← Quay lại trang sách

Chương II BÓNG MA TỪ QUÁ KHỨ

Tin đồn không tan biến đi sau chín ngày hay kể cả chín mươi chín ngày cũng vậy. Lần biến mất thứ hai này của ông Bilbo Bao Gai được bàn thảo khắp Hobbit Thôn, mà thực ra là khắp cả Quận, suốt cả một năm lẻ một ngày sau đó, còn in trong đầu óc thì lâu hơn thế nhiều. Nó trở thành câu chuyện kể bên bếp lửa cho các Hobbit trẻ nghe; nên cuối cùng Bao Gai Điên, lão già cứ xập xòe beng một cái là biến mất rồi sau đó tái xuất với những bịch nọ bịch kia toàn châu báu và vàng, đã thành ra một kiểu nhân vật huyền thoại được nhiều người ưa chuộng, cứ còn sống động mãi sau khi mọi sự biến có thực rành rành kia đã bị quên bẵng đi rồi.

Song trước mắt thì ý kiến phổ biến quanh vùng là Bilbo, ông già lúc nào cũng hơi gàn dở, cuối cùng đã hoàn toàn phát điên mà bỏ đi vào chốn Mờ Xanh rồi. Ở đó ông hẳn nhiên đã rơi xuống một cái vụng hoặc một con sông rồi đi đến một kết cục thê thảm khó có thể nói là không hợp lý. Tội lỗi chủ yếu đổ lên đầu Gandalf.

“Giá như cái lão phù thủy phải gió ấy để cho cậu Frodo trẻ người non dạ được yên, biết đâu cậu ta sẽ bình tâm lại mà nảy ra được một tí trí khôn của dân Hobbit,” họ bảo. Và trước mắt bàn dân thiên hạ, lão phù thủy quả đã để cho Frodo được yên và cậu quả đã bình tâm, nhưng “nảy ra trí khôn của dân Hobbit” thì chẳng thấy đâu mấy. Thật ra, cậu đã ngay tắp lự rước lấy cái tiếng kỳ quặc của ông bác Bilbo. Cậu từ chối để tang; và ngay năm sau cậu tổ chức một bữa tiệc tôn vinh lần thứ một trăm lẻ mười hai ngày sinh ông bác Bilbo, mà cậu gọi là Đại tiệc Trăm Cân. Nhưng ước lượng thế vẫn còn hụt chán, bởi theo lời dặn Hobbit thì tận hai mươi khách được mời và có tới vài bữa với thức ăn như tuyết rơi, đồ uống như mưa trút.

Vài người hơi sốc; nhưng Frodo vẫn duy trì lề lối tổ chức Tiệc Sinh Nhật Bilbo năm này qua năm khác cho đến khi họ thành quen. Cậu nói rằng cậu không nghĩ Bilbo đã chết. Khi họ hỏi: “Vậy thì ông ấy ở đâu?” cậu chỉ nhún vai.

Cậu sống một mình, như Bilbo trước kia; nhưng cậu có vô khối bạn hữu chí thiết, nhất là trong đám Hobbit trẻ (đại đa là lớp hậu sinh của Già Took) hồi bé từng yêu quý Bilbo và thường ra ra vào vào Đáy Bao. Folco Boffin và Fredegar Bolger là hai trong số này; nhưng bạn chí thiết nhất của cậu chỉ có Peregrin Took (tên thường gọi Pippin), và Merry Hươu Bia Rum (tên thật Meriadoc, nhưng họa hoằn lắm mới có người nhớ ra như thế). Frodo cùng họ đi rong ruổi khắp cả Quận; nhưng thường thường cậu chỉ lang thang một mình, và những người biết xét đoán thường kinh ngạc khi biết thỉnh thoảng lại có người bắt gặp cậu ở rất xa nhà, mải miết tản bộ trên những ngọn đồi và trong những khoảnh rừng dưới ánh sao. Merry và Pippin ngờ là thỉnh thoảng cậu có đi thăm tộc người Tiên, như Bilbo ngày xưa.

Thòi gian trôi đi, dân chúng bắt đầu để ý thấy là Frodo cũng có dấu hiệu “duy trì thể lực” tốt: bề ngoài cậu vẫn giữ được dáng dấp một Hobbit cường tráng, đầy nghị lực chỉ vừa hết tuổi lửng lơ. “Vài kẻ thật may mắn đủ đường,” họ bảo; nhưng cho mãi đến khi Frodo gần vào độ ngũ tuần chín chắn hơn thì họ mới bắt đầu nghĩ như thế thật kỳ quặc.

Sau cú sốc đầu tiên, bản thân Frodo cũng thấy rằng tự mình làm chủ mình, làm ông Bao Gai chủ Đáy Bao khá là dễ chịu. Có dễ vài năm cậu tuyệt đối hạnh phúc, không mấy lo lắng về tương lai. Nhưng dù chỉ lờ mờ trong ý thức, niềm hối tiếc đã không ra đi với bác Bilbo vẫn lớn lên đều đều. Cậu thấy mình thỉnh thoảng lại băn khoăn, nhất là vào độ mùa thu, mường tưởng về vùng đất hoang, về những ảo ảnh núi non kỳ lạ cậu chưa bao giờ thấy cứ hiển hiện trong những giấc mơ. Cậu bắt đầu bụng bảo dạ: “Có lẽ một ngày nào đó chính mình sẽ vượt sông Bia.” Đáp lại, nửa kia tâm trí cậu bao giờ cũng chỉ một lời: “Chưa đâu.”

Cứ thế thời gian trôi đi, cho đến khi những năm tháng tứ tuần dần cạn, và sinh nhật lần thứ năm mươi đến gần: năm mươi là con số mà chẳng hiểu sao cậu cảm thấy rất có ý nghĩa (hoặc giả như báo điềm xấu); giá nào thì vào đúng tuổi ấy đột nhiên chuyện phiêu lưu đã xảy đến với Bilbo. Frodo bắt đầu cảm thấy bồn chồn, những con đường mòn quen thuộc dường như đã quá quen bước chân người. Cậu xem bản đồ, và băn khoăn tự hỏi có gì nằm bên ngoài những cái rìa kia: bên ngoài địa giới, bản đồ lập tại Quận chủ yếu để trắng. Cậu bắt đầu nghiện lang thang xa hơn nữa ngoài đồng và thường xuyên chỉ có một mình; nên Merry và mấy người bạn kia dõi theo cậu đầy lo lắng. Người ta thường thấy cậu vừa tản bộ vừa nói chuyện với những lữ khách lạ độ này bắt đầu lai vãng đến Quận.

Đã có nhiều đồn đãi quanh những sự việc kỳ lạ đang xảy ra ở thế giới bên ngoài; và bởi cho tới thời điểm ấy, có dễ đã vài năm Gandalf không thấy xuất hiên hay gửi bất cứ thông điệp nào, Frodo tự mình thu thập mọi tin tức cậu có thể thu thập. Bây giờ người ta còn có thể thấy các Tiên, vốn hiếm khi bước chân lên đất Quận, đang mải miết băng rừng về hướng Tây vào buổi tối, băng qua và không quay trở lại; nhưng bọn họ đang rời Trung Địa, chẳng còn bận tâm gì đến những bất an ở đó nữa. Nhưng còn có cả Người Lùn ở trên đường, đông đến lạ thường. Con đường Đông - Tây cổ xưa chạy qua Quận đến mãi Cảng Xám, Người Lùn vẫn luôn đi đường này tới khu mỏ của họ ở Dãy Núi Lam. Họ vốn là nguồn chủ yếu đưa thông tin về những xứ sở xa xăm đến với người Hobbit - đấy là nếu người Hobbit thèm biết tin: tính tình Người Lùn vốn kiệm lời mà Hobbit cũng chẳng hay hỏi lắm. Nhưng giờ đây Frodo hay gặp những Người Lùn lạ từ các lãnh địa xa, đến tìm chốn trú ẩn nơi miền Tây. Họ có vẻ bấn loạn thấy rõ, đôi kẻ còn thì thào về Kẻ Thù và Đất Mordor.

Cái tên ấy dân Hobbit chỉ biết đến ở trong truyền thuyết và quá khứ đen tối, như một cái bóng trên nền ký ức của họ; nhung nó hung gở và khiến người ta lo lắng. Có vẻ như thế lực hắc ám ở rừng Âm U đã bị Hội Đồng Trắng hất cẳng chỉ để rồi lại tái xuất mạnh vô biên trong những thành quách cũ ở Mordor. Tòa Tháp Tối đã được dựng lại, theo lời đồn. Từ đó thế lực này bành trướng ra khắp nơi, lan xa mãi về phía Đông và phía Nam, nơi chiến tranh đang hiện diện và nỗi sợ hãi đang lớn dần. Những tên Orc lại sinh sôi trong các rặng núi. Quỷ khổng lồ ra đường giữa ban ngày, không còn đần độn nữa mà xảo quyệt và trang bị vũ khí giết người. Còn cả những bóng gió xì xầm về các sinh vật kinh khủng hơn tất thảy, nhưng chẳng ai biết tên.

