó với tôi. Thịt là điều ghê tởm. Loại nghèo như ta có đến hàng thịt cũng chỉ mua được toàn xương xẩu mà thôi.
Bà nhặt giẻ xen vào than vãn:
- Các bà ạ, việc buôn bán chẳng ra làm sao. Rác rưởi cũng bị phá hoại. Người ta có vứt gì đâu. Cái gì người ta cũng ăn tuốt.
- Thế mà có kẻ còn nghèo hơn bà đây, bà ạ.
- Ừ, đúng đây. Tôi dù sao cũng có nghề sinh sống. Buổi sáng tôi về nhà lọc giẻ. Tôi làm cái việc chọc lọn (chắc mụ muốn nói việc chọn lọc), đổ từng đống trong buồng rồi tôi nhặt riêng mỗi loại để riêng từng góc: áo quần trên ngăn tường, len dạ trong tủ, xương xẩu dưới giường... thứ nào ra thứ ấy.
Gavroche dừng lại đằng sau họ, lắng nghe rồi nói:
- Này các bà, các bà nói chuyện chính trị đấy à?
Cả bốn người hùa nhau mắng sa sả vào mặt thằng bé:
- Lại một thằng vô lại.
- Xem tay nó cầm cái gì kìa? Một khẩu súng ngắn!
- Tôi xin các bà đừng dây với thứ nhãi ranh ấy!
- Quân này chưa lật được chính phủ thì chưa chịu ngồi yên đâu.
Gavroche khinh bỉ, chỉ trả thù bằng cách lấy ngón tay cái hếch mũi lên và xòe bàn tay ra.
Mụ nhặt giẻ kêu lên:
- Đồ khố dây!
Mụ Patagón vồ tay vào nhau, tru tréo:
- Chuyến này nguy đến nơi! Cái thằng ranh con bên hàng xóm mới để râu ấy mà. Sáng nào tôi cũng thấy nó cắp nách một con bé mũ hồng, thế mà sáng nay tôi thấy nó cắp một khẩu súng. Bà Bacheux nói đâu tuần trước có cách mạng ở... ở... Mẹ nó, ở đâu rồi... à... ở Pontoise. Các bà cứ nhìn thằng bé trời đánh kia, oắt con thế mà đã cầm súng. Nghe đâu tu viện Célestins đầy cả đại bác.
- Này mụ kia! - Gavroche nói - Đừng khịt mũi nữa! Lấy khăn xì mũi đi thôi!
Rồi Gavroche bỏ đi. Đến đường Pavée, sực nhớ đến những người đàn bà vừa gặp, chú nói một mình:
- Này các bà, các bà chửi mắng những người cách mạng là sai. Khẩu súng này là vì các bà đấy. Để cho sau này trong cái sọt của các bà có nhiều cái ăn được.
Thình lình Gavroche nghe thấy sau lưng có tiếng động. Thì ra mụ gác cổng Patagón vẫn đuổi theo chú và từ đằng xa đang giơ quả đấm ra dọa:
- Đồ con hoang!
- Cái đó ông đếch cần!
Lát sau chú đi qua khách sạn Lamoignon, ở đấy chú hô:
- Tiến ra trận nào!
Nhưng rồi chú ỉu xìu ngay. Chú nhìn khẩu súng với vẻ buồn rầu như muốn làm cho khẩu súng cảm động:
- Tao thì ra trận, còn mày thì không chịu ra cho.
Một con chó gầy rạc đi qua. Con chó làm chú quên cái cò súng. Chú thương hại, kêu:
- Tội nghiệp con tu tu! Mày nuốt chửng cái thùng rượu hay sao mà đai thùng lòi ra hai bên như thế?
Rồi chú đi về phố Saint-Gervais.
Lúc này anh thợ cạo đang bận cạo râu cho một bác lính già đã chiến đấu dưới cờ hoàng đế. Đó chính là người thợ cạo đã xua đuổi hai đứa bé mà sau đó Gavroche mở bụng mẹ voi đón vào. Họ nói chuyện bạo khởi, chuyện tướng Lamarque, rồi từ tướng Lamarque bắt qua hoàng đế.
- Thưa ông! - Anh thợ cạo nói - Hoàng đế cưỡi ngựa thế nào ạ?
- Kém. Ngài không biết ngã đâu. Cho nên chẳng bao giờ ngài ngã ngựa.
- Ngài có ngựa đẹp không? Chắc ngài phải có ngựa đẹp chứ?
