← Quay lại trang sách

Chương 3

Ánh nắng trưa dọi xuống dòng kinh chói chang khiến Nam phải dùng tay che mắt. Xuồng lướt giữa hai bờ kinh Vĩnh Tế mọc đầy những ngôi nhà sàn. Mới năm nào còn nghe nói pháo của tụi Pôn Pốt câu tới tận đây, giờ tràn ngập một không khí thanh bình. Nam mải miết nhìn những rặng ô môi mọc xen giữa các căn nhà. Đẹp làm sao những bông ô môi đỏ phơn phớt tím. Bỗng chốc Nam thấy gần gũi cái không khí thôn dã ở đây. Nó không nhộn nhịp mới lạ từng ngày như ở thành phố Nam sống... Nhưng bao lần nó khiến Nam dịu lòng, ngây ngất trước vẻ đẹp của những buổi chiều vàng trên đường làng, của một đêm trăng yên tĩnh và mộng mơ khi nằm trên chiếc chiếu ngó trời. Sau những buổi dầm mưa ở đây, nó ngạc nhiên thấy mình không dễ bị sụt sịt mũi như ở thành phố. Và những buổi trưa thật dễ chịu khi nằm trên chiếc võng giăng ở cột nhà, đung đưa võng đón gió đồng, chìm vào giấc ngủ thật sâu, không mộng mị. Còn cả tình người của những cô Sáu, thím Ba, dì Mười, anh Bảy hiền hòa luôn nở nụ cười chân chất như lúa khoai... Bất giác, Nam nghĩ đến thằng Siêng... Sau buổi chiều mưa, Nam và chị Thảo chưa gặp lại nó. Có lần hai chị em qua nhà ông Tư To hỏi thăm, ổng chỉ ra đồng với vẻ mặt vừa khó chịu vừa ngạc nhiên. Hẳn ông không thể hiểu nổi hai chị em mới ở thành phố về bỗng dưng lại có quen biết với thằng nhỏ chăn trâu nhà ông. Và chắc hẳn ông không muốn có người chi phối nếp làm việc của nó.

Ánh nắng xiên khoai lọt vào khoang chiếc ghe máy. Nam quay vào. Ông ngoại nãy giờ ngồi điều khiển cần lái hỏi vọng ra trước: “Sao không ngủ?”. “Dạ, cháu không buồn ngủ”. Tiếng nói chuyện làm chị Thảo mở mắt. Chị lồm cồm bò ra, ngồi cạnh Nam. Hai chị em ngó mặt kinh mênh mông với đủ thứ ghe: ghe chài chở lúa, đen và tròn như bụng trâu, ghe cui, ghe cà-ron, ghe chở cá chở trái cây, ghe bầu thon thon nhẹ nhàng và đẹp. Chúng qua lại trên kinh ở hai tuyến như xe trên đường phố.

- Trông kìa, ai như thằng Siêng đi trên bờ, đúng không? - Chị Thảo trỏ lên bờ phải.

Quả đúng thằng Siêng. Nó đi như chạy dọc theo bờ, vai lủng lẳng đeo cái túi may bằng vải bao bố đựng gạo. Nam cuống quít gọi to: “Siêng! Siêng! Nó không nghe. Làm sao bây giờ chị?” “Để chị nói ông ngoại tấp vô cho nó quá giang”.

Chị Thảo bò ra phía sau lái nói nhỏ với ông. Máy tắt. Con thuyền quay mũi lướt êm ru vào bờ đúng lúc thằng Siêng chạy tới. Trán nó lấp xấp mồ hôi.

- Siêng, Siêng, lên đây ông chị cho quá giang nè!

Thằng Siêng không từ chối, đi lần xuống mép nước rồi bước xuống ghe. Thoáng chút mừng rỡ trên gương mặt mệt mỏi của nó. Ông ngoại cười hiền hòa, gật đầu khi thằng Siêng thưa. “Có phải cháu chăn trâu cho ông Tư To?” “Dạ!”. “Có cực lắm hôn cháu?” Thằng Siêng đáp nhỏ: “Dạ, không cực lắm!” Ông ngoại chăm chú nhìn nó rồi nổ máy, mắt nhìn xa xa.

- Em đi đâu về? - Chị Thảo ân cần hỏi.

- Em tranh thủ ra thị xã mua mớ giấy bút với mấy quyển sách. Sắp thi học kỳ đến nơi rồi.

- Thế trâu bỏ cho ai?

- Em nhờ tụi bạn trông, chị ạ. Nhưng em không yên bụng nên gắng chạy về cho lẹ.

Khác với nét sôi nổi hôm trước, thằng Siêng có vẻ suy tư hơn. Da nó đen sạm hẳn. Nhìn kỹ, trên cánh tay nó có mấy vệt đỏ tím. Vết xước hay những lằn roi? Thấy Nam chú ý nó nở nụ cười rồi chỉ ra bờ sông:

- Ý coi kìa, có một con rắn đang trôi, thấy không?

