Chương 42
Một sự trùng hợp lạ lùng đã mang đến niềm vui bất ngờ cho mấy thằng nhỏ xóm Ba-ra-dô. Trong ngày thằng Chim được thả ra tụi nó được thằng Long mập mời đến nhà để ăn sinh nhựt. Tụi nó chẳng biết sinh nhựt là cái gì nhưng nghe nói là ba thằng Long mập đã cho nó một món quà rất quý. Nhờ món quà này mà thằng Chim được thả ra, không bị cảnh sát đưa vào trại tế bần. Và thêm nữa, khi nghe đến ăn là tụi nó khoái chí. Đứa nào, đứa nấy hí hửng nghĩ rằng sẽ được thằng này cho ăn kẹo “chó-có-lát” hay “sing-gôm” nhưng đều tiu nghỉu khi nghe thằng này nói:
- Tối nay, tao cho tụi bây coi một cái máy kỳ lạ chưa có ở Việt Nam. Nghe nói còn hay hơn hát bóng nữa.
- Tưởng mầy kêu tới để ăn, ai dè để mầy khoe của hả thằng mập? - Thằng Minh chọc bạn.
- Tụi bây cứ tới đi, rủ thằng Chim nữa. Mình vừa coi máy, mình vừa ăn kẹo “su-cu-la sữa bòn bon với hột gà”... Thằng nào không đến thì mất phần, ráng chịu.
Nó nói nhỏ với thằng Minh:
- Mầy đừng nói cho thằng Chim biết nghe, má Hai tao có làm bánh ga-tô để cho riêng thằng Chim, mừng nó ra khỏi khám.
- Ê, đừng nói chuyện khám, xui mậy.
Thằng Són cũng khều thằng Minh nói nhỏ:
- Mầy đừng nói cho thằng nào nghe nhe, tối nay, tao mua bánh cóng ở Chợ Lớn mới cho thằng Chim ăn, tội nghiệp.
Con Hồng cũng nói nhỏ, thằng Ti cũng nói nhỏ... đứa nào cũng nói nhỏ, ra vẻ bí mật chỉ nói cho thằng Minh biết nhưng rốt cuộc thằng nào cũng biết hết tất cả những bí mật của đứa khác. Tất nhiên chỉ một đứa không biết vì nó không có mặt ở phông-tên nước: thằng Chim. Thời gian gần đây, thằng Minh chọn phông-tên nước là nơi tụ họp để vừa gánh nước đem về nhà xài, vừa nói chuyện vui, vừa ôn bài học thiệt là tiện thể đôi ba đường.
Tối đó, khoảng sáu giờ thì tụi nhỏ xóm Ba-ra-dô có mặt đầy đủ cộng thêm vài đứa bạn trong lớp nhứt hai. Má Hai thằng Long mập đã dọn sẵn cho tụi nó một cái bàn dưới gốc cây mận. Trên bàn đã bày sẵn bánh ga-tô, bánh cóng, kẹo me (đứa nào nhìn thấy kẹo me cũng đều biết là của con Hồng), bánh mì cá mòi, nước ngọt con nai, con cọp... ê hề.
Thằng Chim ngồi cạnh thằng Minh và thằng Long mập. Tối nay thằng Chim là thượng khách. Đứa nào cũng mời thằng Chim ăn nên cái dĩa của thằng này đầy tú hụ. Nó cũng không khách sáo, ăn uống một cách hồn nhiên. Đứa nào, đứa nấy đều vô tư ăn đến no bụng. Bỗng dưng con Hồng hỏi thằng Chim:
- Trò thấy món nào ngon nhất?
Thằng Són không bỏ tật tài lanh:
- Món nào cũng ngon hết phải không mậy? Nhất là món bánh cóng. Bà bán bánh cóng này là người Bạc Liêu chánh hiệu nghen. Chỉ có người Bạc Liêu đổ bánh cóng là ngon. Ba tao nói...
Thằng Ti chọc quê thằng Són:
- Ba mầy nói “Són, bả nợ mình tiền thịt heo thiu, mầy đi đòi chưa?”
Cả bọn tụi nó ôm bụng cười sặc sụa. Lúc ấy, thằng Chim mới từ từ lên tiếng:
- Ở trong khám, tao nhớ món cá lòng tong kho tộ là ngon nhứt hạng, nhớ nhì là bánh bèo do thằng Minh đổ. Bữa nay tao thèm ăn bánh bèo mà không có. Món đó ngon như bài khỏi binh... [1]
Tụi nó lại có thêm một trận cười nữa vì thằng này lại nói chuyện theo cách của mấy tay cờ bạc.
