Chương VII HẺM HELM
Mặt trời đã ngả về phía Tây khi họ bắt đầu khởi hành từ Edoras, và ánh nắng tràn đầy trong mắt họ, khiến mọi cánh đồng Rohan nhấp nhô nhuốm màu vàng mờ ảo. Có một con đường mòn hướng về phía Tây Bắc men theo chân Dãy Núi Trắng, và họ đi theo đường ấy, hết lên lại xuống trên vùng đất xanh ngắt, vượt rất nhiều khúc cạn qua những dòng suối nhỏ chảy xiết. Xa phía trước về bên phải, Dãy Núi Mù Sương hiện ra lừng lững; cứ mỗi dặm đường trôi qua nó lại thêm tối sẫm và cao vợi. Mặt trời chậm rãi lặn xuống phía trước họ. Buổi đêm buông xuống đằng sau.
Đoàn quân vẫn tiến lên phía trước. Sự cấp bách thúc giục họ. Sợ đến nơi quá muộn, họ phi với tất cả tốc lực, hiếm khi dừng lại. Nhanh nhẹn và trường sức là những chiến mã Rohan, nhưng có quá nhiều lý đường phải vượt qua. Khoảng bốn mươi lý hoặc hơn, tính theo đường chim bay, là quãng đường từ Edoras đến Khúc Cạn dòng Isen, nơi họ hy vọng bắt kịp những người lính của nhà vua đang kìm giữ đạo quân của Saruman.
Bóng đêm sập xuống quanh họ. Cuối cùng họ cũng dừng chân dựng trại. Họ đã phi suốt trong khoảng năm giờ và đã đi sâu vào bình nguyên phía Tây, song quá nửa cuộc hành trình vẫn còn ở phía trước. Lúc này bên dưới bầu trời đầy sao cùng mặt trăng khuyết họ đóng quân thành một vòng tròn lớn. Họ không nhóm lửa, bởi không nắm được tình hình xung quanh; nhưng họ lập một vòng kỵ sĩ gác xung quanh, và cử trinh sát tiến xa lên phía trước, lẩn đi như những cái bóng trong những nếp đất mấp mô. Buổi đêm chậm chạp trôi qua mà không hề có tin tức hay báo động nào. Tảng sáng tiếng tù và cất lên, và chỉ trong vòng một giờ họ đã lại lên đường.
Vẫn chưa có mây ở trên đầu, nhưng bầu không khí có vẻ nặng nề; trời nóng bất thường so với mùa này trong năm. Mặt trời mọc giữa quầng sương mù, và ở phía sau, bám theo mặt trời chầm chậm lên cao, có một vùng tối đang lớn dần, như một cơn bão lớn đang kéo đến từ phương Đông. Và xa tít về hướng Tây Bắc dường như có một vùng tối khác bao phủ xung quanh chân Dãy Núi Mù Sương, một bóng đen đang từ từ bò xuống từ Thung Lũng Phù Thủy.
Gandalf giảm tốc lui xuống gặp Legolas đang phi ngựa bên Éomer. “Anh có đôi mắt tinh tường của nòi Tiên, Legolas,” ông nói, “và có thể phân biệt chim sẻ với chim chích cách cả lý. Hãy cho tôi biết anh có thấy bất cứ gì đằng kia hướng Isengard không?”
“Có rất nhiều dặm đường nằm xen giữa,” Legolas vừa nói vừa chăm chú nhìn phía đó, bàn tay dài che mắt. “Tôi nhìn thấy một vùng tối. Có rất nhiều hình thù đang di chuyển bên trong những hình thù rất lớn ở xa hơn trên bờ sông; nhưng chúng là gì thì tôi không nhận ra được. Không phải là sương khói hay mây mù đã đánh bại mắt tôi: mà là quyền năng nào đó đã phủ tấm màn tối lên vùng đất, và nó đang từ từ đi xuống xuôi dòng. Như thể là ánh chạng vạng dưới đám cây cối bất tận đang chảy xuống từ dãy đồi.”
“Và ở đằng sau chúng ta chính cơn bão từ Mordor đang kéo đến,” Gandalf nói. “Sẽ là một đêm đen tối đây.”
Ngày thứ hai trong cuộc hành trình trôi qua, bầu không khí càng nặng nề hơn. Vào buổi chiều mây đen bắt đầu đuổi kịp họ: một bức vòm tăm tối với những mép viền cuồn cuộn điểm những đốm sáng chói. Mặt trời lặn xuống màu đỏ máu trong màn mây khói mờ ảo. Mũi giáo của đội Kỵ Sĩ như bịt lửa khi những vệt sáng cuối cùng ánh lên trên những mặt dốc đứng của ba đỉnh Thrihyme: giờ đã ở rất gần khi họ đứng trên nhánh cực Bắc Dãy Núi Trắng, ba chỏm núi nhọn hoắt nổi bật trong ánh hoàng hôn. Trong ánh hừng đỏ cuối cùng những người trong đội tiên phong nhìn thấy một đốm đen, một kỵ sĩ đang phi ngựa ngược về phía họ. Họ dừng lại chờ anh ta.
Anh ta đến, một người mệt lử, mũ trụ đã méo và khiên đã bị chẻ. Anh ta từ từ xuống ngựa đứng thở dốc trong một lát. Rồi cuối cùng anh ta lên tiếng. “Có Éomer ở đây không?” anh ta hỏi. “Rốt cục các anh cũng đến, nhưng đã quá muộn rồi, và với lực lượng quá ít ỏi. Mọi thứ đều xấu đi kể từ khi Théodred ngã xuống. Ngày hôm qua chúng tôi đã bị đẩy lui qua khỏi dòng Isen với tổn thất nặng nề; nhiều người đã bỏ mạng trong lúc vượt sông. Rồi đến đêm lại có những đội quân mới vượt sông tấn công trại chúng tôi. Chắc hẳn toàn bộ Isengard đều được huy động; Saruman đã vũ trang cho lũ người hoang miền núi và bầy người vùng Dunland ở bên kia dòng sông, và hắn cũng sai bọn này tấn công chúng tôi. Chúng tôi đã bị chế ngự. Bức tường khiên bị phá vỡ. Erkenbrand chúa Westfold đã rút toàn bộ số quân còn tập hợp được đưa về căn cứ của ngài ở Hẻm Helm. Số còn lại đã chạy tán loạn hết.
“Éomer đâu rồi? Hãy nói với ngài chẳng còn hy vọng nào ở phía trước nữa đâu. Ngài nên trở lại Edoras trước khi lũ sói của Isengard đến được đó.”
Théoden nãy giờ vẫn ngồi im lặng, khuất khỏi tầm nhìn của người kia phía sau toán lính gác; giờ ông thúc ngựa lên phía trước. “Nào, hãy đến đứng trước mặt ta, Ceorl!” ông nói. “Ta đây rồi. Đội quân cuối cùng của Eorlingas đã tiến bước. Chúng ta sẽ không trở lại mà chưa tham chiến.”
Khuôn mặt người lính sáng lên hân hoan và kinh ngạc. Anh ta đứng thẳng dậy. Rồi anh quỳ sụp xuống, dâng thanh kiếm sứt mẻ về phía nhà vua. “Hãy ban lệnh, thưa chúa công!” Anh ta kêu lớn. “Và xin người thứ lỗi! Thần tưởng...”
“Ngươi tưởng ta vẫn còn ở Meduseld lọm khọm như một cái cây già dưới tuyết mùa đông. Đúng là như vậy khi ngươi ra chiến trường. Thế nhưng một cơn gió Tây đã làm lung lay cành lá,” Théoden nói. “Hãy mang đến cho người này một con ngựa mới! Chúng ta hãy tiến quân trợ giúp Erkenbrand!”
Trong khi Théoden nói chuyện, Gandalf đã cưỡi ngựa lên phía trước một quãng ngắn, và ông ngồi đó một mình, nhìn chăm chú lên phía Bắc hướng Isengard rồi phía Tây nơi mặt trời lặn. Giờ ông quay lại.