- Ngày ngài gắn huân chương cho tôi, tôi có để ý đến con ngựa của ngài. Đó là một con ngựa đua cái, trắng tuyền, tai xiêu, lưng trũng, đầu thon nhỏ có đốm đen, cổ rất dài, khớp gối chắc, sườn nở, vai chếch, mông khỏe, cao quá thước năm.
- Ngựa đẹp nhỉ! - Anh thợ cạo kêu.
- Đó là con ngựa tiên của hoàng thượng.
Anh thợ cạo cảm thấy cần phải im lặng một chút khi nghe tiếng đó thì mới đúng lễ. Anh làm thế, sau đó mới nói:
- Hoàng đế chỉ bị thương có một lần thôi, có phải không ông?
Người lính già trả lời với giọng nói lớn và bình tĩnh của người tai nghe mắt thấy:
- Có một lần, tại Ratisbonne, vết thương ở gót chân. Tôi chưa bao giờ thấy ngài ăn mặc đẹp đẽ như hôm ấy, sạch bong như đồng xu.
- Còn ông? Thưa ông cựu chiến binh, chắc là ông bị thương nhiều lần?
- Tôi ấy à? Sơ sơ thôi, chỉ vài ba lần, cũng chả lấy gì làm ghê gớm lắm. Khi thì hai nhát kiếm vào gáy, lúc thì hai viên đạn vào cánh tay phải...
Anh thợ cạo lấy giọng cầu kỳ, hùng tráng kêu:
- Ôi! Đẹp biết bao khi được chết ở chiến trường! Tôi, viện danh dự mà thưa rằng tôi không đành chết trên giường vì bệnh hoạn, chết dần chết mòn mỗi ngày một ít vì thuốc men, tôi thích chết vì một viên đạn đại bác bắn trúng bụng hơn.
- Ông cũng có vẻ dễ tính đấy nhỉ? - Người lính nói.
Vừa dứt lời thì cửa hiệu rung chuyển vì một tiếng động kinh khủng. Một tấm kính ở quầy hàng bị vỡ đột ngột. Anh thợ cạo tái mặt.
- Ối trời ơi! - Anh ta kêu lên - Đúng là nó!
- Gì kia?
- Đạn đại bác.
- Nó đấy.
Người lính nói vậy rồi cúi xuống nhặt một vật gì dưới đất. Đó là một hòn cuội. Anh thợ cạo chạy ra chỗ cửa vỡ và trông thấy Gavroche đang ba chân bốn cẳng chạy về phía chợ Saint-Jean. Số là đi qua hiệu lão thợ cạo, Gavroche vẫn nặng lòng về hai đứa bé. Không thể cưỡng được cái ý thích chào hỏi lão, chú bèn ném một hòn đá vào cửa kính của lão ta...
- Bàn dân thiên hạ có thấy không chứ! - Anh thợ cạo hét tướng lên, mặt từ xanh nhạt đã trở thành xanh tím - Cái ngữ này hại người vì tính ác. Cái thằng ranh ấy, ai làm gì nó mà nó lại thế chứ?
Sau một hồi vắt chân lên cổ mà chạy, Gavroche bây giờ đã đến chợ Saint-Jean. Bốt ở đây đã bị tước khí giới. Chú “liên lạc” được với đoàn do Enjolras, Courfeyrac, Combeferre và Feuilly chỉ huy. Họ được vũ trang tạm đủ. Bahorel và Jean Prouvaire đã gặp họ và cùng nhập bọn. Enjolras có một khẩu súng săn hai nòng, Combeferre cầm khẩu súng trường của quốc dân quân vẫn còn cả số hiệu của trung đoàn, áo khoác ngoài không cài cúc áo để lộ hai khẩu súng ngắn giắt ở thắt lưng. Jean Prouvaire có một khẩu súng ngắn, Courfeyrac múa cây gậy tra gươm đã tuốt trần. Feuilly với mã tấu trong tay đi đầu, vừa đi vừa hô: “Ba Lan muôn năm [2]!”
Họ từ bên Morland lại, cổ không cà vạt, đầu không mũ, thở hổn hển, ướt như chuột lột, nhưng mắt nảy lửa. Gavroche gặp họ, thản nhiên hỏi:
- Ta đi đâu bây giờ?
- Cứ đi với chúng tao. - Courfeyrac nói.