* * *

Cố nhiên, chẳng mấy thông tin này đến được tai dân thường Hobbit. Song thậm chí kẻ điếc lác nhất, thường xuyên ở rịt trong nhà nhất cũng đã bắt đầu nghe được những câu chuyện đáng ngờ; ai vì công việc thường hay phải lui tới các vùng giáp ranh thì còn bắt gặp nhiều sự việc lạ lùng. Cuộc trò chuyện trong quán Rồng Xanh làng Bờ Nước, vào một buổi tối đúng mùa xuân Frodo sắp năm mươi tuổi, chứng tỏ tin đồn đã lan tới tận cái trung tâm tiện nghi thoải mái này của Quận, dầu cho hầu hết dân Hobbit vẫn chỉ cười nhạo tin đồn ấy.

Sam Gamgee đang ngồi ở một góc gần lò sưởi, đối diện chú là Ted Sạn Mịn con trai ông chủ cối xay; vài Hobbit quê mùa khác đang lắng nghe cuộc tranh cãi của cả hai.

“Đúng là dạo này toàn nghe những chuyện lạ lùng ghê,” Sam nói.

“À,” Ted đáp, “ai để tai nghe thì nghe phải thôi. Nhưng nếu muốn, tôi còn nghe được cả chuyện kể bên bếp lửa và chuyện dọa con nít ở nhà ấy chứ.”

“Hẳn nhiên là nghe được rồi,” Sam bắt bẻ, “mà tôi dám nói vài chuyện trong đấy còn chứa nhiều sự thật hơn cậu tưởng nữa kìa. Dầu sao thì ai mà bịa ra những chuyện ấy chứ? Cứ lấy rồng làm ví dụ này.”

“Không, cảm ơn cậu,” Ted nói, “Tôi không làm thế đâu. Tôi có nghe kể về chúng hồi còn là một Hobbit bé con, nhưng bây giờ chẳng cần phải tin vào chúng. Ở Bờ Nước này Rồng chỉ có một, chính là Rồng Xanh,” chú ta nói khiến xung quanh cười rộ.

“Được thôi,” Sam nói, cũng cười cùng những người kia. “Nhưng thế còn Người Cây, to cao khổng lồ thì sao? Họ nói là cách đây chưa lâu lắm đã thấy tít bên kia Truông Bắc một người to hơn cả cái cây nhé.”

“Họ là những ai?”

“Anh họ Hal của tôi là một này. Anh ấy làm cho ông Boffin ở Trên Đồi nên đi lên mãi tận Tổng Bắc săn bắn. Anh ấy có thấy một người cây hẳn hoi.”

“Có lẽ anh ta chỉ nói là đã thấy thôi. Anh họ Hal của cậu lúc nào chả nói đã thấy đủ thứ; mà có khi anh ta thấy những thứ không có ở đấy ấy chứ.”

“Nhưng thứ này to bằng cả cây du, còn bước đi nữa - bước bảy thước mất có một sải chân, cứ như chỉ là một phân ấy.”

“Vậy tôi dám cá chẳng có phân nào đâu. Cái thứ anh ta thấy đúng là một cây du.”

“Nhưng cái này còn bước đi, tôi đảm bảo với cậu mà; vả lại trên Truông Bắc làm gì có cây du nào.”

“Vậy thì Hal không thể nhìn thấy cái nào hết,” Ted nói. Có vài người cười rộ và vỗ tay: thính giả dường như nghĩ rằng Ted vừa ghi được một điểm.

“Thế cả thôi,” Sam nói, “cậu không thể phủ nhận rằng ngoài anh Haifast nhà chúng tôi còn nhiều người khác đã nhìn thấy những kẻ đáng ngờ đi ngang qua Quận - đi ngang qua đấy nhé, xin nhớ cho: còn nhiều kẻ nữa bị buộc phải quay trở lại ở biên giới. Đội Biên Cảnh xưa nay chưa lắm việc thế bao giờ.

“Tôi còn nghe kể các Tiên đang Tây tiến. Họ nói bọn họ đang đi về cảng, ngoài xa mãi tít bên kia Ba Tháp Trắng.” Sam huơ cánh tay mô tả ang áng: cả chú lẫn mấy người bọn họ đều không biết ra đến Đại Dương, quá mấy tòa tháp cũ bên ngoài ranh giới phía Tây của Quận là bao xa. Nhưng đã thành chuyện kể lâu đời là mãi xa ngoài ấy có Cảng Xám, thỉnh thoảng tàu của dân Tiên từ đó nhổ neo ra khơi, không bao giờ trở về.

“Họ nhổ neo, nhổ neo, nhổ neo vượt Biển, họ đang đi vào miền Tây, bỏ chúng ta lại,” Sam nửa như nói, nửa như hát mấy từ này, vừa lắc đầu buồn bã và nghiêm nghị. Nhưng Ted cười phá lên.

“Dào, cái đó có gì mới đâu, nếu cậu tin những chuyện kể cổ xưa. Hơn nữa tôi chả thấy chuyện đó quan trọng gì với tôi hay là cậu. Kệ xác bọn họ ra khơi! Nhưng tôi dám chắc cậu chưa hề tận mắt thấy bọn họ đi qua, bất kể ai khác ở Quận cũng vậy.”

“Ầy, tôi không biết,” Sam đáp vẻ tư lự. Chú tin chú đã từng gặp một người Tiên trong rừng, và vẫn còn mong ngày nào đó được gặp nhiều nữa. Trong tất cả các truyền thuyết chú từng được nghe những năm đầu đời, những mẩu chuyện rời rạc như thế và những câu chuyện người Hobbit nửa nhớ nửa quên về người Tiên luôn khiến chú xúc động sâu xa hơn hết. “Có một số, kể cả ở những mạn này, còn biết dân Mỹ Tộc và có tin tức từ bọn họ,” chú nói. “Có cậu Bao Gai chẳng hạn, mà tôi làm việc cho đấy. Cậu ấy kể tôi nghe bọn họ đang ra khơi và cậu ấy biết chút ít về các Tiên nhé. Ông già Bilbo còn biết nhiều hơn thế cơ: bao nhiêu lần tôi đã trò chuyện với ông ấy hồi còn bé tí.”

“Ôi, cả hai đều gàn cả,” Ted nói. “Ít ra là ông già Bilbo đã gàn hẳn, còn Frodo sắp gàn. Nếu đấy là chỗ cậu lấy tin, cậu sẽ không bao giờ phải đau khổ vì thiếu những chuyện tưởng tượng vớ vẩn đâu. Này, các bạn, tôi về nhà đây. Giữ sức khỏe nhé!” Cậu ta dốc cạn ca và ầm ĩ đi ra khỏi quán.

Sam ngồi lặng im, không nói gì nữa. Chú đã có quá đủ thứ cần nghĩ ngợi. Trước hết, còn nhiều việc phải làm nốt trong khu vườn Đáy Bao, ngày mai chú sẽ có cả một ngày bận rộn, nếu thời tiết sáng sủa. Cỏ đang mọc vù vù. Nhưng trong đầu Sam còn nhiều thứ khác chứ không chỉ là vườn tược. Sau một chốc chú thở dài, đứng dậy đi ra.

Đang là đầu tháng Tư, bầu trời quang đãng sau cơn mưa nặng hạt. Mặt trời đã xuống thấp, buổi chiều tối nhợt nhạt mát mẻ đang dần dần lặn vào đêm. Chú rảo bộ về nhà dưới những vì sao sớm, băng qua Hobbit Thôn ngược lên Quả Đồi, vừa đi vừa huýt sáo khe khẽ và tư lự.

Đúng vào lúc ấy thì Gandalf xuất hiện trở lại sau đợt vắng mặt dài ngày. Ba năm sau Bữa Tiệc lão triền miên đi vắng. Rồi lão đáo qua thăm Frodo một chuyến, sau khi ngắm nghía cậu thật kỹ lão lại ra đi. Suốt một hai năm sau đó lão quay lại khá thường xuyên, toàn đến bất thình lình sau chạng vạng, rồi bỏ đi không báo trước trước bình minh. Lão thường không thảo luận công việc riêng và những chuyến chu du của mình, mà có vẻ chủ yếu lưu tâm đến tin tức lặt vặt về tình hình sức khỏe và công việc của Frodo.

Rồi đột ngột những chuyến viếng thăm ngưng hẳn. Có dễ đã hơn chín năm kể từ lần cuối Frodo nhìn thấy hay nghe tin về lão, nên cậu đã bắt đầu nghĩ rằng thầy phù thủy sẽ chẳng bao giờ quay về và hẳn đã thôi không còn hứng thú gì với người Hobbit nữa. Vậy mà tối đó, lúc Sam đang rảo bộ về nhà và hoàng hôn dần nhạt, tiếng gõ từng một thời quen thuộc lại vang lên trên khung cửa sổ thư phòng.

