← Quay lại trang sách

Chương VI NHÀ VUA TRONG CUNG ĐIỆN VÀNG

Họ phi mãi qua hoàng hôn, qua cảnh chạng vạng chậm rãi, và qua cả màn đêm nặng dần. Khi rốt cục họ dừng bước và xuống ngựa, ngay cả Aragorn cũng mỏi nhừ và kiệt sức. Gandalf chỉ cho phép họ nghỉ ngơi trong ít giờ. Legolas và Gimli ngủ, còn Aragorn ngửa người nằm duỗi thẳng ra đất; thế nhưng Gandalf vẫn đứng, tựa người trên trượng, nhìn dõi vào màn đêm, từ Đông sang Tây. Tất cả đều lặng im, không hề có dấu hiệu hay âm thanh nào của sự sống. Màn đêm còn phong kín bởi những dải mây dài, trôi theo cơn gió lạnh buốt, là họ đã trở dậy. Dưới trăng lạnh họ lại lên đường thêm một lần nữa, cũng nhanh chóng như dưới ánh sáng ban ngày.

Nhiều giờ trôi qua và họ vẫn phóng đi. Gimli ngủ quên suýt ngã khỏi lưng ngựa nếu Gandalf không chộp lấy lay gã tỉnh. Hasufel và Arod, mệt mỏi nhưng kiêu hãnh, vẫn bám theo thủ lĩnh không biết mệt của chúng, một bóng hình màu xám khó trông thấy ở phía trước. Những dặm đường cứ trôi về phía sau. Mặt trăng khuyết lặn dần xuống phía Tây mù mịt.

Cái lạnh thấu xương len vào trong không khí. Dần dần ở phía Đông bóng đêm nhạt đi thành màu xám lạnh. Những vệt sáng đỏ hắt lên phía trên những vách đen khu đồi Emyn Muil xa tít phía bên trái họ. Bình minh đến trong trẻo và rạng rỡ; một cơn gió quét ngang con đường của họ, cuốn qua những thân cỏ đổ rạp. Đột nhiên Scadufax đứng sững lại rồi hí vang. Gandalf chỉ tay về phía trước.

“Nhìn kìa!” ông kêu lớn, và họ nhướn những cặp mắt mệt mỏi lên. Đứng trước mặt họ là dãy núi miền Nam: đỉnh trắng và có những sọc đen. Thảo nguyên mấp mô lan đến sát cụm đồi chen chúc dưới chân dãy núi, cuộn lên cao thành nhiều thung lũng mờ ảo và tăm tối, vẫn chưa được ánh bình minh chạm đến, uốn lượn mà chạy vào tận trung tâm dãy núi sừng sững. Ngay trước mắt những người lữ hành, khe thung lũng rộng nhất trong số đó ăn sâu vào như một cái vịnh dài giữa cụm đồi. Sâu bên trong họ thoáng thấy một khối núi lộn xộn với duy nhất một chóp núi cao, còn ở miệng khe thung lũng, như một viên lính gác, là một đỉnh cao đơn độc. Uốn lượn quanh chân đỉnh như dải bạc là dòng suối bắt nguồn từ trong thung lũng; dù vẫn còn rất xa, họ vẫn phát hiện thấy trên đỉnh ấy, trong ánh mặt trời mọc, một tia sáng lấp lánh sắc vàng.

“Nói đi, Legolas!” Gandalf nói. “Hãy nói cho chúng tôi biết anh nhìn thấy gì phía trước?”

Legolas nhìn chăm chú về phía trước, tay che mắt khỏi ánh mặt trời mới mọc ngang tầm mắt. “Tôi thấy một dòng nước trắng chảy xuống từ các ngọn tuyết phủ,” chàng nói. “Nơi dòng nước chảy ra khói bóng tối thung lũng mọc lên một quả đồi xanh ở phía Đông. Có một con hào, một tường thành lớn với bờ rào gai vây tròn lấy nó. Bên trong nhô lên rất nhiều mái nhà; và ở chính giữa, trên sàn hiên cao màu xanh, có một tòa nhà lớn của Con Người. Và trong mắt tôi, dường như tòa nhà ấy lợp mái bằng vàng. Ánh sáng từ đó tỏa ra khắp vùng đất. Những cột cổng cũng bằng vàng. Có vài người mặc giáp sáng ngời đang đứng đó tuy nhiên mọi người khác bên trong các sân đều đang ngủ.”

