← Quay lại trang sách

Chương 2

Nam rời Sài Gòn về đây mà lòng còn luyến tiếc. Bọn bạn bè lớp 7A6 giờ có lẽ tứ tán khắp các lớp 8 trường Nguyễn Huệ sau đợt sắp xếp lại các lớp. Tụi nó lo học, còn mình lang thang đến tận xứ này. Đầu năm học tức tháng 9 năm ngoái, chỉ học được một tuần Nam bị té xe gãy tay, gãy cả xương vai. Phải ở nhà vừa băng bó vừa chạy điện suốt 3 tháng. Đến khi khỏe hẳn, mới thấy đi đứt cả học kỳ. Vừa định xin học trở lại, cơn bệnh sốt xuất huyết ập đến. Nam trở lại bệnh viện lần nữa, vừa nốc thuốc hàng đống vừa uống nước cam, nước chanh liền liền. Khỏi bệnh, má tuyên bố: “Con đừng buồn chi cả, từ nay con cứ nghỉ ngơi cho khỏe. Năm tới xin đi học lại”. Đành rằng Nam học sớm một năm, nhưng nghĩ tới chuyện năm tới phải học chung với đám lớp 7 “đàn em” vừa tấn lên thật không khoái tí nào. Thấy Nam có vẻ xanh xao, nhân chuyến chị Thảo xin đi thực tế để làm luận văn tốt nghiệp ở quê ngoại, má cho Nam đi theo. Má nói: “Tạng con ở đồng quê thích hợp. Muốn ở mấy tháng cũng được”. Đắn đo dùng dằng mãi Nam mới chịu xa thành phố với đủ thứ sách báo, trò chơi điện tử, vidéo. Vả lại những kỷ niệm của những ngày hè ngắn ngủi bên ông ngoại khi còn bé Nam vẫn chưa quên. Sáng nay, hai chị em khăn gói lên đường. Đến Châu Đốc, cả hai ở tạm một đêm tại nhà cậu Sáu rồi sáng hôm sau mới vô nhà ngoại bên Vĩnh Ngươn, bên kia bờ con kinh Vĩnh Tế.

Căn nhà cũ của ông ngoại vẫn như xưa chẳng có chút nào thay đổi. Chỉ mớ hoa kiểng trước nhà có thêm dãy chậu sứ Thái Lan hồng kiêu sa là hơi có vẻ tương phản với khung cảnh quê mùa ở đây. Dì Mười, dắt hai chị em ra vườn. Cây me đặc ngật những quả chín lủng lỉu trông ngon mắt. Chị Thảo chợt túm lấy vai Nam:

- Ơ, con gì kia?

Một con vật lấp ló sau chạc ba cây me keo. Chẳng có gì lạ, đó chỉ là một con khỉ con với đôi mắt to tròn luôn luôn có vẻ dò hỏi. Có lẽ chị Thảo quên, năm ngoái sau chuyến về thăm ngoại, chị có kể ông ngoại đang nuôi một con khỉ kia mà. Nam chợt buột miệng: “Ông ngoại sao lâu về quá vậy, dì Mười?”

- Không biết nữa. Có lẽ còn phải lo đám ruộng bị rầy nâu. Mấy con vào nhà nghỉ ngơi, tắm rửa đi, ông về ngay đó mà.

Nằm trên đi văng ngó mấy cái sàn nhà cũng chán, Nam ra cái võng chỗ chị Thảo nằm:

- Hay là mình ra chỗ ngoại, chị Thảo.

Chị Thảo ngó ra ngoài trời đang kéo mây về đầy ắp trời Châu Đốc. Liệu mưa có đến không? Chị Thảo bật dậy:

- Đi thì đi, để chị lấy cái túi xách.

Chị Thảo đi trước mang đôi kính râm, cái nón trắng in chữ “Sài Gòn tourist”. Đi đường ruộng, chân chị đánh thoăn thoắt như trên mặt đường nhựa, thiệt dễ nể. Nam ngó mông ra xa. Cánh đồng Vĩnh Ngươn lúa chín không đều, khoảnh chín vàng, khoảnh khác xanh non. Lại có vô số con bọ li ti, giống thứ côn trùng hay bám vào bóng đèn của nhà cậu Sáu. “Rầy nâu đó em!”. Nam trố mắt, ra đây chính là thứ côn trùng phá lúa lâu nay báo vẫn thường nhắc. Ngẫm lại công lao nhà nông bỏ ra để thu lại hạt lúa không dễ dàng.

Một, hai, ba rồi một loạt những giọt nước nhểu mạnh xuống người Nam. Mưa! Quay lại nó thấy chị Thảo đang cuống quýt chạy bươn theo cái nón bị gió giật lăn lông lốc xuống ruộng. Nam vọt nhanh hơn, túm lấy: “Nhanh lên chị, vô cái lều vịt kia!”. Hai chị em vừa sà vào lều, mưa ào xuống như trút. Rất hên, không ai bị ướt nhiều.