Frodo ngạc nhiên sung sướng chào đón người bạn già. Họ nhìn nhau chăm chú.

“Khỏe cả hở?” Gandalf lên tiếng. “Trông cháu vẫn hệt như hồi nào, Frodo ạ!”

“Ông cũng vậy,” Frodo đáp, nhưng thâm tâm cậu nghĩ là Gandalf trông già đi và tiều tụy hẳn. Cậu ép lão kể chuyện bản thân và thế giới rộng lớn bên ngoài, chẳng mấy chốc họ đã mê mải chuyện trò, cứ thế thức mãi tới đêm khuya.

Sáng hôm sau sau bữa sáng trễ tràng, thầy phù thủy ngồi cùng Frodo bên cửa sổ thư phòng rộng mở. Một ngọn lửa đang rực sáng trong lòng lò sưởi, nhưng mặt trời ấm áp, còn gió thì ở đằng Nam. Mọi thứ nom tươi mới, và màu xanh non của mùa xuân đang lung linh trên những cánh đồng, trên những đầu mút các ngón tay cây.

Gandalf đang mải nghĩ về một mùa xuân, ngót tám mươi năm trước, thuở Bilbo chạy khỏi Đáy Bao không có lấy nổi một chiếc mùi soa. Mái tóc lão có lẽ đã trắng hơn hồi ấy, râu lão và lông mày lão có lẽ đã dài hơn, và mặt lão nhiều nếp nhăn hơn sau bao lo âu và trải nghiệm; nhưng đôi mắt lão vẫn sáng như bao giờ đến giờ, lão hút thuốc và thả những vòng khói vẫn bằng sinh lực lẫn khoái cảm ấy.

Bây giờ lão đang hút thuốc trong im lặng, vì Frodo đang ngồi yên, mải mê suy nghĩ. Ngay cả trong ánh sáng buổi sớm mai cậu vẫn cảm nhận được cái bóng tăm tối của những tin tức Gandalf đem về. Cuối cùng cậu cũng phá vỡ im lặng.

“Ông Gandalf, đêm qua ông mới bắt đầu kể cho cháu nghe những chuyện lạ lùng về chiếc nhẫn của cháu,” cậu nói. “Rồi ông lại thôi, bởi vì ông nói là những vấn đề như thế tốt nhất để đến sáng ngày. Ông không nghĩ ông nên hoàn tất ngay bây giờ sao? Ông nói chiếc nhẫn nguy hiểm, nguy hiểm hơn cháu phỏng đoán rất nhiều. Nguy hiểm kiểu gì?”

“Nhiều kiểu lắm,” thầy phù thủy trả lời. “Chiếc nhẫn quyền năng hơn thoạt đầu ta dám tưởng rất nhiều, quyền năng đến nỗi chung cuộc nó sẽ hoàn toàn đánh gục bất cứ ai thuộc giống phàm trần mà lại sở hữu nó. Nó sẽ sở hữu lại kẻ đó.

“Ở Eregion lâu lắm rồi đã chế tạo rất nhiều nhẫn Tiên, những chiếc nhẫn thần như người Hobbit vẫn gọi, và dĩ nhiên chúng có đủ loại: vài chiếc uy lực vượt trội và vài chiếc yếu thua. Những chiếc nhẫn yếu chỉ là các thử nghiệm nghề rèn trước khi nghề hoàn toàn chín muồi, và đối với các Tiên thợ rèn chúng chỉ là thứ vặt vãnh - dù theo ta thì vẫn nguy hiểm cho người phàm. Trong khi những chiếc Nhẫn Báu, những chiếc Nhẫn Quyền Lực, thì cực kỳ nguy hiểm.

“Frodo ạ, một người phàm mang Nhẫn Báu sẽ không chết, nhưng anh ta không thể lớn lên hay có thêm sự sống, anh ta chỉ cứ thế tồn tại, cho đến cuối cùng từng phút một đều thành mệt mỏi. Và nếu sử dụng chiếc nhẫn thường xuyên để làm cho bản thân vô hình, anh ta sẽ mờ dần: anh ta cuối cùng sẽ trở thành vô hình vĩnh viễn, và sống trong cảnh chập choạng dưới con mắt của Thế Lực Hắc Ám cai quản Bộ Nhẫn. Phải, không sớm thì muộn - muộn nếu anh ta thoạt đầu khỏe mạnh và có ý tốt, nhưng không sức mạnh hay mục đích thiện lương nào trụ nổi vĩnh viễn - sớm hay muộn Thế Lực Hắc Ám sẽ nuốt chửng anh ta.”

“Thật kinh khủng!” Frodo nói. Lại là một khoảng im lặng dài. Tiếng Sam Gamgee đang xén cỏ vọng vào từ ngoài vườn.

“Ông biết điều này bao lâu rồi?” Frodo cuối cùng cũng hỏi. “Mà bác Bilbo biết được những gì?”

“Bilbo chẳng biết gì hơn những gì chú ấy kể với cháu, ta chắc chắn vậy,” Gandalf nói. “Chú ấy chắc chắn sẽ không bao giờ truyền lại cho cháu bất cứ cái gì chú ấy nghĩ sẽ là hiểm họa mặc dầu ta có hứa sẽ trông nom cháu. Chú ấy nghĩ chiếc nhẫn rất đẹp, lúc cần thì rất hữu dụng, và nếu có điều gì không ổn hay đáng ngờ thì chính là tại chú ấy. Chú ấy đã nói nó ‘nung nấu trong tâm trí tôi’, chú ấy lúc nào cũng lo lắng về nó; nhưng chú ấy không hề ngờ rằng chiếc nhẫn tự nó là thủ phạm. Dù chú ấy đã phát giác ra rằng thứ đó cần được để mắt; nó có vẻ như không phải lúc nào cũng kích cỡ ấy, trọng lượng ấy; nó co lại hay giãn ra rất kỳ quặc, và có khi đột nhiên tuột khỏi ngón tay mới đây còn chặt khít nữa.”

“Đúng vậy, bác ấy có cảnh báo chuyện đó trong lá thư sau cùng,” Frodo nói, “nên cháu luôn tròng vào sợi xích.”

“Rất khôn ngoan,” Gandalf nói. “Nhưng suốt cả cuộc đời dài của mình. Bilbo không hề liên hệ cái sự ấy với chiếc nhẫn. Chú ấy nhận lấy mọi công trạng cho bản thân mình, và hết sức tự hào. Mặc dù chú ấy bắt đầu trở nên bồn chồn và bực bội. Mỏng quẹt và dài ngoẵng ra, như chú ấy nói. Một dấu hiệu cho thấy chiếc nhẫn đang dần nắm quyền kiểm soát.”

“Ông biết tất cả chuyện này bao lâu rồi?” Frodo lại hỏi.

“Biết ư?” Gandalf nói. “Ta biết nhiều điều chỉ Hội Đồng Thông Thái được biết, Frodo ạ. Nhưng nếu ý cháu là ‘biết về chiếc nhẫn này’ thì, chà, ta vẫn còn chưa biết, có thể nói thế. Còn một cuộc kiểm tra cuối cùng phải làm. Song ta không còn nghi ngờ phỏng đoán của mình nữa.”

“Ta đã bắt đầu phỏng đoán khi nào nhỉ?” lão đăm chiêu, lục tìm trong trí nhớ. “Để xem nào - chính cái năm Hội Đồng Trắng đuổi Thế Lực Hắc Ám ra khỏi rừng Âm U, ngay trước Trận Chiến Năm Đạo Quân, Bilbo đã tìm thấy chiếc nhẫn. Lúc đó bóng tối đổ xuống tim ta, mặc dầu lúc bấy giờ ta chưa biết mình sợ điều gì. Ta thường tự hỏi làm thế nào gã Gollum lại vớ được một chiếc Nhẫn Báu, bởi rõ ràng nó là Nhẫn Báu - ít nhất chuyện đó đã rõ ràng ngay từ đầu. Rồi ta nghe câu chuyện kỳ lạ của Bilbo về việc chú ấy đã ‘thắng’ được nó ra sao, ta không thể nào tin nổi. Khi cuối cùng ta cũng ép được chú ấy nói ra sự thực, ngay lập tức ta thấy ra rằng chú ấy đã luôn cố khẳng định quyền sở hữu không thể tranh cãi đối với chiếc nhẫn. Rất giống Gollum với ‘món quà sinh nhật’ của gã. Những lời nói dối quá giống nhau khiến ta thấy không thoải mái. Rõ ràng chiếc nhẫn có một quyền năng gớm ghiếc lập tức bắt đầu ảnh hưởng đến người giữ nhẫn. Đó là cảnh báo thực sự đầu tiên đến với ta, rằng không phải tất cả đều ổn. Ta thường bảo Bilbo, những chiếc nhẫn như vậy tốt hơn hết là bỏ không dùng; nhưng chú ấy phật ý, phát cáu ngay. Ta chẳng thể làm gì khác. Ta không thể lấy nhẫn của chú ấy mà không gây hại ghê hơn và dù sao chăng nữa ta đâu có quyền làm thế. Ta chỉ có thể quan sát và chờ đợi. Ta cũng có thể hỏi ý kiến Saruman Áo Trắng, nhưng có điều gì đó luôn ngăn ta lại.”