“Các sân triều đó được gọi là Edoras,” Gandalf nói, “còn Meduseld chính là tòa nhà vàng. Đó là nơi cư ngụ của Théoden con trai Thengel, Vua đất Mark có tên Rohan. Chúng ta đã đến đúng thời khắc ngày mới trỗi dậy. Giờ đây con đường đã trải ra rõ ràng ở phía trước. Nhưng chúng ta buộc phải cảnh giác mà đi tiếp; bởi chiến tranh đã lan rộng, và người Rohirrim, những Chúa Ngựa, không hề ngủ, cho dù trông có vẻ như vậy từ đằng xa. Tôi khuyên tất cả đừng rút vũ khí, đừng nói những lời ngạo mạn, cho đến khi chúng ta đến được trước ngai Théoden.”

Khi những người lữ hành đến được dòng nước, trời đã sáng bạch rõ ràng khắp xung quanh, chim chóc đang hót líu lo. Dòng nước chảy xiết xuống đồng bằng, ra đến phía ngoài cụm đồi nó vòng thật rộng cắt ngang con đường họ đi, rồi chảy về phía Đông tiếp nước cho dòng Luồng Ent bị sậy phủ đầy. Vùng đất thật xanh tốt: trong những đồng cỏ ngập nước và dọc hai bờ nước rậm cỏ mọc rất nhiều liễu. Ở vùng đất phía Nam này, liễu đã bắt đầu nhú đỏ ở đầu cành, vì cảm nhận mùa xuân đang đến gần. Vắt qua dòng nước có một khúc cạn giữa hai bờ thấp đã bị ngựa qua lại giẫm đạp nhiều. Những người lữ hành bèn vượt qua, rồi đến một lối đi rộng nhiều vết lún hướng lên khu đất cao.

Tới chân quả đồi có tường bao, con đường chạy dưới bóng mát của rất nhiều gò đất, cao và xanh, cỏ mọc trên các mặt gò phía Tây trắng muốt như thể vì tuyết đọng: những bông hoa nhỏ nảy ra như muôn vì sao giữa nền cỏ.

“Nhìn kìa!” Gandalf nói. “Đẹp làm sao những con mắt sáng trong cỏ! Hoa vĩnh ký là tên chúng, hay ở vùng đất này của Con Người thì gọi là simbelmynë, bởi chúng nở khắp các mùa trong năm, và mọc ở nơi người chết nằm xuống. Hãy xem! Chúng ta đã đến khu mộ lớn nơi cha ông Théoden yên nghỉ.”

“Bảy gò đất bên trái, và chín bên phải,” Aragorn nói. “Rất nhiều đời người đã trôi qua kể từ khi ngôi điện vàng được xây dựng.”

“Đã năm trăm lần những lá đỏ ở rừng Âm U quê tôi rụng xuống kể từ đó,” Legolas nói, “thế nhưng đối với chúng tôi chừng đó chỉ như trong chốc lát.”

“Nhưng đối với những Kỵ Sĩ đất Mark sự ấy có vẻ cách đây lâu lắm rồi,” Aragorn nói, “đến nỗi buổi dựng lên ngôi điện này chỉ còn là ký ức trong những bài ca, và những năm tháng trước nữa đã biến mất trong sương mù thời gian. Giờ họ gọi vùng đất này là quê hương của họ, của riêng họ, và ngôn ngữ của họ đã tách ra khỏi dòng dõi phía Bắc.” Rồi chàng bắt đầu nhẹ nhàng hát bằng một thứ ngôn ngữ chậm rãi mà chàng Tiên và gã Người Lun không hề biết; song họ vẫn lắng nghe, bởi nó chứa nhạc điệu thật mạnh mẽ.

“Tôi đoán đó là ngôn ngữ của người Rohirrim,” Legolas nói; “bởi nó giống như chính vùng đất này; nhiều phần phong phú và trầm bổng, phần khác cứng rắn và lạnh lùng như dãy núi. Nhưng tôi không thể đoán ra ý nghĩa của nó là gì, trừ việc chứa chan nỗi buồn của Con Người Hữu Tử.”

“Trong Ngôn Ngữ Chung có nghĩa thế này,” Aragorn nói, “sát nghĩa nhất mà tôi có thể dịch được.

Đâu rồi tuấn mã cùng kỵ sĩ? Đâu rồi tù trỗi giọng oai hùng?