“Đi thôi, Théoden!” ông nói. “Hãy đến Hẻm Helm! Xin đừng đi tiếp đến Khúc Cạn dòng Isen, và đừng nán lại trên đồng bằng! Tôi phải chia tay các ngài trong ít lâu. Giờ Scadufax phải chở tôi đi một công chuyện khẩn cấp.” Quay sang Aragorn và Éomer cùng gia binh của nhà vua, ông hô lớn: “Hãy chăm sóc chu đáo Chúa đất Mark, cho đến khi tôi trở lại. Hãy đợi tôi ở Cổng Helm! Xin từ biệt!”
Ông nói gì đó với Scadufax, rồi như một mũi tên rời dây cung con ngựa cao lớn lao vút đi. Họ còn chưa kịp nhìn rõ thì nó đã đi mất: một ánh bạc lóe trong hoàng hôn, một cơn gió thổi qua thảm cỏ, một cái bóng thoắt đã lướt khỏi tầm mắt. Snawmana phì hơi chồm lên, nóng lòng đuổi theo; thế nhưng chỉ có chim én vẫy đôi cánh mới có thể theo kịp.
“Như vậy có nghĩa là sao?” một người trong toán cận vệ hỏi Háma.
“Nghĩa là Gandalf Greghama cần phải khẩn trương,” Háma trả lời. “Lúc nào ông ấy đi hay đến cũng chẳng ai lường được.”
“Lưỡi Giun, nếu hắn có ở đây, có lẽ sẽ chẳng khó tìm lời giải thích,” người kia nói.
“Cũng đúng đấy,” Háma nói, “nhưng về phần mình, tôi sẽ đợi đến khi nào gặp lại Gandalf.”
“Có lẽ anh phải đợi lâu đấy,” người kia nói.
Giờ đoàn quân rời khỏi con đường dẫn đến Khúc Cạn dòng Isen mà chuyển hướng xuống phía Nam. Đêm xuống, và họ vẫn tiến bước. Dãy núi tiến lại gần, thế nhưng những chóp cao cụm Thrihyme đã mờ đi trên nền trời đang sầm tối. Vẫn còn cách vài dặm nữa, nơi đầu kia Thung Lũng Westfold khổng lồ ăn vào trong dãy núi, có một lòng chảo xanh tốt, ở trong cùng lòng chảo một hẻm núi mở ra. Người dân vùng này gọi đấy là Hẻm Helm, theo tên vị anh hùng trong những cuộc chiến xa xưa từng đến đó ẩn náu. Càng luồn lách vào sâu bên trong, từ phía Bắc dưới tầng bóng đổ của Thrihyme, hẻm núi càng dựng dứng và hẹp dần cho đến khi những sườn đá quạ ám vươn lên như những tòa tháp sừng sững ở cả hai phía, che khuất cả ánh sáng.
Tại Cổng Helm, đặt trước miệng Hẻm, có một gót đá đâm ra dưới vách núi phía Bắc. Trên triền gót đá sừng sững những vòng tường cao bằng đá cổ, trong cùng là một tòa tháp cao vút. Người ta nói rằng vào những ngày vinh quang xa xưa của Gondor, các vị vua biển đã xây dựng căn cứ này nhờ tay những người khổng lồ. Nó được gọi là Lũy Tù Và, bởi mỗi khi tiếng kèn đồng cất lên trên tòa tháp sẽ vang vọng trong Hẻm phía sau như thể những đoàn quân bị lãng quên từ lâu đang đổ ra tham chiến từ những hang sâu dưới lòng núi. Người xưa còn xây một bức thành kéo dài từ Lũy Tù Và đến vách núi phía Nam, chắn ngang lối vào trong hẻm. Luồn dưới chân thành, Suối Hẻm chảy ra qua một lòng cống rộng. Dòng suối lượn quanh chân Hòn Lũy, rồi chảy thành con kênh cắt qua khoảng đất rộng xanh tốt trải xuống thoai thoải từ Cổng Helm đến Hào Helm. Từ đó nó đổ xuống Lòng Chảo Hẻm rồi chảy vào Thung Lũng Westfold. Lũy Tù Và tại Cổng Helm là nơi cư ngụ của Erkenbrand, chủ nhân Westfold trên biên cương đất Mark. Khi ngày tháng trở nên đen tối vì những điềm báo chiến tranh, ông đã sáng suốt sửa chữa tường thành và gia cố căn cứ vững chắc hơn.
Đoàn Kỵ Sĩ vẫn ở dưới lũng thấp trước miệng Lòng Chảo, khi họ nghe thấy những tiếng hò hét và tiếng tù và của toán trinh sát đi phía trước. Tên từ bóng tối bay ra vèo vèo. Rất nhanh đã thấy một trinh sát quay lại báo rằng bọn cưỡi sói đã tràn tới đáy thung lũng, và rằng một đội quân Orc lẫn người hoang đang hăm hở tiến về phía Nam từ Khúc Cạn dòng Isen và có vẻ như đang hướng tới Hẻm Helm.
“Chúng thần tìm thấy rất nhiều người của chúng ta nằm chết trên đường tháo chạy khỏi đó,” người lính trinh sát nói. “Và chúng thần cũng gặp những toán tàn quân, chạy nháo nhác không có ai chỉ huy. Có vẻ như chẳng ai biết điều gì đã xảy ra với Erkenbrand. Rất có thể ngài sẽ bị đuổi kịp trước khi đến được cổng Helm, nếu ngài còn chưa tử trận.”
“Có dấu hiệu nào của Gandalf không?” Théoden hỏi.
“Có, thưa chúa công. Nhiều người đã nhìn thấy một ông già mặc đồ trắng cưỡi trên lưng ngựa, phi qua hết chỗ này đến chỗ khác trên bình nguyên như cơn gió thổi qua đồng cỏ. Vài người tưởng đó là Saruman. Có tin nói rằng trước khi màn đêm buông xuống ông ấy đã bỏ đi về phía Isengard. Cũng có vài người nói họ nhìn thấy Lưỡi Giun trước đó, đi về phía Bắc cùng một đội quân Orc.”
“Sẽ không hay cho Lưỡi Giun, nếu Gandalf đuổi kịp hắn,” Théoden nói. “Dù thế nào thì ta cùng đã lỡ mất cả hai người cố vấn, một cũ một mới. Thế nhưng trong hoàn cảnh này chúng ta chẳng có lựa chọn nào hay hơn ngoài việc đi tiếp, như Gandalf đã nói, đến Cổng Helm, cho dù Erkenbrand có ở đó hay không. Có biết quân số của đội quân đến từ miền Bắc không?”
“Vô cùng đông đảo,” người lính trinh sát nói. “Vẫn biết những người bỏ chạy thường kể gấp đôi kẻ thù. Song thần đã nói chuyện với những người can đảm, và thần không nghi ngờ rằng lực lượng chủ lực của kẻ thù đông gấp nhiều lần toàn bộ những gì chúng ta có ở đây.”
“Vậy thì chúng ta phải khẩn trương lên,” Éomer nói “Chúng ta hãy mở đường qua đám kẻ thù đang đứng đợi sẵn giữa chúng ta và căn cứ. Có nhiều hang động ở Hẻm Helm mà hàng trăm người có thể nằm ẩn náu; và cả những con đường bí mật dẫn từ đó lên dãy đồi.”
“Đừng có tin những con đường bí mật,” nhà vua nói. “Saruman từ lâu đã do thám vùng đất này rồi. Nhưng chúng ta vẫn có thể phòng vệ lâu dài ở đó. Chúng ta đi thôi!”
Lúc này Aragorn và Legolas đi cùng Éomer trong đội quân tiên phong. Họ phi không nghỉ qua đêm tối, tốc độ mỗi lúc một giảm vì bóng tối dày đặc hơn và con đường bắt đầu dốc lên về phía Nam, mỗi lúc một cao vào những nếp đồi mờ ảo quanh chân dãy núi. Họ không thấy nhiều kẻ thù phía trước. Đây đó họ chạm trán những toán quân Orc lẩn quất; nhưng chúng đều bỏ chạy trước khi đội Kỵ Sĩ kịp bắt hoặc tiêu diệt chúng.