“Ông ta là ai?” Frodo hỏi. “Truớc kia cháu chưa nghe nói đến ông ta bao giờ.”

“Có lẽ chưa,” Gandalf trả lời. “Dân Hobbit hiện giờ, hay trước kia, đều không quan tâm đến ông ta. Song ông ta rất quan trọng trong Hội Đồng Thông Thái. Ông ta là thủ lĩnh của hội ta, đứng đầu cả Hội Đồng. Hiểu biết của ông ta thâm sâu, nhưng hiểu biết sâu đến đâu tính tự kiêu tự đại lớn đến đó, nên mọi sự can thiệp đều khiến ông ta khó chịu. Toàn bộ tích truyện về những chiếc nhẫn Tiên, vĩ đại lẫn nhỏ bé, chính là địa hạt của ông ta. Ông ta đã nghiên cứu địa hạt này từ lâu, tìm kiếm các bí mật thất truyền về công cuộc chế tác; nhưng khi những chiếc nhẫn được đem ra tranh luận trong Hội Đồng, mọi hiểu biết về tích truyện nhẫn mà ông ta tiết lộ cho chúng ta lại bác bỏ các lo ngại của ta. Vậy nên nghi ngờ của ta cứ ngủ yên - dù không dễ dàng gì. Ta vẫn quan sát và chờ đợi.

“Và mọi việc với Bilbo dường như vẫn ổn. Rồi nhiều năm trôi đi. Phải, nhiều năm trôi đi, và năm tháng dường như không chạm tới chú ấy. Không thấy chú ấy có dấu hiệu tuổi tác. Cái bóng đen mơ hồ lại chụp xuống ta. Nhưng ta tự nhủ: ‘Chẳng qua chú ấy xuất phát từ một gia đình đàng ngoại thọ cao. Chưa đến lúc thôi. Cứ đợi đấy!’

“Vậy là ta cứ đợi. Cho đến cái đêm chú ấy rời ngôi nhà này. Chú ấy đã nói và làm những việc khiến lòng ta tràn ngập nỗi sợ hãi không lời lẽ nào của Saruman xoa dịu nổi. Cuối cùng ta cũng hiểu rằng có thứ gì đó tăm tối và chết chóc đang hành động. Và kể từ đó ta dành phần lớn năm tháng để tìm ra sự thực.”

“Chưa có thiệt hại lâu dài nào cả, phải không?” Frodo lo âu hỏi. “Rồi dần dà bác ấy sẽ ổn, phải không? Ý cháu là, có thể được yên nghỉ bằng an?”

“Chú ấy thấy khá hơn ngay lập tức,” Gandalf nói. “Nhưng chỉ có một Thế Lực duy nhất trên thế gian này biết mọi điều về Bộ Nhẫn cùng ảnh hưởng của chúng; còn theo như ta biết chẳng Thế Lực nào trên thế gian này biết tường tận về dân Hobbit cả. Trong Hội Đồng Thông Thái, ta là người duy nhất ham mê nghiên cứu tích truyện Hobbit: một nhánh tri thức chẳng mấy thông tin, song lại đầy những kinh ngạc. Họ có thể mềm như bơ, nhưng đôi khi cứng như rễ cổ thụ. Ta nghĩ có khả năng vài người sẽ cưỡng lại những chiếc Nhẫn được lâu hơn phần lớn Hội Đồng Thông Thái dám tin rất nhiều. Ta nghĩ cháu không cần phải lo lắng cho bác Bilbo đâu.

“Cố nhiên, chú ấy sở hữu chiếc nhẫn đã nhiều năm, thật sự đã sử dụng nó, nên có lẽ phải một thời gian dài nữa ảnh hưởng mới phai hết - phải một thời gian dài nữa thì chú ấy mới có thể nhìn thấy nó mà vẫn không bị làm sao, chẳng hạn thế. Còn như ngược lại, chú ấy có thể sống tiếp nhiều năm nữa, hoàn toàn hạnh phúc: giữ y nguyên như khi chia tay với chiếc nhẫn. Bởi cuối cùng chú ấy đã tự nguyện rời bỏ nó: đây là điểm tối quan trọng. Không, ta không lo lắng về Bilbo thân mến nữa, một khi chú ấy đã buông thứ ấy ra. Ta cảm thấy có trách nhiệm với chính cháu kia.

“Kể từ khi Bilbo rời đi ta đã luôn lo lắng cho cháu, cho tất cả những Hobbit tuyệt vọng, ngơ ngẩn, đáng yêu này. Sẽ là một đòn nặng nề cho thiên hạ, nếu Thế Lực Hắc Ám lấn át toàn Quận; nếu tất cả những Bolger, Rúc Tù Và, Boffin, Chật Nịt Quần tốt bụng vui vẻ và ngu ngốc, và mọi người còn lại, chưa kể nhà Bao Gai nực cuời, bị bắt làm nô lệ.”

Frodo rùng mình. “Nhưng tại sao chúng cháu sẽ bị như thế?” cậu hỏi. “Mà tại sao hắn ta lại muốn những nô lệ như dân Hobbit?”

“Nói thật với cháu,” Gandalf đáp, “ta tin rằng cho đến giờ - lưu ý cháu là cho đến giờ - hắn ta hoàn toàn bỏ qua sự tồn tại của dân Hobbit. Cháu nên lấy đó làm may. Nhưng thời kỳ an toàn của các cháu đã qua rồi. Hắn ta không cần các cháu - hắn ta có vô khối tay sai đắc dụng hơn - nhưng hắn ta sẽ không quên các cháu lần nữa. Mà dân Hobbit làm thân nô lệ đau khổ sẽ khiến hắn ta hài lòng hơn là dân Hobbit tự do và hạnh phúc. Trên đời này còn có dã tâm và báo thù vậy đấy.”

“Báo thù?” Frodo nói. “Báo thù chuyện gì? Cháu vẫn chưa thật hiểu mọi chuyện này thì liên quan gì đến bác Bilbo, đến bản thân cháu, và chiếc nhẫn của hai bác cháu.”

“Có liên quan mật thiết đến chiếc nhẫn rồi đấy,” Gandalf nói. “Cháu còn chưa biết mối hiểm họa thực sự; nhưng rồi cháu sẽ biết thôi. Lần trước khi ở đây, bản thân ta còn chưa chắc chắn về mối hiểm họa ấy; nhưng đã đến lúc cần biết rồi. Đưa chiếc nhẫn cho ta một lát.”

Frodo lấy nhẫn từ túi quần chẽn, chiếc nhẫn được tròng vào sợi dây treo lủng lẳng nơi thắt lưng. Cậu tháo nhẫn ra, từ từ đưa cho thầy phù thủy. Đột nhiên chiếc nhẫn nghe rất nặng, như thể nó hoặc chính Frodo phần nào lưỡng lự không muốn để Gandalf chạm vào.

Gandalf giơ nhẫn lên. Trông nó như được làm từ vàng đặc nguyên chất. “Cháu có thấy dấu khắc nào trên mặt nhẫn không?” lão hỏi

“Không,” Frodo nói. “Không có gì. Hoàn toàn trơn, nó cũng chưa bao giờ bị xước hay có dấu hiệu bị mòn.”

“Chà, vậy thì nhìn xem!” Trước sự ngạc nhiên và kinh hoảng của Frodo thầy phù thủy đột ngột quẳng nó vào một góc lò lửa đang bốc ngùn ngụt. Frodo kêu lên chộp vội lấy que cời; nhưng Gandalf đã giữ cậu lại.

“Đợi đã!” lão nói giọng ra lệnh, đảo mắt nhìn Frodo thật nhanh từ dưới cặp mày rậm rì.

Không thấy có thay đổi rõ ràng nào từ chiếc nhẫn. Một lúc sau Gandalf đứng dậy, khép chớp lật bên ngoài cửa sổ, kéo rèm. Căn phòng trở nên tối và tĩnh lặng, mặc dầu vẫn còn thoáng nghe vẳng từ ngoài vườn tiếng kéo của Sam lách cách, giờ đã gần của sổ hơn. Trong giây lát thầy phù thủy đứng nhìn ngọn lửa, rồi lão khom người dùng que cời gắp chiếc nhẫn lên bệ lò, đoạn nhón ngay nó lên. Frodo bật kêu.