Đâu rồi khôi giáp đâu mâu đẹp, mái đầu tóc sáng xòa tung?

Đâu rồi tay lướt trên dây hạc, bên vuông bếp đỏ lửa bập bùng?

Đâu rồi xuân mới sang mùa gặt, bông lúa vươn mình vinh vung?

Qua rồi tất cả như mưa núi, như cơn gió vội tạt qua đồng;

Tháng ngày đã lặn sau đồi cuối về Tây chìm vào bóng không.

Rồi đây ai sẽ gom làn khói cuộn trên đám cháy những xác cây,

Ai sẽ ngóng nhìn năm cũ chảy từ Đại Dương quay về đây?

Đó là lời một nhà thơ bị lãng quên từ một thời rất xa ở Rohan, nhớ về chàng Eorl Trẻ Tuổi cao lớn và đẹp đẽ, đã phi ngựa xuống đây từ miền Bắc; và con tuấn mã của người mọc cánh dưới chân, Felaróf, cha của loài ngựa. Con người vẫn hát vậy vào buổi tối.”

Cùng những lời ấy các lữ khách đi qua những nấm mồ im lặng. Theo con đường quanh co dẫn lên bờ vai xanh của quả đồi, rồi họ cũng lên đến được những bức tường rộng dãi gió và cổng vào Edoras.

Rất nhiều người mặc giáp sáng choang đang ngồi đó, họ ngay lập tức bật dậy và chĩa giáo chặn đường. “Dừng lại, hỡi những người lạ mặt nơi đây không quen biết!” Họ thét lên bằng ngôn ngữ đất Riddermark, yêu cầu khai tên và mục đích của những người lạ mặt. Sự ngạc nhiên ánh lên trong mắt họ nhưng lại chẳng mấy thân thiện; và họ nhìn Gandalf tăm tối.

“Tôi hiểu rõ lời nói của các anh,” ông trả lời bằng ngôn ngữ ấy, “song không có nhiều người ngoài như vậy. Sao các anh không nói bằng Tiếng Nói Chung, như ở Miền Tây vẫn thường làm vậy, nếu muốn được trả lời?”

“Theo ý chỉ của Théoden Vương không ai được đi qua cổng đây, trừ những người biết ngôn ngữ của chúng ta và là bạn của chúng ta,” một người trong toán lính gác đáp lời. “Không ai được chào đón ở đây vào thời buổi chiến tranh trừ người của chúng ta, và những người đến từ Mundburg đất Gondor. Các người là ai mà liều lĩnh vượt bình nguyên và dù ăn mặc lạ mắt nhưng lại cưỡi ngựa giống in ngựa của chúng ta? Chúng ta đã canh gác ở đây từ lâu rồi và chúng ta cũng đã theo dõi các người từ xa. Chúng ta chưa từng thấy toán kỵ sĩ nào lạ lùng như vậy, cũng như chưa thấy bất cứ con ngựa nào kiêu hãnh như một trong những con đang mang các ngươi. Nó là một trong số Mearas, trừ phi mắt chúng ta bị câu thần chú nào đó đánh lừa. Nói đi, các người không phải là phù thủy, hay gián điệp của Saruman, hay ma quỷ gì từ tay hắn chứ? Hay nói ngay và nhanh lên!”

“Chúng tôi không phải là ma quỷ,” Aragorn nói, “và mắt các anh cũng không lừa các anh. Bởi những con ngựa chúng tôi cưỡi chính là của các anh, như tôi đoán là các anh đã biết rõ từ trước khi hỏi. Nhưng chẳng mấy khi trộm ngựa lại cưỡi ngựa trở về chuồng đâu. Đây là Hasufel và Arod, mà Éomer, Đệ Tam Thống Chế đất Mark, cho chúng tôi mượn mới chỉ hai ngày trước. Giờ chúng tôi đưa chúng về như hứa với anh ấy. Chẳng lẽ Éomer chưa về đây và báo trước rằng chúng tôi sắp đến sao?”

Vẻ bối rối hiện ra trong mắt tay lính gác. “Về Éomer tôi không có gì để nói,” anh ta trả lời. “Nếu điều anh nói với tôi là sự thât, thì không phải nghi ngờ Théoden đã nghe về nó. Có lẽ việc các anh đến đây không phải hoàn toàn không được dự liệu đâu. Mới hai đêm trước thôi Lưỡi Giun đến chỗ chúng tôi và nói rằng theo ý chỉ của Théoden không người lạ mặt nào được đi qua những cánh cổng này.”