Con rắn dài cỡ một thước, đã chết, trôi lững lờ trên dòng nước. Một cảnh lạ hiếm thấy ở thành phố. Thằng Siêng nói tiếp:

- Thấy con rắn trôi, Siêng nhớ một chuyện hồi xưa ở núi Sập...

- Núi Sập ở đâu? - Nam cắt ngang.

- Đó là một hòn núi trong huyện Thoại Sơn. Ở đó nghe nói người ta đào được nhiều chiếc bình bằng sành và nải chuối, buồng cau đúc bằng vàng...

- Ngộ quá! Rồi chuyện gì nữa? - Nam nôn nóng.

- Chuyện xưa kể rằng dân núi Sập bắt được một người trẻ tuổi từ trên núi xuống hái trộm dừa. Thấy ông ta hiền lành dân không bắt tội. Ông ta liền xin tạ lỗi bằng cách xem mạch hốt thuốc cho bà con. Ông chữa đâu lành đó, nhất là bệnh con nít. Mà ông còn chữa bệnh điên nữa. Chữa hay lắm!

- Hay quá hén!

Chị Thảo nãy giờ ngồi tựa mạn ghe, cầm cây bút hí hoáy viết gì đó. Nam ngó thằng Siêng, chờ đợi. Hiểu ý, nó kể tiếp:

- Chữa bệnh cho bao nhiêu người, ông ăn trộm dừa đều cứu được hết. Nhưng có lần ông gặp phải con bệnh ngặt. Đó là con một vị quan đại thần. Ông nhìn đứa nhỏ rồi nói: “Con bệnh này yếu lắm. Nếu chữa lành tôi phải chết thế nó vì động đến ông bà ở dưới đất. Nếu con bệnh chết, tôi còn sống thêm ít lâu nữa. Để tôi đi thiếp hỏi lệnh trên thế nào”.

Ông nằm xuống đất, nhắm mắt “thiếp” rồi mất luôn. Nhớ ơn ông, người ta xây một ngôi tháp thờ ở núi Sập. Gọi là tháp thầy Sanh.

- Sao Siêng rành chuyện đó?

- Có chi đâu, có lần Siêng đưa trâu về chân núi Sập. Hôm đó là mùng 5 tháng 5, ngày cúng thầy Sanh, người ta kể lại.

Ghe đi xình xịch qua bao dãy nhà. Ruộng lúa dần hiện ra hai bên bờ kinh. Mùa này nước chưa lớn nhưng trông trời nước vẫn mênh mông. Có tiếng ông ngoại cất lên trong tiếng máy nổ: “Thảo ơi!”. “Dạ!”. Ông ngoại chỉ thằng Siêng: “Cháu kêu cháu kia ông hỏi”.

- Nè, - ông ngoại cất tiếng, - cháu sống ở đây. Vậy cháu có biết con kinh Vĩnh Tế này do ai đào không?

Nam trố mắt ngó thằng Siêng. Thử coi anh chàng này “cỡ” nào. Nó lễ phép trả lời:

- Dạ, cháu có biết. Người chỉ huy đào kinh là ông Nguyễn Văn Thoại.

- Cháu biết gì về ổng, cứ nói...

- Ổng làm tới chức Hầu phải không ạ? Ổng quê ngoài Trung, đất Quảng Nam chi đó, ổng vô đây khai phá 4 tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, rồi đào con kinh này kéo từ Châu Đốc tới tận Hà Tiên. Nghe nói, khi đào có tới hàng chục ngàn người chết vì muỗi mòng, bệnh tật, thú dữ...

- Cháu biết chính xác năm nào đào kinh không? - Ông ngoại chăm chú hỏi.

- Dạ nếu không lầm là năm 1818.

- Sao cháu biết? - Ông mỉm cười hỏi gặng.

- Cháu đọc trong sách ạ.

Ông ngoại gật gù. Nhưng Nam không thích chuyện đào kinh lắm. Nó còn muốn nghe những sự tích thật kỳ lạ ở đây hơn. Nam giục:

- Kể nữa đi Siêng! Chuyện là lạ đó nghen!

Thằng Siêng ngó ra sông. Nó kể một chuyện xảy ra ở ngay núi Sam này. Hồi trước ở đây có một đàn khỉ phá phách rất dữ. Chúng thường phá rẫy lấy cắp khoai mì. Dân lành không sao chịu nổi, nhưng chưa tìm được cách đuổi hay diệt chúng được. Người bị chúng phá nhiều nhất là ông Ba Cổ.

Một hôm thấy đám rẫy của mình bị phá tan tành, ông Ba Cổ nổi xung thiên vác dao rượt theo chúng tuốt vô rừng. Bầy khỉ chạy tới hẻm núi đột nhiên ré hoảng lên. Con khỉ đột đầu đàn vội leo lên cây vông cao nhất. Cả bầy lên theo. Ông Ba Cổ ngó quanh, thấy một con cọp trong bụi. Hoảng quá, ông cũng vọt lên một cây gần đó.