“Nó lạnh nguyên mà,” Gandalf nói. “Đỡ lấy!” Frodo đỡ lấy chiếc nhẫn trong lòng bàn tay run rẩy: dường như nó đã dày lên và nặng thêm hơn bao giờ hết.

“Giơ nó lên!” Gandalf ra lệnh. “Nhìn thật kỹ vào!”

Frodo làm theo, giờ cậu đã thấy những dòng tinh xảo, tinh xảo hơn nét bút tinh xảo nhất, chạy vòng quanh thân nhẫn, mặt bên ngoài lẫn bên trong, những vệt lửa có vẻ tạo thành các con chữ bằng một kiểu chữ viết tay bay bướm. Chúng tỏa sáng rực rỡ chói lói, song lại mơ hồ, như thể hiện ra từ chốn sâu thẳm tận cùng.

“Cháu không đọc được mấy chữ lửa,” Frodo nói, giọng run run.

“Cháu thì không,” Gandalf đồng tình, “nhưng ta thì có. Đây là chữ Viết Tiên, thuộc một mẫu tự cổ xưa, song ngôn ngữ thì là của Đất Mordor, ta sẽ không thốt ra ở đây. Theo Ngôn Ngữ Chung thì đây là những gì dòng chữ viết, khá sát nghĩa đấy:

Một Nhẫn Chúa thống trị tất cả, một Nhẫn Chúa tìm ra hết

Một Nhẫn Chúa tập hợp tất cả, trong bóng tối trói buộc hết

Đó chỉ là hai dòng từ một đoạn thơ đã truyền lại từ xửa xưa trong các tích truyện Tiên:

Ba Nhẫn cho các Tiên Chúa sống dưới gầm trời xanh

Bảy cho các Chúa Người Lùn dưới sảnh đá bất diệt

Chín cho Con Người Phàm Trần định mệnh dành phải chết

Một cho Chúa Tể Hắc Ám ngự cao trên ngai đen.

Ở Vùng Đất Đen Mordor nơi trú ngụ Bóng Đêm.

Một Nhẫn Chúa thống trị tất cả, một Nhẫn Chúa tìm ra hết

Một Nhẫn Chúa tập hợp tất cả, trong bóng tối trói buộc hết

Ở Vùng Đất Đen Mordor nơi trú ngụ Bóng Đêm.”

Lão ngừng lại, và rồi chậm rãi nói bằng giọng thật trầm: “Đây là chiếc Nhẫn Chủ, Nhẫn Chúa thống trị tất cả. Đây chính là chiếc Nhẫn Chúa hắn bị mất nhiều năm về trước, làm cho thế lực hắn suy yếu nặng nề. Hắn thèm khát nó vô cùng - nhưng không thể để hắn lấy được nó.”

Frodo ngồi im lặng và bất động. Nỗi sợ hãi như đang thò bàn tay to lớn, hệt đám mây đen đang nhô lên phía đằng Đông lừng lững chực nhận chìm cậu. “Cái nhẫn này ư!” cậu lắp bắp “Thế quái nào... thế quái nào nó lại đến được với cháu?”

“À!” Gandalf nói. “Đó là một câu chuyện rất dài. Phần mở đầu khởi nguồn từ Những Năm Đen Tối, bây giờ chỉ các bậc thầy uyên bác còn nhớ. Nếu ta phải kể cho cháu nghe toàn bộ câu chuyện, chắc chúng ta sẽ còn ngồi đây tận đến khi Xuân đã quá sang Đông.

“Nhưng đêm qua ta đã kể cháu nghe về Sauron Đại Đế, Chúa Tể Hắc Ám. Những tin đồn mà cháu đã nghe được đều đúng cả đấy: hắn quả thật lại đang trỗi dậy, rời nơi trú ẩn ở rừng Âm U quay trở lại thành trì cổ trong tòa Tháp Tối Đất Mordor. Cái tên ấy đến cả dân Hobbit các cháu cũng đã từng nghe, hệt một bóng ma bên lề những câu chuyện xưa. Luôn luôn sau mỗi lần thất bại và nghỉ ngơi, Bóng Ma sẽ mang lấy một hình dạng khác và lớn mạnh thêm.”

“Ước gì chuyện đó không xảy ra ở thời của cháu,” Frodo nói.

“Ta cũng ước được vậy,” Gandalf đáp, “tất cả những ai sống trải và chứng kiến những thời đại như thế đều ước vậy. Nhưng không đến lượt họ quyết định. Tất cả những gì chúng ta cần quyết định là làm gì với cái thời đại rơi vào tay chúng ta. Và đã bắt đầu rồi đấy Frodo, thời đại của chúng ta đã bắt đầu khoác vẻ đen tối rồi. Kẻ Thù đang nhanh chóng trở nên quá mạnh. Mưu đồ của hắn còn lâu mới chín muồi, ta nghĩ vậy, nhưng chúng cũng đang dần chín. Chúng sẽ khiến chúng ta khốn đốn. Chúng sẽ khiến chúng ta hết sức khó khăn, kể cả nếu không có vận hội chết người này.

“Kẻ Thù vẫn còn thiếu một thứ cho hắn ta sức mạnh và sự tinh thông hòng đánh lui mọi kháng cự, phá vỡ mọi phòng thủ cuối cùng, bao trùm toàn cõi trong cảnh tăm tối lần thứ hai. Hắn còn thiếu Nhẫn Chúa.

“Ba Nhẫn, tinh xảo hơn tất thảy thì các chúa Tiên đã giấu hắn ta, tay hắn chưa bao giờ chạm được vào hay làm dơ bẩn chúng. Bảy Nhẫn thì các vị vua Người Lùn sở hữu, nhưng hắn giành lại được ba, những chiếc khác lũ rồng thiêu rụi. Chín Nhẫn hắn đã trao cho những Nguời Phàm, kiêu hãnh và vĩ đại, vì vậy mà bẫy được bọn họ. Từ lâu bọn họ đã rơi vào quyền thống trị của Nhẫn Chúa và trở thành Ma Nhẫn, những bóng ma ở bên dưới cái Bóng Ma lớn là hắn, những đầy tớ khủng khiếp nhất của hắn. Lâu lắm rồi. Đã nhiều năm kể từ dạo Bộ Chín còn xuất hiện dưới nắng trời. Nhưng ai mà biết được? Khi Bóng Ma một lần nữa trỗi dây, biết đâu chúng sẽ lại hiện ra. Mà thôi nào! Chúng ta sẽ không nói những chuyện như thế ngay giữa buổi sớm ở Quận đấy chứ.

“Vậy tức là thế này: Bộ Chín thì hắn ta đã gom lại được cho mình; Bộ Bảy cũng vậy, không thì cũng bị hủy rồi. Bộ Ba vẫn còn được giấu kín. Nhưng chuyện đó không khiến hắn phiền lòng nữa. Hắn chỉ cần Nhẫn Chúa; bởi hắn đã tự tay làm chiếc ấy, Nhẫn Chúa chính là hắn, và hắn đã để phần lớn quyền năng cũ của chính mình nhập vào trong đó, để có thể thống trị tất cả các nhẫn kia. Nếu giành lại được Nhẫn Chúa, hắn sẽ lại thống lĩnh tất cả các nhẫn, bất kể chúng ở đâu, kể cả Bộ Ba, tất cả những gì đã làm nên nhờ chúng sẽ lộ ra, hắn sẽ mạnh hơn bao giờ hết.

“Và vận hội chết người chính là đây, Frodo ạ. Hắn từng tin là Nhẫn Chúa đã tiêu vong; rằng tộc người Trên đã phá hủy nó, bởi đáng lẽ nên là vậy. Nhưng bây giờ thì hắn biết nó chưa tiêu vong, có kẻ đã tìm ra nó. Vậy nên hắn ta đang truy tìm nó, truy tìm mải miết, mọi suy nghĩ của hắn ta nhất nhất dồn vào đó. Nó là hy vọng lớn của hắn ta, và nỗi lo lớn cho chúng ta.”

“Tại sao, tại sao nó không bị hủy?” Frodo la lên. “Còn nữa, thế nào mà Kẻ Thù lại đến nỗi mất nó, nếu như hắn ta quá mạnh, chiếc Nhẫn lại là bảo bối quý giá với hắn ta như thế?” Cậu siết chặt chiếc Nhẫn trong tay, như thể đã thấy được những ngón tay đen ngòm đang vươn dài ra chộp lấy nó.