“Tôi e là chỉ ít nữa,” Éomer nói, “thủ lĩnh của kẻ thù chúng ta sẽ biết đội quân của nhà vua đang đến, dù đó là Saruman hay bất cứ tên chỉ huy nào mà hắn phái đi.”
Những thanh âm chiến tranh bắt đầu vang lên phía sau họ. Giờ họ đã nghe được, vẳng đến qua bóng tối, những tiếng hét chói tai. Họ đã leo được lên khá sâu vào Lòng Chảo Hẻm thì mới quay lại nhìn. Và họ thấy rất nhiều ngọn đuốc, những đốm lửa hung tợn nhiều không đếm xuể trên những cánh đồng tối đen phía sau, chỗ lốm đốm như những bông hoa đỏ, chỗ quanh co đi lên từ vùng đất thấp thành những đường sáng dài lập lòe. Đây đó còn có những ngọn lửa to hơn bùng lên.
“Đúng là một đoán quân đông đảo đang quyết đuổi theo chúng ta,” Aragorn nói.
“Chúng mang theo lửa,” Théoden nói, “và đi đến đâu chúng đốt phá đến đó, rơm rạ, nhà cửa, cây cối. Đây vốn là một thung lũng trù phú với biết bao ấp trại. Thương thay người dân của ta!”
“Giá ban ngày đã tới để chúng ra tràn xuống như cơn bão từ núi đổ lên đầu chúng!” Aragorn nói. “Tôi thật đau lòng phải bỏ chạy trước bọn chúng.”
“Chúng ta không cần phải chạy xa hơn nữa,” Éomer nói. “Giờ không xa phía trước đã là Hào Helm, con hào và bức thành cổ đại vắt qua lòng chảo, cách hai sải phía dưới Cổng Helm. Đến đó chúng ta có thể dừng lại chiến đấu.”
“Không được, chúng ta có quá ít quân để phòng thủ Hào,” Théoden nói. “Nó dài đến một dặm hoặc hơn, mà lối cầu qua hào lại rộng.”
“Tại cầu vào đội quân bọc hậu của chúng ta buộc phải trụ lại, nếu chúng ta bị dồn đuổi,” Éomer nói.
Chẳng hề có sao hay trăng khi đoàn Kỵ Sĩ đến được lối cầu bắc qua Hào, nơi dòng suối từ phía trên chảy ra, và con đường cạnh suối chạy xuống từ Lũy Tù Và. Bức thành bất chợt hiện lên trước mặt họ, một bóng đen sừng sững phía sau miệng vực đen. Khi họ phóng tới một lính canh tiến ra đòi phải báo danh.
“Chúa đất Mark hành quân đến Cổng Helm,” Éomer trả lời. “Ta, Éomer con trai Éomund, đang lên tiếng.”
“Đây quả là một tin tốt chẳng ai ngờ,” người lính canh nói. “Khẩn trương lên! Kẻ thù ở sau gót các ngài rồi.”
Đoàn quân đi qua cầu vào rồi dừng lại trên triền cỏ dốc phía trên. Giờ đây họ vui mừng nghe tin Erkenbrand vẫn còn để lại nhiều quân phòng ngự cổng Helm và còn nhiều nữa đã chạy thoát được về đó.
“Có lẽ chúng tôi có khoảng một nghìn quân đủ sức đánh bộ,” Gamling, thủ lĩnh già của đội quân canh Hào nói. “Nhưng đa phần họ đã sống qua quá nhiều mùa đông, giống như tôi, hoặc quá ít giống như con trai của con trai tôi đây. Có tin tức gì của Erkenbrand không? Hôm qua có tin ngài sắp rút về đây cùng tất cả những gì còn lại của đội Quân Kỵ tốt nhất Westfold. Nhưng ngài vẫn chưa đến nơi.”
“Ta e rằng giờ ông ấy sẽ không đến nữa,” Éomer nói. “Trinh sát của chúng ta không thu thập được tin tức nào về ông ấy, còn kẻ thù thì đã tràn đầy thung lũng phía sau chúng ta.”
“Ta mong là ông ấy đã thoát được.” Théoden nói. “Ông ấy là một người mạnh mẽ. Lòng can trường của Helm Tay Búa đã hồi sinh trong con người ông ấy. Thế nhưng chúng ta không thể chờ ông ấy ở đây. Giờ chúng ta phải rút toàn bộ lực lượng về phía sau tường thành. Các ông có dự trữ tốt không? Chúng ta chỉ mang một chút lương thực, bởi chúng ta tiến quân để tham chiến chứ không phải để cố thủ.”
“Phía sau chúng thần bên trong những hang động sau Hẻm có ba phần dân Westfold, cả trẻ lẫn già, trẻ em và phụ nữ,” Gamling nói. “Nhưng một lượng lớn lương thực dự trữ, rất nhiều ngựa và cỏ khô cho chúng cũng được tập trung ở đó.”
“Vậy thì tốt rồi,” Éomer nói. “Chúng đang đốt phá hoặc cướp bóc tất cả những gì còn lại trong thung lũng.”
“Nếu chúng đến nhòm ngó của cải của chúng ta tại Cổng Helm này, chúng sẽ phải trả giá đắt,” Gamling nói.
Nhà vua và đội Kỵ Sĩ đi tiếp. Họ xuống ngựa trước khi đến con đường đắp cao qua dòng suối. Họ dắt ngựa thành một hàng dài đi lên bờ dốc và qua cổng vào Lũy Tù Và. Ở đó họ lại được đón mừng nồng nhiệt vì niềm hy vọng mới nhen lại, bởi giờ đây đã đủ người bảo vệ cả tháp chính lẫn tường thành.
Éomer nhanh chóng cắt đặt quân sĩ xong xuôi. Nhà vua cùng gia binh của ông đóng tại Lũy Tù Và, ở đó cũng cắt thêm nhiều lính Westfold. Nhưng ở trên Thành Hẻm cùng tháp canh trên thành, và ở cả phía sau tường thành, Éomer bố trí gần hết lực lượng trong tay, bởi ở đây phòng bị khó khăn hơn một khi bị tập trung tấn công với quân số lớn. Lũ ngựa được đưa vào sâu trong Hẻm và được những quân sĩ ít ỏi còn lại canh giữ.
Thành Hẻm cao hai mươi bộ, dày đến nỗi bốn người có thể cùng nhau sóng bước dọc mặt trên thành, được che chắn bởi tường phòng hộ chỉ người cao lớn mới có thể nhìn được qua. Đôi chỗ trên tường có khoảng hở để quân lính bắn ra. Có thể lên tường thành này qua cầu thang chạy xuống từ một cổng nơi sân ngoài Lũy Tù Và; cũng có ba cầu thang dẫn lên mặt thành từ Hẻm phía sau; nhưng mặt phía trước lại nhẵn nhụi, những phiến đá lớn được ghép khéo léo đến nỗi không thể tìm thấy mấu nào đặt chân được giữa những lằn ráp nối, và những phiến trên cùng nhô ra ngoài như một vách núi bị biển khoét.
* * *
Gimli đứng tựa vào bờ tường bảo vệ trên thành. Legolas ngồi cao hơn trên tường phòng hộ, mân mê cây cung, và nhìn chăm chú vào bóng đêm.
“Thế này là tôi ưa hơn,” gã lùn vừa nói vừa giậm chân lên nền đá. “Trái tim tôi rộn lên khi chúng ta tiến gần đến dãy núi. Chất đá ở đây thật tốt. Vùng đất này có được bộ xương thật vững chãi. Tôi cảm nhận được đá dưới chân khi chúng ta đi lên từ dưới hào. Cứ cho tôi một năm và một trăm người bà con của tôi xem, tôi sẽ biến đây thành một nơi mà kẻ thù đập vào sẽ tan ra như nước.”