- Má tao kho cá lòng tong mới ngon...
- Không, má tao kho là ngon nhứt.
- Má mầy kho mặn chát.
- Chỉ có... ba tao kho là không ai bằng.
Con Hồng lên tiếng. Tụi nó, trong cơn hào hứng tranh cãi má thằng nào kho cá lòng tong ngon nhất liền im lặng. Tụi nó biết con Hồng khen ba nó nấu ăn ngon vì nó mồ côi mẹ từ bé.
Thằng Minh phá tan sự im lặng của tụi nó:
- Má, ba đứa nào nấu cũng ngon hết. Ba, má mình nấu không ngon thì làm sao mình lớn. Không có ai nấu ăn ngon bằng má... ba mình.
Còn thằng Long mập chợt lên tiếng:
- Còn tao khoái nhất món sơn hào hải vị của thằng Minh đãi. Sơn là núi, trên núi thì có rau. Sơn hào là rau. Hải là biển, biển có muối, có cá làm nước mắm. Hải vị là nước mắm. Sơn hào hải vị là rau chấm nước mắm kho quẹt.
Lại cười. Riêng thằng Minh thì cay cay nơi khóe mắt. Hôm nay nó đã làm cho mấy thằng bạn trong xóm Ba-ra-dô gần gũi hơn với thằng Long mập. Giữa tụi nó bây giờ không còn một sự ngăn cách nào nữa.
Thình lình, má Hai thằng Long mập chạy ra, kêu to:
- Mấy con ơi, vô coi tàng hình. Bắt đầu có hình rồi.
Không hiểu tàng hình mà sao lại có hình, tụi nó nháo nhào bỏ bàn tiệc chạy vô nhà.
Trong phòng khách, thằng Minh thấy đủ mặt gia đình thằng Long mập ngồi trên bộ ghế sa-lông, tụi nó rón rén ngồi vào các cái ghế nhựa đặt phía sau. Trước mặt tụi nó, chính giữa phòng khách là một “nhân vật” đặc biệt đang được mọi người chú tâm nhìn vào.
Đó là một cái thùng to, bằng gỗ hình chữ nhật, hai cánh cửa lùa để lộ ra một mặt kiếng màu trắng đục. Khi ba thằng Long mập nhấn cái nút bên hông thùng thì trên mặt kiếng sáng lên như bóng đèn điện và vô số con vi trùng đen trắng nhảy loạn xạ, nghe cả tiếng rè rè của nó. Ba thằng Long mập nói với giọng hiểu biết:
- Đúng 7 giờ tối, chương trình truyền hình mới bắt đầu.
- Truyền hình hay tàng hình? - Thằng Són hỏi.
- Truyền hình. Cái máy này là máy vô tuyến truyền hình. Người Mỹ gọi là cái “ti-quy”. - Thằng Long mập hãnh diện vì sự hiểu biết thông thái của mình.
- Ủa, nó có xài bình ắc quy như chiếu bóng thùng hả? - Thằng Ti hỏi.
Thằng Minh lên tiếng:
- Vô tuyến truyền hình là một cái máy cho tụi mình ngồi coi những chương trình đã được thu tại đài truyền hình. Mỗi tối, lúc bảy giờ, từ ngày hôm nay, người ta ngồi tại nhà có thể xem cải lương, ca nhạc, nghe tin tức...
Tụi nó ngồi nín khe nghe thằng Minh trần thuyết về cái máy “tàng hình”. Người ngạc nhiên nhất là ba thằng Long mập. Ông không hiểu sao thằng nhỏ này lại rành rẽ sáu câu như vậy. Ông đâu có biết rằng chiều nay, nhờ đọc báo cọp ở nhà chú Năm Cũ, thằng Minh đã kịp nạp vào đầu nó một số thông tin hữu ích về cái máy vô tuyến truyền hình.
Chiếc đồng hồ Ô-dô trên tường vừa gõ đúng bảy tiếng thì những con lăng quăng, vi trùng trên mặt kiếng biến mất và xuất hiện một cô gái. Cô này nhìn thẳng vào mặt tụi nó nói: “Kính thưa quý vị khán giả, sau đây là chương trình của đài truyền hình Việt Nam tối nay. 19 giờ tin tức. 19 giờ 30 văn nghệ...” [2]
Sau những chương trình tin tức, cô gái hồi nãy lại xuất hiện: “Và sau đây là một chương trình văn nghệ đặc biệt được giới thiệu với quý vị khán giả. Đầu tiên là giọng ca của...”