“Lưỡi Giun ư?” Gandalf vừa nói vừa nhìn xoáy vào tay lính gác. “Đừng nói gì nữa! Mục đích của tôi không liên quan tới Lưỡi Giun, mà liên quan tới chính Chúa đất Mark. Tôi đang rất vội. Anh không định đi hoặc cử người đi báo rằng chúng tôi đã đến ư?” Mắt ông bừng sáng dưới cặp lông mày rậm khi hướng cái nhìn chằm chằm lên người kia.

“Được, tôi sẽ đi,” anh ta trả lời chậm rãi. “Nhưng tôi sẽ phải thông báo tên gì đây? Và tôi sẽ phải nói gì về ông? Lúc này trông ông có vẻ già cả và mỏi mệt, song ở bên trong ông lại lẫm liệt và đáng sợ, tôi thấy vậy.”

“Anh thấy và nói đúng đấy,” thầy phù thủy nói. “Bởi ta là Gandalf. Ta đã trở lại. Và nhìn xem! Ta cũng đem về con ngựa. Đây là Scadufax Vĩ Đại, mà không một bàn tay nào khác có thể thuần phục được. Và đây bên cạnh ta là Aragorn con trai Arathorn, người kế vị dòng Vua, anh ấy đang trên đường đến Mundburg. Đây nữa là Legolas người Tiên và Gimli Người Lùn đồng đội của ta. Hãy đi ngay mà nói với chủ nhân của anh rằng chúng ta đang ở trước cổng và mong được nói chuyện với ngài, nếu chúng ta được phép vào cung điện.”

“Những cái tên ông giới thiệu quả là lạ tai! Nhưng tôi sẽ thông báo lại theo yêu cầu của ông, để biết ý của chủ nhân tôi thế nào,” tay lính gác nói. “Hãy đợi ở đây ít lâu, rồi tôi sẽ mang đến cho ông câu trả lời nào mà người thấy thích họp. Đừng kỳ vọng nhiều quá! Giờ đang là những ngày đen tối.” Anh ta vội vã ra đi, bỏ những người lạ ở lại dưới con mắt canh chừng cảnh giác của đồng đội.

Một lát sau anh ta quay lại. “Hãy theo tôi!” anh ta nói. “Théoden cho phép các ông vào; nhưng mọi vũ khí các ông mang theo, kể cả chỉ là cây gậy, đều phải để lại ở lối vào. Người giám môn sẽ giữ chúng.”

Hai cánh cổng màu tối được mở ra. Đoàn lữ hành đi vào, bước hàng một phía sau người hướng dẫn. Họ gặp một con đường rộng rãi, lát bằng đá đẽo, lúc lượn vòng đi lên, lúc lại dẫn thẳng lên qua những đợt cầu thang ngắn được săp đặt vững chãi. Họ đi qua nhiều căn nhà gỗ cùng nhiều cánh cổng màu tối. Bên cạnh con đường có một suối nước trong chảy trong kênh đá, lấp lánh và róc rách. Cuối cùng họ cũng lên đến được đỉnh đồi. Ở đó có một thềm cao phía trên một sân hiên màu xanh, dưới chân hiên có một dòng nước sáng phun ra từ tảng đá chạm hình đầu ngựa; phía dưới có một chậu lớn để nước tràn ra lại nhập vào dòng suối đang đổ xuống. Dẫn lên sân hiên xanh là một cầu thang bằng đá, cao và rộng, hai bên bậc trên cùng có hai bệ ngồi tạc vào đá. Ngồi ở đó là một toán lính gác khác, kiếm tuốt trần đặt ngang đầu gối. Mái tóc vàng tết lại trên vai họ; ánh mặt trời tô điểm những tấm khiên màu xanh lục, những bộ giáp dài đánh sáng loáng, và khi đứng dậy họ dường như cao lớn hơn người trần.

“Cửa ở phía trước các ông đấy,” người dẫn đường nói. “Giờ tôi phải trở lại vị trí ở cổng. Tạm biệt! Cầu mong Chúa đất Mark nhân từ với các ông!”