“Tôi không nghi ngờ điều đó,” Legolas nói. “Nhưng anh là người lùn, mà người lùn lại là một giống người kỳ lạ. Tôi không thích nơi này, và tôi cũng không thích nó hơn trong ánh sáng ban ngày đâu. Thế nhưng anh khiến tôi yên tâm, Gimli ạ, và tôi mừng vì có anh đứng bên cạnh với đôi chân rắn và cây rìu cứng. Ước gì có thêm những người họ hàng của anh ở đây với chúng ta. Thế nhưng tôi còn mong muốn có một trăm tay thiện xạ rừng Âm U hơn. Chúng ta sẽ cần đến họ. Người Rohirrim có nhiều tiễn thủ tốt theo kiểu họ, nhưng ở đây lại có quá ít, quá ít.”
“Hơi tối cho tiễn thủ đấy,” Gimli nói. “Thực tình là đã đến giờ ngủ rồi. Ngủ! Tôi thấy thèm ngủ, thèm đến mức tôi chưa bao giờ nghĩ người lùn lại có thể thèm như vậy. Cưỡi ngựa quả là một công việc mệt nhọc. Song cây rìu của tôi vẫn đang ngứa ngáy trong tay. Hãy cho tôi một hàng cổ Orc và đủ không gian để múa rìu, tất cả mệt nhọc sẽ trút khỏi tôi!”
Thời gian chậm chạp trôi qua. Xa tít phía dưới thung lũng những đốm lửa vẫn cháy rải rác. Những đội quân Isengard giờ đang lặng lẽ tiến tới. Đèn đuốc của chúng đang quanh co trườn lên lòng chảo thành nhiều hàng.
Đột nhiên từ phía Hào nổi lên tiếng hò hét, và những tiếng hô xung trận của con người. Lửa đuốc xuất hiện bên bờ hào và dồn lại dày đặc nơi lối vào. Nhưng rồi chúng lại tản ra và biến mất. Một toán người phi ngựa quay lại, băng qua cánh đồng, phóng lên sườn dốc, đến cổng Lũy Tù Và. Đội quân bọc hậu của Westfold đã bị đẩy lùi vào trong.
“Kẻ thù đến gần lắm rồi!” Họ nói. “Bọn tôi đã bắn toàn bộ số tên hiện có, và rải đầy Orc xuống Hào. Nhưng như vậy vẫn chẳng thể cản được chúng lâu. Chúng đã bắt đầu leo lên bờ hào ở nhiều chỗ, dày đặc như một đàn kiến. Nhưng bọn tôi đã dạy cho chúng biết rằng không nên mang theo đuốc.”
Lúc này đã quá nửa đêm. Bầu trời đen kịt, và sự im ắng trong bầu không khí nặng nề dự báo sắp có bão tố. Đột nhiên những đám mây bị thiêu đốt bởi một ánh chớp chói lòa. Những tia sét tỏa nhánh đánh xuống dãy đồi phía Đông. Trong phút chốc chăm chú lính canh trên các tường thành thấy toàn bộ khoảng không giữa họ và con Hào đều bừng lên sáng lòa: ở đó đang sôi lên, lúc nhúc những hình thù đen tối, một số béo lùn và to bè, một số cao lớn và gớm ghiếc, cùng mũ trụ cao và khiên đen đúa. Hàng trăm cùng hàng trăm tên khác đang tràn qua lối vào vượt qua Hào. Cơn thủy triều đen đổ dồn về phía các tường thành từ vách đá này sang vách đá khác. Sấm chớp rền lên khắp thung lũng. Mưa rạch trời đổ xuống.
Tên dày đặc như mưa vun vút lao qua tường phòng hộ, rồi rơi lách cách và loang loáng trên mặt đá. Một vài mũi đã tìm đến được mục tiêu. Cuộc tấn công vảo Hẻm Helm đã nổ ra, nhưng không hề nghe thấy tiếng động hay sự kháng cự nào từ phía trong, cũng không thấy loạt tên đáp trả nào.
Đội quân tấn công dừng lại, hoang mang trước bầu im lặng đầy đe dọa của đá và tường thành. Thỉnh thoảng lại có tia chớp lóe lên xé toạc màn đêm. Rồi lũ Orc gào thét, khua gươm múa giáo, và bắn cả một đám mây tên lên bất cứ mục tiêu nào chúng phát hiện đang đứng trên bờ thành; và những con người đất Mark sửng sốt nhìn ra, trước mắt họ, dường như là cánh đồng ngũ cốc đen mênh mông đang bị xới lên bởi cơn giông tố chiến tranh, từng ngọn lúa lóe lên trong ánh sáng gai góc.
Dàn kèn cất tiếng chát chúa. Kẻ thù ào lên phía trước nhiều tên áp sát Thành Hẻm, nhiều tên khác thẳng hướng con đường đắp cao và bờ dốc dẫn lên cổng chính Lũy Tù Và. Ở đó tập trung lũ Orc to lớn nhất, cùng đám người hoang từ đồng trống Dunland. Chúng chần chừ trong chốc lát nhưng rồi lại tiến bước. Chớp lại lóe lên, tô điểm sáng ngời hình bàn tay Isengard gớm ghiếc được vẽ trên từng chiếc mũ, chiếc khiên. Chúng đã lên được đỉnh triền gót đá; chúng xô ào vào cổng.
Rồi rốt cục câu trả lời cũng xuất hiện: một cơn bão tên lao vào chúng, và cả một trận mưa đá. Chúng rúng động, tan hàng, quay đầu tháo chạy; rồi lại tấn công, tan hàng rồi lại tấn công tiếp; và cứ mỗi lần như vậy, giống như thủy triều dâng, chúng lại chiếm được một điểm cao hơn. Tiếng kèn đồng lại cất lên, một toán những con người gầm rú lao tới. Chúng giơ những chiếc khiên lớn che trên đầu như mái lợp, còn giữa hàng quân, chúng vác hai súc cây khổng lồ. Đằng sau chúng quân tiễn thủ Orc đứng đông đặc, bắn trả những tay cung trên tường thành cả một cơn mưa tên. Chúng tiến sát cổng. Những súc cây, lao tới trên những cánh tay chắc khỏe, thúc vào mặt gỗ vang tiếng nện xé tai. Nếu có gã nào gục xuống, do trúng đá từ bên trên ném xuống, lại có hai tên khác nhảy lên thay thế. Hai súc gỗ phá thành khổng lồ cứ lao tới rồi đâm sầm hết lần này tới lần khác.
Aragorn và Éomer đứng bên nhau trên Thành Hẻm. Họ nghe thấy những tiếng gào thét cùng tiếng đâm rầm rầm của súc gỗ phá thành; và rồi trong ánh chớp bất chợt lóe lên, họ nhận thấy mối nguy bên cổng.
“Nào!” Aragorn nói. “Đây chính là giờ khắc chúng ta cùng nhau tuốt kiếm!”
Nhanh như lửa, họ chay dọc bờ thành, lao lên những bậc thang, phóng tới vòng sân ngoài trên Hòn Lũy. Vừa chạy họ vừa tập hợp thêm được vài tay kiếm kiên cường. Có một cổng phụ mở ra trên vòng thành ngoại chéo góc về phía Tây, nơi vách núi nhô ra nối vào thành. Ở phía đó một con đường mòn hẹp chạy vòng về phía cổng chính, giữa vòng thành ngoại và bờ Hòn Lũy dốc đứng. Éomer và Aragorn cùng nhảy qua cổng phụ, quân của họ theo sát phía sau. Cùng một lúc hai thanh kiếm lóe sáng rời khỏi vỏ.
“Gúthwinë!” Éomer thét lên. “Gúthwinë vì đất Mark!”
“Andúril!” Aragorn thét lên. “Andúril vì người Dúnedain!”
Ho lăn xả vào đám người hoang mà tấn công chọc sườn. Thanh Andúril vung lên rồi chém xuống, lấp loáng ánh lửa trắng. Một tiếng hét vang dội từ khắp tường thành và tòa tháp: “Andúril! Andúril đã tham chiến. Lưỡi Kiếm Gãy giờ lại tỏa sáng rồi!”
Toán quân phá cổng hoảng hồn thả rơi hai súc cây quay lại chiến đấu; nhưng bức tường khiên của chúng đã vỡ tan như vừa chịu cú sét giáng xuống, và chúng bị quét đi, bị đốn gục, hay tống khỏi Hòn Lũy xuống dòng nước lởm chởm đá bên dưới. Lũ tiễn thủ Orc bắn điên dại rồi cũng bỏ chạy.