Tụi nó không ngờ những danh ca làng tân, cổ nhạc trước kia tụi nó chỉ được nghe tên trên đài phát thanh như Phương Dung, Hoàng Oanh, Nhật Trường, Hùng Cường, Bạch Tuyết, Thanh Nga, hề Tùng Lâm, Phi Thoàn, Thanh Việt... đang hát trước mặt tụi nó. Thằng Cảnh hù, với cái máu cảnh sát trong người, thắc mắc “Hổng biết tại sao mà người ta có thể nhốt mấy nghệ sĩ này trong cái thùng rồi bắt họ hát được vậy ta?” Để khám phá, đang xem, nó đứng dậy. Và trước cặp mắt ngạc nhiên của mọi người nó đi vòng ra phía sau lưng cái thùng để tìm hiểu. Ba thằng Long mập la lên:
- Con đừng rờ tay vào phía sau máy, coi chừng điện giựt.
Nó gật gù và nói lớn vì đã phát hiện điều nó quan tâm:
- À... người ta gửi nghệ sĩ vô thùng bằng điện. Không có điện là khỏi coi.
- Bởi vậy mới gọi là vô tuyến truyền hình chứ, thằng Cù lần lửa. - Thằng Són không bỏ lỡ dịp để chọc thằng Cảnh hù.
Bỗng dưng, thằng Minh kêu lên:
- Ê, hình như ông ảo thuật bán cao đơn hoàn tán nè tụi bây...
Thằng Ti đứng bật dậy, chen lên ngồi sát màn hình. Đúng rồi, trên màn hình đen trắng khi thì chiếu xa, khi thì chiếu gần nó đều nhận ra đó là ông thầy ảo thuật của mình. Trời ơi, sao ổng hay vậy ta, chui vô được cái thùng để biểu diễn nữa.
Trên màn hình, ông thầy nó, trong bộ đồ vét chuyên nghiệp, sang trọng của nhà ảo thuật, tay cầm cây gậy chỉ huy. Một nữ tài tử bước vào cái thùng, nhà ảo thuật lấy cây cưa, cưa cái thùng này ba đoạn. Tụi nó bình phẩm:
- Cưa như vầy bà đó đứt ra làm ba khúc là cái chắc.
Thằng Chim nói chắc nịch:
- Không chết đâu. Nếu chết là ổng ở tù mục xương sao!
- Ảo thuật mà tụi bây. Ảo thuật là đánh lừa cặp mắt khán giả bằng xảo thuật, máy móc, dụng cụ và âm nhạc...
Đúng như nhận xét của một thằng có chuyên môn và một thằng ám ảnh chuyện ở tù thì bà diễn viên bị cưa làm ba khúc tươi cười bước ra khi nhà ảo thuật mở thùng. Tiếng người giới thiệu chương trình đã làm trống tim thằng Ti đập nghe thình thịch: “Sau đây là tiết mục Di chuyển thần tốc dưới sự trình diễn của nhà ảo thuật tài ba Việt Nam Khổng Có”.
Thằng Ti ngạc nhiên và giận cho mình. Trời ơi, thầy mình là nhà ảo thuật nổi tiếng Khổng Có mà mấy đại nhạc hội giới thiệu mà mình không biết. Trời ơi, sao ngu quá vậy? Từ trước giờ, mình có hỏi tên ổng đâu, cứ gọi là ông thầy không. Té ra, ổng mê ông Khổng Tử nên ổng lấy tên là Khổng Có. Khổng Có nghĩa là không có gì hết. Không nhà, không vợ, không tiền... Rồi ổng đặt tên hai thằng con là Khổng Cần, Khổng Còn.
Tụi nó thấy nhà ảo thuật Khổng Có vừa bước vào cái cửa đột nhiên biến mất và chỉ tích tắc, lại thấy ông ấy xuất hiện ở cánh cửa phía bên đối diện. Như ngồi trước sân khấu, tụi con nít vỗ tay quá cỡ thợ mộc. Và cuộc bình luận bắt đầu:
- Ổng có cái máy mầy ơi.
- Hổng lẽ cái máy bắn ổng như bắn hỏa tiễn sao?
- Hay là xảo thuật của “vô tiếng tàng hình”.
- Xảo thuật sao được, quay thiệt đàng hoàng mà.