Anh ta quay người rồi vội vã đi xuống con đường. Những người còn lại trèo lên cầu thang dài dưới ánh mắt theo dõi của toán cận vệ cao lớn. Họ giờ đứng im lặng trên cao không nói lời nào, cho đến tận khi Gandalf bước lên khoảng sân hiên lát đá trên đầu cầu thang. Rồi đột nhiên cất giọng trong trẻo họ cất lời chào nhã nhặn bằng ngôn ngữ của mình.

“Chào mừng, những người đến từ phương xa!” họ nói, rồi xoay chuôi kiếm về phía những người lữ hành để tỏ dấu hiệu hòa bình. Những viên ngọc xanh lóe sáng dưới ánh mặt trời. Rồi một người cận vệ bước lên và nói bằng Ngôn Ngữ Chung.

“Tôi là Giám Môn của Théoden,” anh ta nói. “Háma là tên tôi. Tôi phải yêu cầu các ông để vũ khí lại ở đây trước khi đi vào.”

Thế rồi Legolas đặt vào tay anh ta con dao cán bạc, bao tên và cây cung. “Hãy giữ gìn cho cẩn thận,” chàng nói, “bởi chúng đến từ khu Rừng Vàng và chính Phu Nhân rừng Lothlórien đã tặng chúng cho tôi.”

Vẻ kinh ngạc hiện lên trong mắt người kia, anh ta liền vội vã đặt chúng xuống cạnh bức tường, như thể sợ hãi phải tiếp tục cầm. “Sẽ không ai chạm vào chúng đâu, tôi hứa với ông như vậy,” anh ta nói.

Aragorn đứng ngập ngừng một lúc. “Không bao giờ ý nguyện của tôi,” Aragorn nói, “lại muốn để lại kiếm hay trao thanh Andúril vào tay bất kỳ người nào khác.”

“Đó là ý nguyện của Théoden,” Háma nói.

“Tôi không rõ tại sao ý nguyện của Théoden con trai Thengel, cho dù ông ấy là chúa đất Mark, lại có thể khuất phục ý nguyện của Aragorn con trai Arathorn, người kế vị Elendil vương quốc Gondor.”

“Đây là nhà Théoden, chứ không phải nhà Aragorn, cho dù anh ta có là Vua Gondor ngồi trên ngai vàng của Denethor,” Háma vừa nói vừa bước nhanh đến trước cánh cửa và chặn đường. Thanh kiếm đã nằm trong tay anh ta, mũi hướng về phía những người lạ mặt.

“Nói chuyện kiểu này không đi đến đâu cả,” Gandalf nói. “Mệnh lệnh của Théoden là không cần thiết nhưng chống lại cũng chẳng ích lợi gì. Mỗi nhà vua đều theo ý riêng trong cung điện mình, cho dù điên rồ hay sáng suốt.”

“Thật vậy,” Aragorn nói. “Và tôi sẽ làm như chủ nhân của ngôi nhà yêu cầu, kể cả nếu đây chỉ là cái chòi canh rừng, nếu thanh kiếm tôi mang là bất kỳ thanh nào khác chứ không phải Andúril.”

“Dù nó tên là gì đi nữa,” anh ta nói, “thì anh vẫn phải để nó lại đây nếu anh không muốn một mình chống lại toàn bộ quân Edoras.”

“Không một mình đâu!” Gimli vừa nói vừa lướt ngón tay trên lưỡi cây rìu, và sầm mắt nhìn tay cận vệ, như thể anh ta chỉ là một cây non mà Gimli sẵn lòng đốn hạ. “Không một mình đâu!”

“Nào, nào!” Gandalf nói. “Chúng ta đều là bạn bè ở đây. Hoặc nên là như vậy; bởi tiếng cười khoái trá của Mordor sẽ là phần thưởng duy nhất cho chúng ta, nếu chúng ta xích mích. Nhiệm vụ của tôi gấp gáp lắm. Ít nhất thì đây là thanh kiếm của tôi, Háma trung thành ạ. Hãy giữ nó cho cẩn thận. Nó được gọi là Glamdring, bởi người Tiên đã làm ra nó cách đây lâu rồi. Giờ hãy để tôi qua. Nào, Aragorn!”