Đằng sau Feuilly là Bahorel. Chàng bước đi, hay nói đúng hơn là đang nhảy chồm chồm lên, chàng gặp bạo động như cá gặp nước. Chàng mặc áo gi-lê đỏ thẫm, miệng toàn nói việc dữ dội. Áo gi-lê của chàng làm một khách qua đường sợ mất vía, hét lên:
- Bọn đỏ đây rồi!
- Màu đỏ! Bọn đỏ! Ồ, tư sản! Sợ gì mà kỳ lạ thế! Ông đây thấy hoa mào gà đỏ ối ông cũng cóc run, thấy con bé quàng khăn đỏ ông cũng chẳng sợ. Anh tư sản kia! Anh cứ tin tôi, hãy để cho lũ thú có sừng sợ màu đỏ.
Chàng nhìn vào góc tường, ở đấy dán một tờ giấy lời lẽ hòa bình nhất thế giới. Đó là thông báo của ông Tổng giám mục Paris cho phép “con chiên” ăn trứng trong ngày kiêng thịt. Chàng kêu to:
- “Con chiên” hay “con cừu” đó chỉ là một cách lịch sự để nói “con tườu [3]” mà thôi!
Rồi chàng xé toạc tờ giây. Cử chỉ này làm Gavroche phục lăn. Từ phút ấy, Gavroche bắt đầu học tập Bahorel. Enjolras trách:
- Cậu làm thế là sai. Cứ để yên tờ thông báo đấy, chúng ta có liên quan gì tới nó đâu. Cậu giận bừa giận bãi chẳng ích gì. Phải để dành lòng uất hận. Không ai bắn lung tung. Giận dữ hay bắn súng cũng phải có đích chứ.
- Mỗi người một tính. - Bahorel cãi - Cái lối văn chương giám mục này làm tớ bực mình. Tớ muốn ăn trứng mà chẳng cần phải xin phép ma nào hết. Cậu thuộc hạng lạnh như tiền mà đốt chết người ta. Tớ thì thích quậy. Với lại, tớ có phải làm việc vô ích đâu. Tớ đang lấy đà. Tớ xé tờ thông báo là để cho nó ngon miệng, ăn được nhiều hơn sau này. Mẹ tiên nhân nó!
Chữ “tiên nhân” làm Gavroche chú ý. Chú tìm mọi cơ hội để học hỏi và chú hâm mộ anh chàng xé tờ áp phích kia. Chú hỏi:
- Tiên nhân nghĩa là gì?
- Thì cũng là tổ cha đấy thôi, có điều nói chữ là vậy.
Đến đây Bahorel nhận ra một thanh niên xanh xao, râu mọc đen sì đứng nhìn họ đi qua, ý chừng là một hội viên hội ABC [4]. Chàng gọi lớn:
- Mau mau mang đạn đến! Chuẩn bị chiến đấu!
Gavroche lần này làm như hiểu chữ nghĩa lắm:
- Ừ, ừ, phải!...
Đằng sau họ là một đoàn người nhốn nháo, sinh viên, nghệ sĩ, thanh niên vào hội Cougourde [5], công nhân, phu khuân vác... Người cầm gậy, kẻ cầm lưỡi lê, có người như Combeferre giắt súng ngắn ở quần. Một cụ già, rất già không có khí giới, bước vội để không bị tuột lại sau, mặc dù cụ có vẻ tư lự. Gavroche nhìn thấy, hỏi Courfeyrac:
- Têlatênao?
- Một cụ già.
Người ấy là cụ Mabeuf. Cụ Mabeuf đã ở tình trạng kiệt quệ và tuyệt vọng. Cụ đã bán hết những đồ đạc trong nhà và những bộ tranh ảnh, sách quý để trang trải nợ nần và chi tiêu lặt vặt. Cụ chỉ còn lại một quyển sách quý hiếm và có giá trị. Thường cụ vẫn giở ra xem và tự hào về điều ấy. Song bà Plutarque bị bệnh. Không có tiền thuốc thang, bệnh càng trở nặng. Cụ đành phải lấy cuốn sách cuối cùng đem bán. Được một trăm franc, cụ đem số tiền đó đặt ở đầu giường của bà Plutarque rồi trở về phòng riêng. Cụ trở nên thẫn thờ và đăm chiêu lo nghĩ. Buổi sáng, cụ dậy thật sớm, ra vườn ngồi rầu rĩ nhìn những luống hoa khô héo.