Éomer và Aragorn đứng lại trước cổng trong chốc lát. Tiếng sấm giờ rền vang ở phía xa. Ánh chớp vẫn lấp loáng, xa tít ở vùng núi phía Nam. Một cơn gió rét thấu xương lại thổi đến từ phương Bắc. Những đám mây bị xé toạc bay tứ tán, những vì sao hé ra; còn ở phía trên dãy đồi sườn Lòng Chảo mặt trăng đang lặn dần về phía Tây, lấp lánh vàng giữa cảnh đổ nát sau cơn bão tố.
“Chúng ta không đến sớm quá đâu,” Aragorn vừa nói vừa nhìn cổng. Những bản lề và then sắt lớn đã vặn vẹo và cong lại; nhiều phiến gỗ đã nứt vỡ. “Thêm một đợt công như vậy cổng sẽ bật tung.”
“Song chúng ta cũng không thể ở lại đây ngoài tường thành để phòng ngự cổng,” Éomer nói. “Nhìn kìa!” Anh ta chỉ về phía con đường đắp cao. Một đám đông lớn Orc và Người đã lại tập trung phía bên kia dòng suối. Những mũi tên phóng vun vút rồi nảy trên nền đá xung quanh họ. “Nào! Chúng ta phải quay lại xem có thể làm gì để chồng đá và xà bịt phía trong cổng. Đi thôi!”
Họ quay người chạy. Ngay lúc đó chừng một tá Orc nằm bất động giữa những xác chết vùng lên, nhanh chóng và lặng lẽ bám theo sau. Hai tên lao người xuống nền đá ngay gót Éomer, ngáng ngã anh ta, và trong chốc lát chúng đã đè anh ta xuống. Song một bóng đen nhỏ bé không ai để ý chợt lao ra từ bóng tối và cất tiếng thét khàn khàn: Baruk Khazâd! Khazâd ai-mênu! Một chiếc rìu vung lên rồi quét lại. Hai tên Orc gục xuống mất đầu. Những tên còn lại bỏ chạy.
Éomer gượng đứng lên, bấy giờ Aragorn mới kịp chạy lại để hỗ trợ.
Cổng phụ lại được đóng lại, cánh cửa sắt đã được chặn và chất đá bên trong. Khi tất cả đã vào trong an toàn, Éomer quay lại: “Tôi cảm ơn anh, Gimli con trai Glóin!” anh ta nói. “Tôi không biết anh đã đi cùng bọn tôi trong chuyến phá vây. Nhưng thường khách không mời lại là bạn tốt. Anh đi ra đó thế nào vậy?”
“Tôi theo các anh cho tỉnh ngủ,” Gimli trả lời, “nhưng tôi nhìn lũ người núi thì thấy chúng có vẻ quá lớn so với tôi, vậy nên tôi đã ngồi bên một tảng đá để xem các anh múa kiếm.”
“Sẽ chẳng dễ dàng gì tôi mới có thể trả ơn anh,” Éomer nói.
“Có lẽ vẫn còn nhiều cơ hội trước khi đêm nay kết thúc,” gã Người Lùn cười. “Nhưng tôi thỏa mãn rồi. Tôi đã chẳng đốn được gì ngoài cây cối kể từ khi rời Moria đến nay.”
“Hai tên!” Gimli vừa nói vừa gõ lên chiếc rìu. Gã đã trở lại chỗ của mình trên mặt thành.
“Hai ấy à?” Legolas hỏi. “Tôi đã làm tốt hơn đấy, cho dù bây giờ tôi phải mò mẫm tìm tên đã bắn; toàn bộ số tên của tôi bay hết rồi. Song tôi cũng thu thập được ít nhất là hai mươi tên. Nhưng từng đó cũng chỉ là vài chiếc lá trong rừng.”
Lúc này bầu trời nhanh chóng trở nên quang đãng và mặt trăng đang lặn lại ngời sáng. Nhưng ánh sáng không mang đến nhiều hy vọng cho đội Kỵ Sĩ đất Mark. Kẻ thù phía trước họ xem ra càng mạnh thêm chứ chẳng hề hao tổn, và vẫn còn nhiều quân đang dồn lên từ phía thung lũng vượt qua hào. Cuộc phá vây trên Hòn Lũy chỉ đem lại được một khoảng trì hoãn chốc lát. Cuộc tấn công vào cổng đã được tăng cường. Những toán quân Isengard gầm gào táp vào Thành Hẻm như sóng biển. Lũ Orc và đám người núi xúm lại lúc nhúc dưới chân thành suốt từ đầu này sang đầu kia. Dây thừng buộc móc sắt được tung qua tường phòng hộ nhanh đến nỗi chẳng ai kịp chặt đứt hay quăng trở lại. Hàng trăm cây thang dài được dựng lên. Rất nhiều thang bị ném xuống vỡ tan, nhưng lại thêm nhiều nữa tới thay thế, và lũ Orc thoăn thoắt leo thang như lũ vượn trong những khu rừng tăm tối miền Nam. Trước chân tường thành, những xác chết và thân hình què quặt chất lên như đá cuội trong bão, mỗi lúc một cao thành những gò đống gớm ghiếc, mà kẻ thù vẫn tiếp tục dồn lên.
Những người Rohan dần trở nên kiệt sức. Toàn bộ tên của họ đều đã dùng hết, mỗi ngọn lao cũng đã được phóng đi; kiếm họ mẻ còn khiên thì nứt toác. Ba lần Aragorn và Éomer kêu gọi họ lao lên, ba lần thanh Andúril bừng cháy trong cuộc tấn công tuyệt vọng đã đẩy lui quân thù khỏi tường thành.
Rồi lại có tiếng hò hét nổi lên trong Hẻm ở phía sau. Như một đàn chuột, lũ Orc đã bò qua miệng cống nơi dòng suối chảy ra ngoài dưới tường thành. Ở đó chúng tập trung lại dưới bóng vách đá, đến khi cuộc tấn công phía trên vào độ dữ dội nhất và gần như toàn bộ quân phòng ngự đều đã dồn lên mặt trên thành. Rồi chúng nhảy túa ra. Nhiều tên đã kịp vượt sâu vào Hẻm tới chỗ đàn ngựa, chiến đấu với những người lính gác.
Từ trên tường thành Gimli nhảy xuống trong tiếng thét dũng mãnh vang vọng cả những vách núi. “Khazâd! Khazâd!” Chẳng lâu sau gã đã có đủ việc làm.
“Ai-oi!” gã thét lớn. “Lũ Orc đang ở phía trong tường thành. Ai-oi! Nào, Legolas! Có đủ cho cả hai chúng ta đấy. Khazâd ai-mênu!”
Từ trên Lũy Tù Và, Gamling Già nhìn xuống dưới, nghe thấy tiếng thét lớn của gã lùn trỗi lên giữa tiếng huyên náo. “Lũ Orc đã vào được Hẻm!” ông thét. “Helm! Helm! Tiến lên Helmingas!” Ông vừa hò hét vừa lao xuống cầu thang từ Hòn Lũy cùng nhiều người Westfold theo phía sau.
Cuộc đột kích của họ mãnh liệt và bất ngờ, khiến lũ Orc trước mặt họ phải dạt ra. Chẳng bao lâu chúng đã bị dồn vào các khe hẹp trong hẻm, rồi tất cả đều bị tiêu diệt hoặc phải gào thét bỏ chạy vào khe sâu để rồi gục ngã trước các vệ binh ở các miệng hang bí mật.
“Hai mốt!” Gimli hô to. Gã chém một nhát bằng cả hai tay hạ gục tên Orc cuối cùng ngay trước chân gã. “Giờ thành tích của tôi lại vượt cậu Legolas rồi.”
“Chúng ta phải bít cái lỗ chuột này lại,” Gamling nói. “Nghe nói Người Lùn rất khéo léo trong nghề đá. Hãy trợ giúp chúng tôi, cậu Người Lùn!”