“Hắn ta bị đoạt mất,” Gandalf nói. “Sức mạnh của tộc người Tiên kháng cự hắn xưa kia mạnh mẽ hơn nhiều; hơn nữa hồi ấy không phải mọi Con Người đều lánh khỏi các Tiên. Con Người từ Tây Châu đã đến trợ giúp họ. Đó là một chương của lịch sử cổ đại, mà hồi tưởng lại cũng tốt; bởi vì ngày đó cũng có đau buồn, và bóng tối giăng đầy, nhưng lòng dũng cảm thì thật lớn lao, và những kỳ tích không hoàn toàn uổng phí. Một ngày nào đó, biết đâu đấy, ta sẽ kể cho cháu nghe toàn bộ câu chuyện, hoặc là cháu sẽ được nghe kể trọn vẹn từ người hiểu nó hơn ai hết.

“Nhưng bây giờ, bởi vì hơn hết cháu cần phải biết vật này đến với cháu ra sao, và thế cũng là đủ chuyện rồi, ta sẽ chỉ kể riêng chuyện ấy. Gil-galad chúa Tiên và Elendil người Tây Châu là những anh hùng đã lật đổ Sauron, dù bản thân họ cũng bỏ mạng trong kỳ tích ấy; và Isildur con trai Elendil chặt lấy chiếc Nhẫn từ tay Sauron và giữ nó cho mình. Rồi Sauron bị chế ngự, linh hồn hắn đào tẩu, trốn chui lủi suốt nhiều năm đằng đẵng, cho đến khi bóng ma của hắn hiện hình trở lại ở rừng Âm U.

“Nhưng chiếc Nhẫn thì đã mất. Nó rơi xuống Sông Cả Anduin, rồi biến mất tăm. Bởi vì Isildur lúc ấy đang dẫn quân về phương Bắc dọc theo bờ Đông con sông, đến gần Đồng Diên Vĩ thì bị những tên Orc khổng lồ trong núi mai phục, hầu hết thuộc hạ của ông bị giết. Ông nhảy xuống dòng nước, nhưng chiếc Nhẫn tuột khỏi tay trong lúc ông bơi, và rồi bợn Orc nhìn thấy ông, giết ông bằng những mũi tên.”

Gandalf ngừng lại. “Rồi ở đó trong những vụng nước tối ngay giữa Đồng Diên Vĩ,” lão nói, “chiếc Nhẫn tuột ra khỏi truyền thuyết cùng mọi hiểu biết của người đời; mà câu chuyện cho đến đó cũng chỉ vài người còn biết, và Hội Đồng Thông Thái chẳng thể khám phá điều gì nữa. Nhưng cuối cùng ta đã có thể tiếp tục câu chuyện ấy, ta nghĩ vậy.

“Rất lâu sau đó, nhưng vẫn là xa xưa về trước, ở hai bên bờ con Sông Cả ngay rìa Vùng Đất Hoang có một giống người nhỏ bé chân tay khéo léo, bước đi không tiếng động. Ta đoán họ cũng là giống người Hobbit; có họ với cụ kị dòng Đại Cồ, bởi vì họ yêu Sông Cả, thường bơi ngoài sông, hoặc làm những chiếc thuyền nhỏ xíu bằng sậy. Trong số họ có một gia tộc cực kỳ danh giá, bởi lớn mạnh và giàu có hơn hầu hết tất cả. Gia tộc này được một cụ bà trưởng tộc cai trị, vừa nghiêm khắc vừa khôn ngoan biết rành tích cũ, những tích nào họ còn gìn giữ. Người tò mò tọc mạch, ưa tìm hiểu nhất trong gia tộc tên gọi là Sméagol. Gã rất say mê rễ cây và những sự khởi đầu; gã lặn xuống nhiều vụng sâu; gã đào bới bên dưới cây thân gỗ và thân cỏ đương lớn; gã làm hầm ngạch vào bên trong các mô cỏ; và gã thôi không ngước nhìn những đỉnh đồi, hoặc lá trên cây, hoa bừng nở trong không trung nữa: đầu gã và mắt gã hướng xuống đất.

“Gã có một anh bạn tên gọi Déagol, tính tình y hệt gã, cặp mắt sắc hơn nhưng không nhanh và mạnh được bằng. Một lần họ lấy thuyền xuôi xuống Đồng Diên Vĩ, nơi có cơ man nào những thảm diên vĩ và sậy trổ hoa. Đến nơi, Sméagol xuống thuyền, chúi mũi sục sạo hai bên bờ còn Déagol ngồi lại trên thuyền câu cá. Đột nhiên một con cá cực lớn mắc vào lưỡi câu, và chưa kịp hiểu minh ở chỗ nào thì anh ta đã bị kéo ra xa, chìm nghỉm dưới dòng nước, xuống tận đáy. Thế rồi anh ta buông sợi dây câu ra, bởi nghĩ mình nhìn thấy thứ gì sáng lóa dưới lòng sông, và anh ta nín thở vồ lấy nó.

“Rồi anh ta trồi lên phun phì phì, rong tảo trên mái tóc và một vốc bùn đầy tay; anh ta bơi vào bờ. Và nhìn kìa! Khi anh ta rửa sạch bùn, rành rành trên tay anh ta một chiếc nhẫn vàng tuyệt đẹp; nó phát sáng và lấp lánh dưới mặt trời, đến độ con tim anh ta thấy hân hoan. Nhưng từ sau một thân cây Sméagol đã chăm chú theo dõi anh bạn tự bao giờ, và nhân lúc Déagol mải hể hả với chiếc nhẫn, Sméagol lẻn êm lại đằng sau.

“ ‘Đưa chúng ta thứ đó nào, Déagol bạn yêu,” Sméagol nói với qua vai bạn.

“ ‘Vì sao?’Déagol hỏi.

“ ‘Bởi vì hôm nay là sinh nhật của ta, bạn yêu, ta muốn có nó,’ Sméagol nói.

“ ‘Ta chẳng bận tâm,’ Déagol đáp. ‘Ta đã tặng quà cho bạn rồi, mà còn vượt quá khả năng chi trả của ta nữa. Ta tìm thấy vật này, nên ta sẽ giữ nó.’

“ ‘Ô, bạn sẽ giữ thật sao, bạn yêu,’ Sméagol nói; rồi gã thộp cổ họng Déagol, siết cổ anh chàng, bởi vì vàng trông sáng rỡ và đẹp đẽ quá chừng. Sau rốt gã tra chiếc nhẫn vào ngón tay mình.

“Không ai tìm hiểu ra được chuyện đã xảy đến với Déagol; anh này bị sát hại cách xa nhà, thi thể bị giấu đi một cách xảo trá. Còn Sméagol quay về nhà một mình; gã nhận thấy không ai trong nhà có thể nhìn thấy gã chừng nào gã còn đeo chiếc nhẫn. Gã rất hài lòng với khám phá của mình nên giấu nhẹm nó đi; rồi gã dùng nó để tìm ra những điều bí mật, gã dùng hiểu biết đó cho những mục đích không trung thực và hiểm độc. Gã trở nên nhanh mắt thính tai với mọi chuyện dễ gây tổn hại. Chiếc nhẫn đã cho gã quyền năng đúng theo tầm vóc của gã. Chẳng có gì phải ngạc nhiên là gã trở nên vô cùng đáng ghét và bị tất cả họ hàng tránh né (mỗi khi hiện hình). Họ tống cổ gã đi, còn gã lồng lộn trả đũa. Gã nhiễm thói trộm cắp, và đi khắp đó đây tự lẩm nhẩm một mình, vừa gầm gừ trong cổ họng. Vậy nên người ta gọi gã là Gollum, và nguyền rủa gã, bảo gã hãy cút đi thật xa, và bà gã, mong được bình yên, đã khai trừ gã khỏi gia tộc, đuổi gã ra khỏi hốc của bà.

“Gã lang thang trong cô độc, khóc than chút đỉnh về nỗi nhân gian tàn nhẫn, rồi gã khởi hành đi ngược lên thượng nguồn Sông Cả, cho đến khi gặp một con suối chảy từ trên rặng núi xuống, liền đi theo hướng ấy. Gã bắt cá trong vụng sâu bằng những ngón tay vô hình, rau ráu ăn sống. Một ngày nọ trời rất nóng, trong lúc khom người trên một vụng nước, gã cảm thấy sau gáy như bị thiêu đốt, rồi một tia sáng chói lòa từ dưới nước làm đôi mắt ướt của gã nhức nhối. Gã kinh ngạc, bởi gã đã hầu như quên mất Mặt Trời. Rồi gã ngược lên dứ nắm đấm về phía Thái Dương một lần cuối.

“Nhưng vừa hạ tầm mắt, gã thoáng nhìn tít xa bên trên các đỉnh núi Dãy Núi Mù, nơi dòng suối chảy ra. Và đột nhiên gã nghĩ: ‘Bên dưới rặng núi kia hẳn sẽ râm và mát. Ở đó Mặt Trời sẽ không săm soi ta được. Bộ rễ của những quả núi kia thực ra cũng là rễ; hẳn phải có những bí mật to lớn bị chôn vùi ở đó chưa kẻ nào khám phá ra kể từ thuở khai thiên lập địa.’