Thật may, trong lều lại có một tấm phên đủ che một cửa lều. Hai chị em ngồi rút sâu vào trong. Mưa nhiều nhưng gió không mạnh lắm, đỡ tạt. Nhìn màn mưa trắng xóa, Nam buột miệng: “Rầu thúi ruột, hết cả đi đứng!”.

Chị Thảo bụm miệng cười: “Em nói giống mấy bà cụ quá!”

Tù và giọng thổi bưng cầu

Năm mươi công cấy ăn trầu đỏ chét

Tấm lá buông cây suôn lòng đét

Đưa em về Sa Đéc bán thịt...

Một giọng đọc lạ lẫm vang ngân giữa trời mưa lâm thâm. Nam chợt phì cười vì vần điệu ngô nghê của chúng. Nhìn sang nó thấy chị Thảo dường như lắng tai nghe. Rồi chị bỗng cuống quýt: “Cây viết, em có cây viết không? Hay quá!” “Cái gì hay chị?” “Em không nghe hả?... Suỵt, đừng nói nữa!”. Chị Thảo lại lắng nghe như nuốt từng lời. Ai đó đi dọc theo bờ ruộng đã đọc những câu thơ kỳ cục ấy. Giọng đọc con trai còn trẻ cỡ tuổi Nam là cùng:

Sớm mơi con mắt lim dim

Tay bưng thúng cám đi tìm con vịt

Vác đôi trâu kích đi cày ruộng lịch

Quanh thả ví dò tay chắp roi ổi

Ống quyển dài khen ai khéo thổi...

- Nam!

- Dạ!

- Em ngó xem ai đọc mấy câu đó vậy?

Cái chị này lạ lùng, có mấy câu thơ tức cười mà quan tâm dữ. Nam bò ra, thấy một thằng nhỏ đen thui tay cầm giỏ đựng cá vừa đi vừa nghêu ngao dưới trời mưa, chẳng lo cái thân ướt át. Nam thụt đầu vô: “Thằng nhỏ chăn trâu chứ có ai đâu”.

- Em ngoắt nó vô đây cho chị.

- Khỏi lo, em thấy nó đang đi tới cái lều này rồi. Dám cái lều này của nó cũng nên.

Nam vừa dứt lời thì hai bàn chân của anh chàng đen thùi đã đứng trước cửa lều. Nó hỏi giọng rụt rè:

- Ai trong lều của tui vậy?

- Cho ngồi nhờ tránh mưa một tí em trai ơi!

Giọng chị Thảo ngọt chi lạ. Thằng bé chui đầu vào:

- Dạ không sao, chị cứ tự nhiên. “Ở đời muôn sự của chung” mờ.

Nam phát tức cười. Thằng nhỏ nhà quê này “lý sự” dữ đa. Trong lúc nó lo cất cái giỏ và cần câu, Nam lặng lẽ quan sát. Trông mặt mũi anh ta cũng sáng sủa. Chỉ tiếc nước da đen quá.

- Chị với trò này ở Long Xuyên “dìa” chơi phải hôn?

“Trò”, “dìa” toàn những tiếng thật ngộ, không kém mấy câu vè hồi nãy. Chị Thảo dịu dàng hỏi nó đủ điều. Thằng nhỏ kể nó tên là Siêng, nhà ở

ấp 4 ra đây chăn trâu cho ông Tư To ở xóm Bầu Trôm. Cái thằng đẹt ngắt như vậy mà lớn hơn Nam một tuổi.

- Vậy em nghỉ học rồi?

- Dạ còn chứ, nhưng học lớp “đim”.

- Lớp “đim” là lớp gì? - Nam buột miệng hỏi.

- Lớp học buổi tối đó. Quên nữa, - nó có vẻ bẽn lẽn, - lớp đêm mà em quen miệng gọi đim. Em học chung với nhiều người lớn lắm. Lớp 8 ở xóm không có, em phải qua bên kia kinh, học trường bổ túc văn hóa.

Tự dưng Nam thấy có cảm tình với thằng bé. Phải chăn trâu như nó, tối còn đi bộ từ Vĩnh Ngươn, qua đò sang bên kia thị xã để đi học. Tên nó là Siêng cũng phải.

- Mấy câu thơ hồi nãy ai dạy cho em vậy?

- Dạ, má em.

- Khi nào rảnh, em chép lại cho chị nghen!

- Dạ, “miễn” là gặp chị nữa.

- Tất nhiên là còn gặp chị nữa. Ông ngoại chị người ta gọi là ông Tám, nhà ở xóm 4 gần nhà ông Tư To chứ đâu.

Nam xen vào: “Chị chép mấy câu đó làm chi?”

- Ủa, em quên rồi hả? Chị về đây sưu tầm văn học dân gian mờ. - Chỉ Thảo trả lời rồi quay sang Siêng - Má em chắc thuộc nhiều câu ca dao lắm hở? Bữa nào em dẫn chị qua thăm má nghen!

Thằng Siêng cúi mặt, nói nhỏ: “Dạ, má em mất lâu rồi”. Chị Thảo có vẻ bối rối, chị đặt tay lên vai nó: “Vậy hả, chị xin lỗi em, còn ba...”

- Ba cũng vậy. Mất hồi em còn nhỏ...