Chốc chốc, trời đổ mưa nhưng hình như cụ không biết. Một lúc sau, nghe có tiếng kỳ lạ vang dội trong thành Paris. Hình như có tiếng người la hét. Cụ ngẩng đầu lên, thấy một người làm vườn đi qua bèn hỏi:
- Cái gì thế?
Người làm vườn điềm nhiên trả lời:
- Khởi nghĩa.
- Thế nào? Khởi nghĩa à?
- Phải. Người ta lại đánh nhau.
- Tại sao người ta lại đánh nhau?
- Chao ôi! Nào ai biết được!
- Ở đâu thế?
- Phía xưởng quân khí.
Cụ Mabeuf vào nhà đội mũ. Quen như mọi khi cụ cũng tìm một quyển sách để cắp đi bán, nhưng không còn quyển nào nữa. Cụ nói: “Ừ nhỉ!” Rồi cụ ra đường với vẻ nhớn nhác. Đi mãi, cụ gặp đoàn người của Enjolras. Cụ liền nhập bọn với họ. Cụ làm cho họ chú ý vì cụ đi chệnh choạng như người say. Tuy cả buổi sáng trời mưa và ngay lúc bây giờ mưa khá nặng hạt, cụ vẫn cầm mũ mà đi. Courfeyrac nhận ra cụ Mabeuf. Vốn biết tính cụ già ham sách này xưa nay không hiếu sự, lại rụt rè đến nhút nhát, anh sửng sốt khi thấy ông cụ dấn thân vào cuộc khởi nghĩa, giữa nơi gươm đao và súng đạn này, nơi có thể chết bất cứ lúc nào. Anh chạy lại phía cụ và nói:
- Cụ Mabeuf, cụ về nhà đi!
- Tại sao?
- Sắp choảng nhau to.
- Tốt.
- Sắp đâm nhau, chém nhau, cụ Mabeuf ạ.
- Tốt.
- Có cả đại bác đây.
- Tốt! Các anh đi đâu?
- Đi lật đổ chính phủ.
- Tốt lắm.
Ông cụ đi theo họ. Từ lúc này, ông cụ không nói nửa lời. Bước chân cụ bỗng trở nên chững chạc. Mấy công nhân đưa tay dắt, cụ lắc đầu. Cụ tiến lên hàng đầu, cử chỉ là của người đang đi nhưng vẻ mặt lại là vẻ mặt của người đang ngủ. Bọn sinh viên thì thầm:
- Ông cụ này hăng máu gớm!
Cả bọn đi qua phố Verrerie. Chú bé Gavroche đi đầu, vừa đi vừa hát rống lên như một anh lính kèn. Chú hát:
“Kìa trăng mới mọc
Bao giờ ta vào rừng?
Chariot hỏi Charlotte
Tu tu tu
Đi Chaton.
Ta chỉ có một Chúa, một vua, một chiếc giày và một đồng xu...
Vì uống sương sớm quá
Ở ngọn lá kê minh
Đôi chim di say lả
Di di di
Đi Passy.
Ta chỉ có một Chúa, một vua, một chiếc giày và một đồng xu...
Tội nghiệp hai con lang
Say tít như sáo sậu.
Hổ bật cười trong hang.
Đông đông đông
Đi Meudon.
Ta chỉ có một Chúa, một vua, một chiếc giày và một đồng xu...
Người rủa, người văng tục,
Bao giờ ta vào rừng?
Chariot hỏi Charlotte
Tanh tanh tanh
Đi Pantin.
Ta chỉ có một Chúa, một vua, một chiếc giày và một đồng xu...”
Như bị cơn lốc cuốn đi, say sưa và hoan hỉ, họ kéo nhau ra phố Saint-Merry. Tiếng hát lanh lảnh của Gavroche vẫn tiếp tục ngân vang trên các đường phố.
Chú thích:
[1] Một con chó. Nguyên văn: Chien vừa có nghĩa là chó vừa có nghĩa là cò súng.
[2] Hồi bấy giờ nhân dân Ba Lan đang nổi lên chống quân Áo. Phổ và Nga hoàng đã chia cắt và thống trị Ba Lan.
[3] Nguyên văn chơi chữ giữa ouaille (cừu cái; nghĩa bóng: tín đồ, thường gọi là con chiên) và oie (ngỗng). Con cừu: con khỉ.
[4] Hội ABC là một hội kín.
[5] Hội Cougourde là một hội kín.