“Vậy là ban đêm gã khởi hành ngược lên cao nguyên và gã tìm thấy một cái hang con nơi con suối tối đen chảy ra; rồi gã cứ luồn lọt như thể con giòi vào mãi trung tâm những quả đồi, sau đó thì bặt tăm bặt tích không còn ai biết đến nữa. Chiếc Nhẫn đi vào bóng tối cùng với gã, và ngay cả kẻ làm ra nó, khi quyền lực đã lớn mạnh trở lại, cũng không thể biết được gì.”

“Gollum!” Frodo la lên. “Gollum? Có phải ý ông đây chính là sinh vật Gollum bác Bilbo từng gặp? Ghê tởm quá!”

“Ta nghĩ đó là một câu chuyện buồn,” thầy phù thủy nói, “và rất có thể xảy đến cho bất kỳ kẻ nào khác, kể cả vài Hobbit mà ta biết rõ.”

“Cháu không thể tin là Gollum có họ hàng với người Hobbit, dù xa xôi mấy,” Frodo nói vẻ hơi nóng nảy. “Thật là một ý tưởng ghê sợ!”

“Dù sao chăng nữa vẫn đúng là thế,” Gandalf đáp “về nguồn gốc bọn họ, giá nào ta cũng hiểu được hơn dân Hobbit tự mình hiểu lấy. Vì ngay cả câu chuyện của chú Bilbo cùng cho thấy mối quan hệ họ hàng. Có vô khối điều trong tâm thức và ky ức của họ hết sức tương đồng. Chẳng hạn, họ hiểu rõ nhau đến kinh ngac, rõ hơn Hobbit có thể hiểu Người Lùn, hay Orc hay thậm chí cả Tiên rất nhiều. Trước hết, cứ thử nghĩ đến những câu đố họ cùng biết rõ mà xem.”

“Đúng,” Frodo nói. “Nhưng ngoài Hobbit ra thì các dân khác cũng chơi câu đố chứ, lại phần nhiều cùng một kiểu. Còn nữa, dân Hobbit không chơi gian. Gollum thì lúc nào cũng có ý chơi gian. Gã ta chỉ nhăm nhăm đánh lạc hướng bác Bilbo tội nghiệp. Và cháu dám nói sinh vật quái ác đó khoái lắm mỗi khi khởi lên một trò chơi mà kết cục có thể mang lại cho gã một nạn nhân dễ ợt, mà giả sử có thua cũng sẽ không tổn hại đến gã.”

“Ta e là đúng như vậy,” Gandalf thừa nhận. “Nhưng ta nghĩ còn gì đó khác trong chuyện đấy, mà cháu chưa thấy được. Gã Gollum cũng không đổ đốn toàn phần. Gã ta đã tỏ ra dẻo dai hơn bất cứ ai trong Hội Đồng Thông Thái dám phỏng đoán - như một Hobbit có thể chịu đựng. Trong tâm trí gã vẫn tồn tại góc nhỏ nào đó thuộc về chính gã, rồi ánh sáng đi qua đó, như thể qua một kẽ nứt trong bóng tối: ánh sáng từ quá khứ. Ta nghĩ quả thực cũng dễ chịu nếu được nghe lại một giọng nói chân thành, gợi lên bao ký ức về gió, cây, mặt trời trên cỏ, những thứ bị lãng quên như vậy.

“Nhưng dĩ nhiên, như thế chung cuộc sẽ chỉ khiến cho phần xấu xa trong con người gã thêm cáu giận - trừ phi phần đó có thể bị chinh phục. Trừ phi nó có thể được chữa trị,” Gandalf thở dài. “Chao! Chẳng có hy vọng gã ta sẽ được thế. Nhưng cũng không đến nỗi hoàn toàn vô vọng. Không, không hoàn toàn, dù gã đã sở hữu chiếc Nhẫn lâu quá, hầu như từ tận hồi nảo hồi nào đến suýt không còn nhớ nổi. Bởi vì cũng đã lâu gã không còn đeo thường xuyên: trong bóng tối đen đặc thì hiếm lúc nào cần đến nó. Chắc chắn gã vẫn chưa từng ‘mờ đi’. Gã vẫn còn mảnh khảnh mà dẻo dai. Nhưng thứ đó ăn dần tâm trí gã, dĩ nhiên rồi, và cực hình trở nên gần như không chịu nổi.

“Mọi ‘bí mật to lớn’ bên dưới rặng núi hóa ra chỉ là đêm trống rỗng: chẳng có gì hơn để mà tìm hiểu, chẳng có gì đáng làm duy nhất chỉ có ăn uống dơ dáy lén lút và hồi tưởng đầy phẫn nộ. Gã nhìn chung rất khốn khổ. Gã sợ bóng tối, và còn ghét ánh sáng hơn: gã ghét mọi thứ, trên hết là chiếc Nhẫn.”

“Ý ông là gì?” Frodo hỏi. “Chắc chắn chiếc Nhẫn là Bảo Bối của gã, thứ duy nhất gã quan tâm đến chứ? Còn nếu gã ghét nó, tai sao gã không tống khứ nó đi hay rời đến nơi khác bỏ nó lại?”

“Cháu phải bắt đầu hiểu đi chứ, Frodo, sau tất cả những gì cháu đã được nghe,” Gandalf nói. “Gã căm ghét nó và cũng yêu nó, hệt như gã căm ghét và yêu chính bản thân mình. Gã không thể giũ bỏ nó đi. Trong chuyện này gã chẳng còn lại tí ý chí nào hết.

“Một chiếc Nhẫn Quyền Năng tự lo liệu được cho bản thân, Frodo ạ. Nó thì có thể tuột đi mất một cách rất xảo trá, nhưng kẻ giữ nó thì không bao giờ từ bỏ nó được. Cùng lắm kẻ đó sẽ tung hứng cái ý tưởng chuyển nó sang cho người khác - mà cũng chỉ ở giai đoạn đầu thôi, khi chiếc nhẫn vừa khởi sự kiểm soát kẻ giữ nó. Nhưng như ta được biết trước nay duy chỉ có Bilbo đã từng đi xa hơn cả ý tưởng, đã thực sự làm tới thật. Mà đấy là chú ấy cần sự trợ giúp toàn lực của ta. Và kể cả như thế thì chú ấy, cũng không bao giờ cứ thế mà từ bỏ, hay vứt nó đi. Không phải Gollum, Frodo ạ, mà chính chiếc Nhẫn quyết định mọi chuyện, Chiếc Nhẫn đã rời bỏ gã.”

“Cái gì, vừa kịp để gặp được bác Bilbo á?” Frodo đáp. “Chẳng phải một gã Orc sẽ thích hợp hơn sao?”

“Đây không phải chuyện đùa,” Gandalf nói. “Không phải để cháu đùa đâu. Cho đến nay đấy là sự biến kỳ lạ nhất trong toàn bộ câu chuyện về chiếc Nhẫn: sự xuất hiện của Bilbo đúng vào thời điểm ấy, và đặt tay lên nó, mò mẫm thôi, ngay trong bóng tối.

“Không chỉ có một quyền năng đang vận động, Frodo ạ. Chiếc Nhẫn đang cố gắng trở về với chủ nhân. Nó đã tuột ra khỏi bàn tay của Isildur để phản bội ông; rồi khi có cơ may xuất hiện nó liền tóm bắt lấy Déagol tội nghiệp, và anh ta bị sát hại; sau đó là Gollum; nó đã ngấu nghiến gã. Nó không còn lợi dụng gã được nữa: gã quá nhỏ bé và hẹp hòi; chừng nào nó còn ở lại gã sẽ chẳng bao giờ rời cái vụng sâu lần nữa. Vậy nên bây giờ, khi chủ nhân của nó một lần nữa tỉnh thức và từ rừng Âm U gửi đi tâm tưởng tối tăm của hắn ta, nó liền bỏ rơi Gollum. Để rồi được nhân vật không ngờ tới nhất nhặt về: Bilbo ở Quận!

“Đằng sau chuyện ấy còn có điều gì đó khác đang hành động, vượt quá bất kể chủ đích nào của kẻ chế tác ra chiếc Nhẫn. Ta chẳng thể tìm được cách diễn đạt nào đơn giản hơn là: Bilbo đã được sắp đặt để tìm ra chiếc Nhẫn, và không phải do kẻ chế tác kia. Trong trường hợp ấy cháu cũng được sắp đặt để có nó. Và có lẽ đấy là một ý tưởng khích lệ người ta.”

“Chẳng khích lệ gì cả,” Frodo nói. “Mặc dù cháu không chắc là cháu hiểu ý ông. Vậy làm sao ông biết được tất cả những chuyện này về chiếc Nhẫn, về Gollum nữa? Ông có thực sự biết mọi sự, hay ông vẫn chỉ đang đoán thôi?”