Con cọp đến gốc vông rình bầy khỉ. Nhảy lên mấy lần không tới, nó rơi xuống và nằm lăn ra, buông thõng bốn chân. Khỉ đầu đàn thấy vậy, chuyền xuống nghe ngóng. Nó ném khoai mì, cành cây xuống, con cọp nằm im. Liệng tiếp một con khỉ con rồi con thứ hai, con cọp không nhúc nhích. Khỉ đột liền xuống đất. Vừa tới nơi, cọp vùng dậy tát khỉ đầu đàn chết tươi. Ông Ba Cổ lúc đó ngồi trên cây xem vừa sợ, vừa thấy “đã”.

- Con cọp khôn “dàn trời mây”. - Nam buột miệng.

Ông ngoại nãy giờ lắng nghe, chậm rãi hỏi:

- Chuyện này ông có nghe kể loáng thoáng nhưng không nhiều chi tiết như cháu kể. Ai kể cháu nghe?

- Má cháu ạ.

- Má cháu hồi trước làm việc gì? Ở đâu?

- Dạ, má cháu đã mất. Trước đây dạy học ở Tịnh Biên. Còn nhà ở xóm Gò Mối.

- Hử? - Ông ngoại nhíu mày - Cháu có phải con Tư Thu, giáo Thủy?

- Đúng ạ.

Ông im lặng, lẩm bẩm: “Hèn chi. Thiệt là tao sống gần Tư To lại không biết con là con giáo Thủy, Tư Thu”.

Không khí chùng xuống giữa tiếng xình xịch của máy đuôi tôm. Tiếng gà eo óc gáy bên bờ kinh. Xuống tới xóm bốn. Thấp thoáng vườn cau nhà ông Tư To. Xa hơn nữa là mái ngói nhà ông ngoại. Sắp tới đó, thằng Siêng xin lên bờ. Nó sẽ đi ngược ra đồng tiếp tục giữ đàn trâu.

- Tư Thu với giáo Thủy ông không lạ gì... - Ông tôi đi trước dọc theo

con đường mòn về nhà, chậm rãi nói - Trước anh ta có đám ruộng sát chân núi Sam. Ảnh là nông dân lại chịu khó đọc sách. Những lúc ghé nhà ông chơi hay có lần đến giúp ông xây cái nhà sau, ảnh đều xin được ngó tủ sách. Đặc biệt, Tư Thu rất ghét nhậu nhẹt.

Nhưng trời không thương người hiền. Một bữa vô rừng dưới chân núi, ảnh bị rắn “chàm quạp” cắn chết. Lúc đó hay tin ông chạy xuồng vô tới xóm Gò Mối mang củ “nầng” định xắt ra giải độc cho ảnh nhưng không kịp. Sau đó, cô giáo Thủy tức má thằng Siêng đổi đi dạy học ở Tịnh Biên. Thằng Siêng đi theo. Đến năm 78, lính Pôn Pốt qua giết dân mình. Cô giáo Thủy do mải lo cho mấy đứa học trò nên bị tụi nó giết chết...

Ông ngoại ngừng nói, nhíu mày như cố nhớ lại.

- Riêng chuyện má thằng Siêng, cũng được bà con biết nhiều vì sau đó tờ báo tỉnh mình có viết về cô ấy. Nhà báo kể lại, khi tụi Pôn Pốt kéo qua, cô cùng đám học trò chạy về hướng thị trấn Tịnh Biên. Chạy được một đoạn đường, cô lộn trở lại tìm nốt số học trò còn sót. Gặp được chúng cô tìm cách đưa về nơi an toàn nhưng không kịp. Lính Pôn Pốt giết sạch mấy cô trò cùng một số dân chậm chân. Ông nghe nói cô còn đứa con ba bốn tuổi thoát chết nhờ theo người thân dắt về Long Xuyên chơi. Nó chính là thằng Siêng. Tội nghiệp, nó lưu lạc về đây. Giờ phải đi chăn trâu...

Bước chân Nam cảm thấy nặng nề. Cảnh thanh bình yên tĩnh ở đây không chỉ chứa đựng những số phận êm đềm như lũy tre xanh soi bóng dưới lòng kinh. Đâu ngờ thằng Siêng, chỉ trạc tuổi Nam phải nếm trải đau buồn to lớn như vậy. Giọng chị Thảo lắng xuống:

- Ông, con thấy thằng Siêng cực khổ lam lũ nhưng ham học lắm. Ông biết không, có đứa chăn trâu nào lại chịu khó đi học lớp đêm như nó đâu.

- Biết, ông nghe nó nói chuyện đủ biết không giống con người ta. Có lẽ thừa hưởng được khí chất của ba má nó...

Ông ngoại buông lửng lời nói, rảo bước nhanh hơn. Trời đã về chiều. Đàn muỗi vo ve trong khóm chuối. Ba ông cháu mỗi người đeo đuổi một ý nghĩ.