- Tao nghi là ông ấy làm hình nộm.
- Hình nộm sao đi được.
Trong đám tụi nó, chỉ một mình thằng Ti biết tại sao nhà ảo thuật Khổng Có biến hóa nhanh như tia chớp nhưng nó không thể nói được. Đó là bí mật nghề nghiệp mà ông thầy đã dạy nó: “Không được tiết lộ ‘cội lương’ trò diễn của các đồng nghiệp, dù đó là kẻ mình ghét”. Đó là đạo đức do Khổng Tử dạy - dù cho tới bây giờ nó cũng chưa biết Khổng Tử là ông nào. Nó đã biết người thứ hai xuất hiện trong tiết mục này là ai. Nó chỉ nói trong lòng: “Thầy đã tìm được anh Cần rồi. Ảnh hết đi theo theo đào gánh hát rồi sao ta?”.
Khi kết thúc chương trình, cả ba nghệ sĩ của đoàn ảo thuật Khổng Có xuất hiện từng người một. Hai người đàn ông thì thằng Ti biết quá rõ. Còn người đàn bà bị cưa làm ba khúc mới làm nó ngạc nhiên khi nghe lời giới thiệu: “Nữ nghệ sĩ trong tiết mục cưa người Hoàng Lương - chính là vợ của nhà ảo thuật Khổng Có và hai phụ diễn là Khổng Còn, Khổng Cần”.
Vừa xem tụi nó vừa bàn tán:
- Như vậy là không cần xem phim nữa vì đã có tàng hình...
- Truyền hình không thể thay thế phim được đâu vì coi phim truyền hình đâu đã bằng coi phim ở rạp...
- Coi phim ở rạp đông người...
- Có đập ghế...
- Có la hét... ngồi đái tại chỗ được.
- Phim trên truyền hình không có màu.
- Rồi sẽ có màu.
- Màn ảnh nhỏ xíu.
- Mấy chục năm nữa thì có màn ảnh bự.
Tụi nó vừa xem truyền hình vừa so sánh với coi phim ở rạp và tiên đoán cái ngày sẽ không còn rạp chiếu phim nữa. Riêng thằng Minh không nói nhưng nó tin rằng rạp chiếu phim sẽ còn vì nếu không có rạp chiếu phim thì làm sao nó làm đạo diễn chế tạo phim cho chú Hai Ngon làm chủ rạp chớ!
Hết chương trình văn nghệ, tụi nó lục tục đứng dậy ra về. Ba thằng Long mập chuẩn bị tắt máy thì cô xướng ngôn viên xuất hiện, đọc tin: “Kính thưa quý vị khán giả. Bản tin giờ chót của chúng tôi xin được giới thiệu một người thợ máy chiếu bóng đã anh dũng cứu được nhiều em nhỏ trong một trận hỏa hoạn xảy ra tại rạp chiếu phim Hồng Tiến, tại Gành Hào tỉnh Bạc Liêu. Ông bị phỏng nhẹ, đang nằm trước mặt chúng tôi...”
Thằng Minh kêu lên:
- Khoan tắt chú, cho con coi một chút..
Xướng ngôn viên tiếp tục nói:
- Và đây là người thợ máy dũng cảm, sẽ phát biểu với chúng tôi trên giường bệnh và chung quanh ông là các em nhỏ đã được ông cứu thoát...
Người thợ máy chiếu dũng cảm xuất hiện trên màn ảnh truyền hình. Dù gương mặt băng bó vì vết phỏng, nhưng thằng Minh vẫn nhận ra bởi một giọng nói mà nó không bao giờ quên được.
- Bây giờ sức khỏe ngon lành rồi, phải cứu các em chớ, dầu hèn cũng thể mà!
Đây là lần thứ ba thằng Minh gặp chú chiếu bóng thùng. Nhưng chú lại ở trong một cái thùng!
Chú thích:
[1] Cây bài không cần đánh vẫn thắng (chơi bài mười ba lá).
[2] Truyền Hình Sài Gòn phát hình đầu tiên vào ngày 7/2/1966. Theo báo Điện Ảnh (Sài Gòn số 91, phát hành năm 1959) tường thuật thì buổi truyền hình thực nghiệm lần đầu tiên vào ngày 26.10.1959 tại gian hàng truyền tin quân đội trong một khu triển lãm. Chương trình là những tiết mục văn nghệ bắt đầu từ 19 giờ 15 đến 20 giờ 15 kéo dài cho đến hết ngày 8.11 năm 1959.