“Bọn tôi đâu tạc đá bằng rìu chiến, cũng chẳng bằng móng tay,” Gimli nói. “Nhưng tôi sẽ cố giúp hết sức.”
Họ cố sức thu nhặt những tảng đá nhỏ và những viên đá vỡ xung quanh, và theo chỉ đạo của Gimli những người Westfold bịt miệng cống phía trong, cho đến khi chỉ còn chừa lại một lối thông hẹp. Suối Hẻm, phình căng dưới cơn mưa, cuộn lại rồi ngắc ngứ trong lối chảy đã bị chặn, rồi từ từ tràn ra thành những vũng nước lạnh lẽo từ vách đá này qua vách đá kia.
“Phía trên sẽ khô ráo hơn,” Gimli nói. “Nào, Gamling chúng ta hãy đi xem mọi việc trên thành thế nào rồi!”
Gã trèo lên thấy Legolas bên cạnh Aragorn và Éomer. Chàng Tiên đang mài sắc con dao dài của mình. Đó là khoảng yên tĩnh chốc lát của cuộc tấn công kể từ lúc toán đột phá qua miệng cống bị đẩy lui.
“Hai mốt!” Gimli báo.
“Tốt!” Legolas nói. “Nhưng phần của tôi giờ đã là hai tá rồi. Trên này đã diễn ra một trận đọ dao.”
Éomer và Aragorn mệt mỏi tì người vào kiếm. Xa xa phía trái tiếng va chạm và hò hét của cuộc chiến trên Hòn Lũy lại rộ lên ầm ĩ. Thế nhưng Lũy Tù Và vẫn trụ vững, như một hòn đảo giữa biển khơi, cổng chính đã sụp đổ; nhưng vẫn chưa kẻ thù nào vượt qua ụ chướng ngại gồm đá và xà ngang bên trong.
Aragorn nhìn lên những vì sao mờ nhạt và cả mặt trăng, giờ đang lặn xuống sau dải đồi phía Tây vây lấy thung lũng. “Đêm nay dài như cả năm,” chàng nói. “Buổi sáng sẽ còn trì hoãn bao lâu nữa đây?”
“Bình minh không còn xa nữa,” Gamling nói, ông ta giờ đã trèo lên đứng cạnh chàng. “Nhưng tôi e rằng bình minh sẽ chẳng giúp gì được cho chúng ta.”
“Song bình minh luôn là niềm hy vọng của con người,” Aragorn nói.
“Thế nhưng đám sinh vật Isengard này, những kẻ nửa Orc và những con người lai yêu tinh đã sinh sôi từ trò ma quỷ của Saruman, chúng không nao núng dưới ánh mặt trời đâu,” Gamling nói. “Và cả lũ người hoang vùng núi cũng vậy. Anh không nghe tiếng chúng sao?”
“Tôi có nghe thấy,” Éomer nói, “thế nhưng trong tai tôi chúng chỉ là những tiếng chim quang quác và tiếng rống của thú vật.”
“Song cũng có rất nhiều kẻ đã thét lên bằng ngôn ngữ ở Dunland,” Gamling nói. “Tôi biết thứ tiếng đó. Đó là một ngôn ngữ cổ đại của con người, đã từng được nói ở rất nhiều thung lũng phía Tây đất Mark. Nghe mà xem! Chúng căm ghét chúng ta và chúng đang mừng rỡ; bởi sự diệt vong của chúng ta dường như đã cầm chắc trong tay chúng. ‘Tên vua, tên vua!’ chúng hét. ‘Chúng ta sẽ bắt tên vua của chúng. Bọn Forgoil phải chết! Bọn Tóc Rơm phải chết! Lũ cướp Miền Bắc phải chết!’ Chúng đặt cho chúng ta những cái tên như thế đó. Suốt nửa nghìn năm mà chúng vẫn không quên mối thù các vua chúa Gondor đã trao đất Mark cho Eorl Trẻ Tuổi và thiết lập liên minh với người. Saruman đã đổ thêm dầu vào lửa của mối thù cũ. Chúng cực kỳ tàn bạo khi bị kích động. Giờ chúng sẽ không chịu lùi bước dù là sáng hay tối, cho đến tận khi Théoden bị bắt giữ, hoặc chính bản thân chúng bị tiêu diệt.”
“Dù thế nào buổi sáng vẫn sẽ mang cho tôi hy vọng,” Aragorn nói. “Chẳng phải người ta vẫn nói chưa kẻ thù nào từng chiếm được Lũy Tù Và, nếu con người đứng ra phòng ngự nó sao?”
“Những người hát rong vẫn hát vậy,” Éomer nói.
“Vậy thì chúng ta hãy phòng ngự nó, và hy vọng!” Aragorn nói.
Họ còn chưa kịp dứt lời thì những tiếng kèn đồng đã vang lên ầm ĩ. Rồi tới tiếng va chạm và lửa khói bùng lên. Nước dòng Suối Hẻm gào rít và tung bọt trào ra: nó không còn bị bịt đường nữa, một lỗ hổng đã vỡ ra toang hoác trên tường thành. Một đội quân toàn những hình thù đen đúa tràn vào.
“Quỷ thuật của Saruman!” Aragorn thét lên. “Chúng đã lại lẻn vào miệng cống, trong khi chúng ta đang nói chuyện, và chúng đã thắp ngọn lửa Orthanc ngay dưới chân chúng ta. Elendil, Elendil!” chàng vừa thét lớn vừa lao xuống chỗ hổng; nhưng giữa lúc chàng làm vậy một trăm chiếc thang đã dựng lên áp vào tường phòng hộ. Đợt tấn công cuối cùng quét tới khắp cả trên lẫn dưới thành như một đợt sóng đen sẫm trùm lên quả đồi cát. Đội quân phòng ngự bị quét đi. Một số Kỵ Sĩ bị đẩy lui mỗi lúc một sâu vào trong Hẻm, họ vừa triệt thoái vừa chiến đấu và gục ngã, lui từng bước một về phía cụm hang. Những người khác cố mở đường lui về lại thành chính.
Có một cầu thang rộng từ Hẻm đi lên Hòn Lũy và cửa hậu Lũy Tù Và. Aragorn đứng gần chân thang. Trong tay chàng thanh Andúril vẫn tỏa sáng lấp lánh, và nỗi sợ hãi thanh kiếm đã cầm chân kẻ thù trong ít lâu, trong lúc từng người một ai đến được cầu thang đều nhanh chóng chạy lên cửa. Legolas quỳ đằng sau trên những bậc thang trên cùng. Cung uốn cong trong tay chàng, nhưng tất cả những gì chàng còn lại chỉ là một mũi tên nhặt nhạnh, mà lúc này chàng đang ngắm, sẵn sàng bắn vào tên Orc đầu tiên dám tiến tới cầu thang.
“Tất cả những ai trụ được giờ đã vào trong an toàn, Aragorn,” chàng gọi. “Quay lại đi!”
Aragorn xoay người chạy lên cầu thang; nhưng giữa lúc chạy mệt mỏi làm chàng vấp ngã. Ngay lập tức đám kẻ thù lao tới. Lũ Orc chạy lên, gào thét, những cánh tay dài vươn ra chực bắt lấy chàng. Tên đầu tiên gục ngã, mũi tên cuối cùng của Legolas găm trong họng, nhưng những tên còn lại nhào qua hắn. Rồi một tảng đá lớn, ném từ trên vòng thành ngoài, rơi ầm xuống cầu thang, và đẩy lùi chúng vào lại Hẻm. Aragorn chạy kịp đến cửa, và nhanh chóng nó đóng sầm lại sau chàng.
“Mọi việc đang xấu đi, các chiến hữu của tôi,” chàng vừa nói vừa lấy tay quệt mồ hôi đọng trên trán.
“Khá xấu,” Legolas nói, “nhưng vẫn chưa đến mức tuyệt vọng khi chúng ta vẫn còn có anh ở bên. Mà Gimli đâu rồi?”
“Tôi không biết,” Aragorn nói. “Tôi thấy anh ấy lần cuối lúc đang chiến đấu dưới đất sau tường thành, nhưng kẻ thù quét tới khiến chúng tôi bị tách ra.”