Lòng Nam se lại. Thật tội nghiệp, nó mồ côi cả cha lẫn mẹ. Chị Thảo lộ vẻ bất nhẫn.

- Bây giờ em sống có một mình thôi sao?

- Dạ, em chăn trâu cho ông Tư To. Tối em ngủ ở nhà ổng hoặc ngoài lều. À... - Thằng Siêng chợt nhổm người dậy, nó nói qua chuyện khác - Chị với trò này có lạnh không? Để em đốt lửa cho ấm. Bữa nay mừng ngày hội ngộ, ba chị em mình “nhậu” một bữa chơi.

- Ủa, tụi chị đâu biết nhậu!? - Chị Thảo tròn mắt.

- Em giỡn thôi. Nhậu với nước trà “mắc cỡ”.

Siêng lôi ra từ góc lều mớ củi khô. Nó móc quẹt diêm từ trong cái bao nylông, nhóm lửa. Động tác sắp củi, bật lửa che gió của nó thật điệu

nghệ. Củi nhóm xong, nó lôi từ góc lều ba hòn gạch làm bếp, cả cái ấm đất, một chai nước mắm, một nhúm cỏ khô trong túi nilông, cả một cái hũ đen đen ra. Chị Thảo và Nam nhìn nhau cười. Ai dè có cả “tài sản” trong lều, mà đâu có ai biết. Siêng bỏ mớ cỏ khô vô ấm, đặt lên bếp. Trong lúc đợi nước sôi, nó lôi mấy con cá lóc từ trong giỏ ra. “Eo ơi, cá lóc bự quá!”. Chị Thảo xuýt xoa. “Em mới tát đìa cho hàng xóm. Họ cho em mấy con”. Nó lại lấy một cây xiên nhọn trên nóc lều, xiên lút sâu vào miệng cá. Xong xuôi, Siêng thò tay ra lều, móc lớp đất sét mép bờ ruộng. Đất sét được bọc chung quanh con cá. Một đầu thanh sắt được ghim xuống đất, giữa đám củi lửa. Siêng bỏ thêm củi, thổi cho ngọn lửa bùng lên, liếm lem lém vào cục đất sét có bọc con cá.

Nước sôi ùng ục trong ấm, Siêng bắc ấm nước xuống:

- Chị với trò uống nước nghen, em chỉ có một cái ly, uống tạm. Đợi em một chút.

Thằng Siêng bươn ra khỏi lều. Chị Thảo rót ly nước: “Uống đi cho ấm bụng”.

- Nước gì vậy chị, đâu phải trà.

- Lá mắc cỡ khô đó.

- Uống có sao không? - Nam e dè.

- Vị thuốc đó em, uống vô mát gan.

Ly nước thơm thơm, vị lạ, thật dễ chịu và ấm bụng.

Thằng Siêng vọt vào bếp, tay cầm mớ rơm khô bọc trong áo. Nó đặt rơm giữa bếp lửa. Ngọn lửa bùng mạnh, đỏ rực, Siêng với tay đưa chị Thảo cái hũ đen. Chị Thảo mở ra, ngửi ngửi.

- Nước mắm me phải không? Đưa chị!

Chị Thảo nhanh nhẹn lôi mấy cục me chín ra khỏi hũ. Chị chiết nước mắm ra chén, bỏ vài cục me vào.

Cục đất sét bọc con cá giờ đã khô trắng. Thằng Siêng thận trọng dùng rơm lót tay cầm cây xiên sắt ra. Nó gõ khe khẽ xuống đất rồi bóc từng miếng đất sét một. Sau lớp đất sét, lớp thịt mềm của con cá lóc lộ ra trắng bong, thơm phức. Thiệt lạ, thịt con cá không dính một tí đất sét, nó chín ươm, mọng nước thật hấp dẫn. Siêng đặt con cá lên cái dĩa duy nhất có trong bếp.

- Em mời chị và trò này ăn trước nghen! Em làm tiếp con nữa.

Đợi nướng xong con thứ hai, chị Thảo và Nam mới ngồi vào. Con cá lóc nướng chấm nước mắm me ăn tới đâu “biết” tới đó. Cái vị cá mới ngọt làm sao! Nó cộng hưởng với vị nước mắm mặn, me chua thành một hương vị ngon tuyệt vời. Còn hơn món cá bỏ lò ở quán Bảy Sò đường Nguyễn Tri Phương mà có lần Nam được ăn.

Nam mải ăn, đến lúc nhìn lên thấy thằng Siêng ngó nó ăn, miệng cười tươi rói. Mắc cỡ quá, nó nói lảng với chị Thảo:

- Món này Siêng làm ngon quá, chị hén, em nghe ba nói món cá lóc nướng trui ngon lắm, chắc không bằng món này đâu hén.

- Đây là món cá lóc nướng trui chứ còn gì nữa. - Chị Thảo phì cười. Thằng Siêng cũng nhe răng cười. Nhưng không phải cười chọc quê, Nam cảm thấy như thế. Tự dưng, Nam thấy Siêng thật dễ thương. Nó cũng bật cười.