Gandalf nhìn Frodo, đôi mắt lão lóe sáng. “Ta biết nhiều, ta cũng đã học được nhiều,” lão trả lời. “Nhưng ta sẽ không ngồi kể lể về tất cả những việc làm của ta cho cháu. Câu chuyện về Elendil và Isildur và chiếc Nhẫn Chúa, cả Hội Đồng Thông Thái ai cũng biết. Chiếc nhẫn của cháu rõ ràng là chiếc Nhẫn Chúa, chỉ căn theo mẫu hỏa tự không thôi, chứ chưa cần đến bằng chứng nào khác.”

“Vậy ông khám phá ra chuyện đó khi nào?” Frodo hỏi, ngắt lời lão.

“Cố nhiên là vừa mới rồi, trong căn phòng này,” thầy phù thủy trả lời gắt. “Song ta đã đoán trước sẽ phát hiện ra điều đó. Ta trở về từ những chuyến đi tăm tối và cuộc tìm kiếm trường kỳ cốt để làm cuộc kiểm tra sau cùng này. Nó là bằng chứng tối hậu, và bây giờ thì rõ quá rồi. Về vai trò của Gollum, rồi để ráp vai trò đó vào chỗ hổng nào trong câu chuyện, thì cần thêm chút thời gian suy nghĩ. Có thể ta đã bắt đầu bằng những phỏng đoán về Gollum, nhưng bây giờ không phải phỏng đoán nữa. Ta biết rõ rồi. Ta đã gặp gã.”

“Ông đã gặp Gollum,” Frodo kêu lên kinh ngạc.

“Phải. Việc tất yếu phải làm, cố nhiên là nếu có thể. Ta cố gắng từ lâu; cuối cùng cũng thành công.”

“Vậy đã có chuyện gì sau khi bác Bilbo thoát khỏi gã? Ông có biết không?”

“Không rõ lắm. Chuyện ta kể cho cháu nghe chỉ là những gì Gollum sẵn lòng kể - dù dĩ nhiên không y hệt như ta thuật lại đây. Gollum đã quen dối trá, nên cháu phải gạn lọc câu chữ của gã. Chẳng hạn, gã gọi chiếc Nhẫn là ‘quà sinh nhật’ của gã, rồi cứ bám lấy lối nói đó. Gã bảo nó là của bà gã, bà có khối món đẹp đẽ loại ấy. Một câu chuyện nực cười. Ta chẳng nghi ngờ gì rằng bà của Sméagol là một bà chúa, một con người vĩ đại theo kiểu của bà ấy, nhưng nói bà sở hữu rất nhiều nhẫn Tiên thì thật ngớ ngẩn, còn như cho chúng đi thì đúng là dối trá. Song là lời dối trá kèm một mẩu sự thật.

“Biến cố sát hại Déagol ám ảnh Gollum, gã bịa ra lời bào chữa cho mình, lặp đi lặp lại lời ấy với ‘Bảo Bối’ của gã hết lần này sang lần khác, trong lúc gặm xương trong bóng tối, cho đến khi gã hầu như tin là thật. Đó đúng là ngày sinh nhật của gã. Déagol đáng ra phải tặng cho gã. Rõ ràng nó tự dưng xuất hiện vừa hay để thành một món quà. Nó chính là quà sinh nhật của gã, cứ thế, và cứ thế.

“Ta cố hết sức chịu đựng gã, nhưng sự thực mang tầm quan trọng ghê gớm, nên cuối cùng ta đành lỗ mãng. Ta gây sức ép lên tật sợ lửa của gã, moi móc câu chuyện thực ra khỏi đầu gã, từng li từng tí một, cùng với hàng lố những rên rẩm và hầm hừ. Gã nghĩ gã bị hiểu lầm, bị lợi dụng. Nhưng cuối cùng gã đã kể cho ta nghe câu chuyện của mình, đến đoạn kết của trò câu đố và Bilbo tẩu thoát, thì gã không nói gì nữa, ngoài những lời ám chỉ tối nghĩa. Nỗi sợ nào đó trong lòng gã còn lớn hơn cả nỗi sợ ta đã khới ra. Gã lầm rầm tuyên bố sẽ lấy lại cái của mình. Thiên hạ rồi sẽ thấy liệu gã có đứng đó mà chịu bị đá, bị dồn vào một cái hốc nào đó rồi bị cướp trắng hay không. Gollum bây giờ có bằng hữu tốt rồi, bằng hữu tốt, rất mạnh. Họ sẽ giúp gã. Bao Gai sẽ phải trả giá cho chuyện này. Đó là ý nghĩ quan trọng nhất. Gã ghét Bilbo, nguyền rủa tên chú ấy. Hơn nữa, gã biết chú ấy từ đâu đến.”

“Nhưng làm thế nào gã tìm hiểu được?” Frodo hỏi.

“À, về phần cái tên, Bilbo đã rất ngớ ngẩn tự mình nói cho Gollum nghe; sau đó thì khám phá ra xứ sở của chú ấy chẳng khó khăn gì, miễn là Gollum chịu ra ngoài. Đúng vậy, gã ra ngoài đấy. Lòng khao khát có được chiếc Nhẫn trong gã át cả nỗi sợ bọn Orc, át cả nỗi sợ ánh sáng. Một hai năm sau gã rời rặng núi. Cháu biết đấy, dù vẫn bị trói buộc bởi khát khao sở hữu, chiếc Nhẫn không còn giày vò gã nữa, gã bắt đầu phục hồi chút đỉnh. Gã cảm thấy già nua, già nua khủng khiếp, dầu vậy bớt hẳn rụt rè, và gã đói chết được.

“Ánh sáng, ánh sáng của Mặt Trời và Mặt Trăng, gã vẫn còn sợ và căm hận, ta nghĩ gã sẽ luôn sợ và căm hận; nhưng gã láu cá. Gã thấy mình có thể lẩn tránh ánh sáng ban ngày cũng như ánh trăng, tiến lên nhanh êm giữa đêm khuya thanh vắng nhờ cặp mắt xanh nhợt lạnh lẽo, bắt những thứ bé nhỏ, khiếp sợ và khinh suất. Cùng với nguồn thực phẩm mới, bầu không khí mới, gã trở nên mạnh và liều lĩnh hơn. Gã tìm được đường vào sâu trong rừng Âm U, đúng như ta dự đoán.”

“Có phải đó là nơi ông tìm thấy gã ta không?” Frodo hỏi.

“Ta gặp gã ở đó,” Gandalf trả lời, “nhưng trước đó gã đã đi lang thang xa lắm, lần theo dấu vết của Bilbo. Khó có thể biết được gì chắc chắn từ gã, bởi cuộc chuyện trò của gã liên tục bị gián đoạn vì chửi rủa và hăm dọa. ‘Nó có cái gì trong túi áo?’ gã hỏi. ‘Nó không chịu nói, không bảo bối ạ. Đồ lỏi lừa đảo. Không phải một câu hỏi công bằng. Nó lừa trước mà, đúng như vậy. Nó phá luật. Chúng ta đáng lý phải siết nó thật chặt, phải đấy bảo bối. Rồi chúng ta sẽ siết thật chặt, bảo bối ạ!”

“Đó là ví dụ lối nói năng của gã. Ta không nghĩ là cháu muốn nghe thêm. Ta đã nghe đến phát mệt không biết bao nhiêu ngày rồi. Dầu vậy từ nhiều lời bóng gió rơi rớt đây đó giữa mớ bòng bong, ta lượm lặt ra rằng đôi chân cuốc bộ cuối cùng đã đưa gã đến Esgaroth, tới cả những con phố trong thành bang Thung Lũng, vừa lén lút nghe ngóng vừa dòm ngó. Chao, tin tức về các biến cố to lớn thường lan xa khắp Vùng Đất Hoang, nhiều người nghe được tên Bilbo và biết chú ấy từ đâu đến. Chúng ta cũng không giữ bí mật hành trình quay trở về nhà chú ấy ở miền Tây. Đôi tai thính của Gollum chẳng mấy mà biết được điều gã muốn biết.”

“Vậy tại sao gã không lần theo bác Bilbo nữa?” Frodo hỏi. “Tại sao gã không đến Quận?”

“À,” Gandalf nói, “bây giờ chúng ta đến đoạn đó đây. Ta nghĩ Gollum đã cố. Gã lên đường quay lại miền Tây, đến mãi chỗ Sông Cả. Nhưng rồi gã rẽ ngang. Ta dám chắc gã không bị quãng đường xa làm cho thoái chí. Không, thứ gì đó khác đã kéo gã đi. Bạn bè ta, những người săn lùng gã giùm ta nghĩ vậy.

“Các Tiên Rừng lần theo