“Than ôi! Đó quả là một tin xấu,” Legolas than.
“Anh ấy bền bỉ và mạnh mẽ,” Aragorn nói. “Chúng ta hãy hy vọng anh ấy sẽ thoát được về những cái hang. Ở đó hẳn anh ấy sẽ an toàn trong ít lâu. An toàn hơn chúng ta. Những nơi ẩn náu như vậy hợp với sở thích của người lùn.”
“Đó hẳn là hy vọng của tôi,” Legolas nói. “Nhưng tôi ước gì anh ấy đã đi đường này. Tôi ước được nói với cậu Gimli rằng con số của tôi giờ đã lên đến ba mươi chín.”
“Nếu anh ấy đến được chỗ hang, anh ấy sẽ lại vượt anh,” Aragorn bật cười. “Tôi chưa bao giờ được thấy chiếc rìu nào hữu dụng đến vậy.”
“Tôi phải đi tìm thêm ít mũi tên,” Legolas nói. “Giá mà đêm nay chóng kết thúc, để tôi có ánh sáng tử tế hơn mà ngắm bắn.”
Lúc này Aragorn đã vào đến trong thành, ở đó chàng vô cùng thất vọng khi biết Éomer vẫn chưa vào được Lũy Tù Và.
“Không, ngài chưa tới Hòn Lũy,” một trong số những người Westfold nói. “Tôi thấy ngài lần cuối cùng là đang tập trung quân quanh mình chiến đấu bên miệng Hẻm. Gamling ở cùng với ngài, và cả người lùn nữa; nhưng tôi không đến với họ được.”
Aragorn đi qua vòng sân trong, rồi trèo lên căn phòng cao bên trong tháp. Nhà vua đứng đó, một hình bóng tối sầm trên ô cửa sổ hẹp, đang nhìn xuống thung lũng.
“Tin tức sao rồi, Aragorn?” ông hỏi.
“Thành Hẻm đã bị chiếm giữ, thưa bệ hạ, và toàn bộ quân phòng ngự bị quét đi; nhưng rất nhiều người đã thoát được lên Hòn Lũy này.”
“Có Éomer ở đây không?”
“Không, thưa bệ hạ. Nhưng rất nhiều quân của ngài đã triệt thoái vào trong Hẻm; và một số người cho biết Éomer nằm trong số họ. Trong khe hẹp họ có thể cầm chân được kẻ thù và vào được bên trong các hang. Còn họ có cơ may nào sau đó không thì tôi không thể biết được.”
“Hơn cả chúng ta đấy. Nghe nói ở đó có nhiều đồ dự trữ hơn. Và không khí cũng trong lành bởi có lối thông ra ngoài qua những kẽ nứt trên đá ở tít phía trên. Chẳng gì vượt qua nổi những con người quả cảm mà vào trong được đâu. Họ có thể sẽ trụ được lâu đấy.”
“Nhưng lũ Orc có mang theo quỷ thuật từ Orthanc,” Aragorn nói. “Chúng có lửa nổ, dùng lửa đó chúng đã chiếm được Thành. Nếu chúng không thể vào hang, chúng có thể sẽ nhốt những người bên trong lại. Nhưng giờ chúng ta phải dồn toàn bộ tâm trí vào chuyện phòng ngự chính vị trí này.”
“Ta đã chán ngấy căn phòng giam này rồi,” Théoden nói. “Phải chi ta có thể gài giáo bên sườn, cưỡi ngựa trên đồng dẫn theo người của ta, có thể ta sẽ lại cảm nhận được niềm vui trận mạc, và tiến về kết thúc. Nhưng ở đây ta chẳng giúp ích được gì nhiều.”
“Ở đây ít nhất ngài cũng được canh phòng trong thành trì vững chắc nhất đất Mark,” Aragorn nói. “Chúng tôi có nhiều hy vọng bảo vệ được ngài ở Lũy Tù Và hơn ở Edoras, hoặc thậm chí ở Dunharg trong dãy núi.”
“Người ta nói rằng Lũy Tù Và chưa bao giờ sụp đổ trước công kích,” Théoden nói, “nhưng giờ trái tim ta đầy hồ nghi. Thế giới luôn thay đổi, tất cả những gì từng vững chãi giờ đây đều tỏ ra không chắc chắn. Có tòa tháp nào trụ nổi quân số như vậy và lòng hận thù bất chấp tất cả đến vậy? Nếu ta biết sức mạnh Isengard đã lớn thế này, có lẽ ta đã không nghe theo lời lẽ của Gandalf mà hấp tấp xuất binh đối đầu với nó. Lời khuyên của ông ấy giờ đây có vẻ không hay ho như dưới ánh mặt trời buổi sáng.”
“Xin đừng phán xét lời khuyên của Gandalf, cho đến khi mọi chuyện kết thúc, thưa bệ hạ,” Aragorn nói.
“Kết cuộc chẳng còn xa,” nhà vua nói. “Nhưng ta sẽ không đón kết cuộc ấy ở đây, bị bắt như con lửng già nằm trong bẫy. Snawmana và Hasufel cùng ngựa của quân hộ vệ đang ở sân trong. Khi bình minh đến, ta sẽ ra lệnh cho thổi vang tù và của Helm, và ta sẽ tiến lên. Anh có đi cùng ta không, con trai Arathorn? Có lẽ chúng ta sẽ mở một con đường, hoăc sẽ làm nên một kết thúc xứng đáng được một bài ca - nếu còn có ai sống sót để hát về chúng ta sau này.”
“Tôi sẽ đi cùng ngài,” Aragorn nói.
Cáo từ nhà vua, chàng quay lại các vòng thành, đảo vòng qua toàn bộ nơi tập kết của họ, khích lệ tinh thần binh sĩ, và hỗ trợ bất cứ nơi nào cuộc tấn công đang dữ dội. Legolas đi cùng chàng. Những đợt chảy nổ với lửa bùng lên từ bên dưới làm đá rung chuyển. Những móc sắt được quăng lên, và hàng loạt cây thang được dựng cao. Liên tiếp lũ Orc lên được đỉnh vòng thành ngoại, liên tiếp đội quân phòng ngự đẩy chúng xuống.
Cuối cùng Aragorn tới đứng trên cổng chính, chẳng thèm đếm xỉa đến những mũi lao của kẻ thù. Nhìn về phía trước chàng thấy bầu trời phía Đông đang hửng dần. Rồi chàng giơ bàn tay trần, lòng bàn tay hướng ra ngoài làm dấu hiệu thương lượng.
Lũ Orc gào thét chế giễu. “Xuống đây! Xuống đây!” Chúng hét. “Nếu mày muốn nói chuyện với bọn tao, hãy xuống đây! Mang tên vua của mày ra đây! Bọn tao là quân Uruk-hai thiện chiến. Bọn tao sẽ lôi hắn ra khỏi lỗ, nếu hắn không tới. Mang tên vua chui rúc của mày ra đây!”
“Nhà vua đi hay ở là tùy theo ý ngài,” Aragorn nói.
“Vậy mày làm gì ở đây?” chúng tiếp lời. “Sao mày phải nhìn ra? Mày muốn xem quân bọn tao hùng hậu đến đâu ư? Bọn ta là quân Uruk-hai thiện chiến.”
“Ta nhìn ra để ngắm bình minh,” Aragorn nói.
“Bình minh thì sao?” chúng chế nhạo. “Bọn tao là Uruk-hai: bọn tao không ngưng chiến mặc kệ đêm hay ngày, đẹp trời hay giông bão. Chúng tao đến đây để giết bất kể dưới mặt trời hay mặt trăng. Bình minh thì sao nào?”
“Chẳng ai biết được ngày mới sẽ mang đến gì,” Aragorn nói. “Các ngươi hãy đi đi, trước khi sự tình trở thành tồi tệ cho các ngươi.”
“Xuống đây không bọn tao sẽ bắn mày bật khỏi tường,” chúng hét lên. “Đây không phải là thương lượng. Mày chẳng có gì để nói hết.”
“Ta vẫn còn điều này cần nói,” Aragorn trả lời. “Chưa kẻ thù nào từng chiếm được Lũy Tù Và. Hãy đi đi, bằng không các ngươi không tên nào được tha đâu. Không một tên nào có thể sống sót mà mang tin lên phương Bắc. Các ngươi không biết đến mối nguy của các ngươi đâu.”
Một mình đứng đó trên những cánh cổng đổ vỡ trước đội quân thù, vẻ uy nghi và quyền quý từ chàng toát ra mạnh mẽ đến nỗi nhiều tên trong số lũ người hoang sững lại, và quay lại nhìn qua vai về phía thung lũng, một số tên nghi ngại ngước nhìn lên trời. Nhưng lũ Orc lại phá lên cười những tràng lớn; rồi cả một loạt mưa lao và tên xé gió bay lên tường thành, ngay khi Aragorn nhảy xuống.
Một tiếng gầm lớn vang lên cùng lửa bùng ra. Vòm cổng lúc trước chàng mới đứng trên đã vỡ vụn và đổ rầm xuống trong khói bụi. Đống chướng ngại vỡ tan như thể vừa bị sấm sét giáng xuống. Aragorn chạy tới tòa tháp của nhà vua.
Thế nhưng ngay khi cổng vừa đổ xuống, và lũ Orc quanh đó hò hét, chuẩn bị tấn công, thì tiếng rì rào bỗng nổi lên sau chúng, như tiếng gió đằng xa, rồi lớn dần thành tiếng gầm của biết bao giọng thét đang loan báo những tin tức lạ lùng trong buổi bình minh. Lũ Orc phía trên Hòn Lũy, nghe thanh âm tai họa đến gần, đã nao núng quay lại nhìn. Và rồi, đột ngột và khủng khiếp từ tòa tháp trên cao, âm thanh của chiếc đại tù và Helm vang dội.
Tất cả những ai nghe thấy âm thanh đó đều rúng động. Rất nhiều tên Orc nhào úp mặt xuống đất và lấy vuốt bịt tai. Những tiếng vọng dội lại từ phía Hẻm, từng hồi từng hồi, cứ như trên từng vách núi, từng đỉnh đồi đều có sứ giả truyền tin án ngự. Nhưng trên tường thành đội quân con người lại ngẩng lên lắng nghe kinh ngạc; bởi những tiếng vọng không hề dứt. Tiếng tù và không ngớt dội lại giữa khu đồi, đối đáp lẫn nhau lúc một gần hơn và to hơn, thổi vang mãnh liệt và hào sảng.
“Helm! Helm!” đội Kỵ Sĩ thét lớn. “Helm đang trỗi dậy và trở lại chiến đấu. Helm vì Théoden Vương!”
Và giữa tiếng thét ấy nhà vua ra khỏi tháp. Ngựa của ông trắng như tuyết, khiên của ông ngời ánh vàng, còn cây giáo thì thật dài. Bên phải ông là Aragorn, người kế vị Elendil, đi theo phía sau ông là những lãnh chúa thuộc Gia Tộc Eorl Trẻ Tuổi. Ánh sáng tỏa khắp bầu trời. Màn đêm tan biến.
“Tiến lên Eorlingas!” vang tiếng thét và những âm thanh ồn ã họ tấn công. Lao xuống từ cổng họ gầm lên, vượt con đường cao họ phi nước đại, rồi họ phóng xuyên qua đội quân Isengard như cơn gió quét trên đồng cỏ. Đằng sau họ từ trong Hẻm rộ lên những tiếng thét dữ dằn của những người đang lao ra khỏi các hang, đẩy lùi kẻ thù của họ. Toàn bộ những người còn lại trên Hòn Lũy cũng tràn ra. Và tiếng tù và cứ vang vọng mãi trong dãy núi.
Họ tiến lên, nhà vua và những người theo ông. Kẻ thù cả tướng lẫn quân gục ngã hoặc tháo chạy khi gặp họ. Không một tên Orc hay người nào trụ nổi. Lưng chúng xoay lại với kiếm và giáo của các Kỵ Sĩ, còn mắt chúng cắm về phía thung lũng. Chúng gào thét và rên rỉ, vì nỗi sợ hãi và kinh ngạc khôn cùng đã đổ lên đầu chúng trong giờ khắc bình minh lên.
Vậy là Vua Théoden đã thúc ngựa từ Cổng Helm và mở đường máu đến con Hào lớn. Ở đó đội quân dừng lại. Ánh sáng chói chang xung quanh họ. Những vệt nắng bừng tỏa phía trên dãy dồi phía Đông và lấp lánh trên giáo của họ. Nhưng họ vẫn ngồi im trên ngựa, và họ ngây nhìn xuống Lòng Chảo Hẻm.
Vùng đất thay đổi. Nơi lúc trước thung lũng xanh tốt trải ra, những triền dốc rậm cỏ tràn lên những sườn đồi nối nhau cao mãi, thì giờ đây lù lù hiện ra cả một khu rừng. Những thân cây lớn, trần trụi và lặng lẽ, đứng bên nhau hàng nối hàng, cành lá rậm rạp và ngọn xù tơ trắng; rễ chúng xoắn xuýt chìm trong thảm cỏ cao xanh mướt. Bóng tối đặc lại bên duới chúng. Từ con hào đến hiên khu rừng không tên ấy chỉ còn hở ra hai sải. Những đội quân kiêu hãnh của Saruman giờ đây rúm ró giữa khoảng đó, khiếp sợ nhà vua và khiếp sợ cả cây cối. Chúng tràn xuống từ cổng Helm cho đến khi toàn bộ mạn trên hào sạch hẳn bóng chúng, nhưng qua khỏi hào chúng túm tụm như một đàn ruồi lúc nhúc. Chúng cào cấu vô ích quanh vách lòng chảo tìm đường thoát thân. Ở phía Đông mặt thung lũng quá dốc đứng và nhiều đá còn ở bên trái, phía Tây, định mệnh cuối cùng của chúng đang tiến đến gần.
Ở đó trên sống núi bỗng xuất hiện một kỵ sĩ, mặc toàn trắng, đang tỏa sáng trong ánh mặt trời lên. Khắp bên dưới miền đồi thấp cất lên những tiếng tù và. Đằng sau ông, đang vội vã lao xuống triền dốc dài, là một nghìn lính bộ; kiếm đã nắm sẵn trong tay. Ở giữa họ một người đàn ông cao lớn và cường tráng đang sải bước. Khiên của ông ta rực đỏ. Vừa đến rìa thung lũng, ông ta đặt lên môi chiếc tù và lớn màu đen và thổi một hồi âm vang.
“Erkenbrand!” các Kỵ Sĩ thét vang. “Erkenbrand!”
“Hãy chiêm ngưỡng Kỵ Sĩ Trắng!” Aragorn thét lên “Gandalf lại đến rồi!”
“Mithrandir, Mithrandir!” Legolas nói. “Đúng là tài năng phù thủy! Nào! Tôi muốn quan sát khu rừng này, trước khi lời chú đổi khác.”
Những toán quân Isengard gầm rú, lao ra hết phía này lại phía khác, chạy từ nỗi sợ này sang nỗi sợ khác. Tiếng tù và trên tháp lại vang lên lần nữa. Đội quân của nhà vua tấn công xuống xuyên qua cầu đắp qua hào. Từ phía dãy đồi Erkenbrand, lãnh chúa Westfold, cũng lao xuống. Và cả Scadufax cũng vút xuống, như một con hươu chắc chân chạy trên núi. Kỵ Sĩ Trắng đang lao vào chúng, và nỗi sợ hãi trước sự xuất hiện của ông khiến kẻ thù trở nên điên loạn. Lũ người hoang ngã sấp mặt xuống đất phía trước ông. Lũ Orc cuống cuồng hò hét vứt bỏ cả kiếm lẫn giáo. Như đám khói đen bị thổi bạt bởi cơn gió cả, chúng tháo chạy. Chúng vừa kêu gào vừa chạy vào vùng bóng tối đang đợi sẵn dưới rừng cây; và trong bóng tối đó không tên nào chạy ra được nữa.