Aragorn chậm rãi tháo thắt lưng rồi tự mình dựng thanh kiếm tựa lên tường. “Tôi đặt nó ở đây,” chàng nói, “nhưng tôi ra lệnh cho anh không được sờ vào nó, cũng không được cho phép ai đặt tay lên nó. Trong cái bao kiếm Tiên này có một Lưỡi Kiếm Gãy nhưng đã được rèn lại. Telchar là người đầu tiên rèn nó trong những tầng sâu thời gian. Cái chết sẽ đến với bất cứ ai rút thanh kiếm của Elendil mà không phải người kế vị Elendil.”

Người cận vệ lui lại nhìn Aragorn sửng sốt. “Dường như ngài đã tới đây trên đôi cánh một bài ca từ những tháng ngày bị lãng quên,” anh ta nói. “Sẽ là như vậy theo mệnh lệnh của ngài, thưa vương tử.”

“Chà,” Gimli nói, “nếu có Andúril làm bầu bạn với mình, thì cây rìu của ta có thể ở lại đây, mà không phải xấu hổ,” và đặt nó xuống sàn. “Rồi đấy, nếu tất cả mong muốn của ngươi đã xong, hãy để chúng ta đi nói chuyện với chủ nhân ngươi.”

Người cận vệ vẫn lưỡng lự. “Cây gậy của ông,” anh ta nói với Gandalf. “Xin thứ lỗi, nhưng nó cũng phải được để lại trước cửa.”

“Thật ngu xuẩn!” Gandalf nói. “Thận trọng là một chuyện, nhưng khiếm nhã lại là một chuyện khác đấy. Tôi già rồi. Nếu tôi không được chống gậy mà đi, thì tôi sẽ ngồi ngoài này, cho đến khi đích thân Théoden tập tễnh ra đây mà nói chuyện với tôi.”

Aragorn bật cười. “Ai cũng có gì đó quá quý báu chẳng thể trao vào tay người khác. Nhưng lẽ nào anh lại đi chia rẽ một ông già với chỗ dựa của ông ấy? Nào, anh định không để chúng tôi vào sao?”

“Cây gậy trong tay phù thủy có lẽ còn hơn cả chiếc nạng cho người già,” Háma nói. Anh ta săm soi nhìn cây trượng tần bì Gandalf đang chống. “Song lúc hoài nghi, một người hiểu biết sẽ tin vào xét đoán sáng suốt của mình. Tôi tin rằng các ông là những người bạn và là những người trọng danh dự, không có mục đích xấu xa. Các ông có thể vào.”

Toán cận vệ nhấc những thanh chắn cửa nặng nề lên rồi đẩy cửa từ từ vào trong, nó kêu ken két nơi những bản lề lớn. Các lữ khách đi vào. Ở bên trong có vẻ tối và ấm so với bầu không khí trong trẻo trên đồi. Cung điện dài và rộng, đầy bóng đổ và ánh sáng chập chờn; những cột trụ khổng lồ đỡ lấy phần mái cao ngất. Thế nhưng đây đó vẫn có những chùm tia mặt trời sáng chói chiếu xuống thành những vệt lấp lánh từ các ô cửa sổ phía Đông, cao tít dưới mái hiên sâu. Đằng sau những tấm mái hắt trên trần, bên trên những làn khói mỏng thoát ra, bầu trời hiện ra nhợt nhạt và xanh. Khi mắt nhìn rõ lại, đoàn lữ hành thấy nền điện lát những viên đá nhiều màu sắc; những chữ rune tỏa nhánh và những họa tiết kỳ lạ cuộn vào nhau dưới chân họ. Giờ họ mới thấy các cột trụ được chạm khắc rất tinh vi, le lói ánh vàng và cả những màu sắc khó nhận biết. Có nhiều tấm vải dệt treo trên tường, và diễu qua mặt vải rộng là những nhân vật từ huyền thoại cổ xưa, một số đã mờ đi vì năm tháng, số khác tối thui trong bóng tối. Nhưng ánh mặt trời chiếu sáng một trong số đó: một người trẻ tuổi cưỡi trên con ngựa trắng. Người đó đang thổi một chiếc tù và lớn, mái tóc vàng tung bay trong gió. Đầu con ngựa vươn lên, hai lỗ mũi mở to và đỏ vì đang hí vang, đánh hơi thấy chiến trận đằng xa. Quanh đầu gối nó mặt nước tung bọt, xanh và trắng, đổ ào và cuộn chảy.

“Hãy chiêm ngưỡng Eorl Trẻ Tuổi!” Aragorn nói. “Người đang phi khỏi miền Bắc để tham gia Trận Chiến trên Đồng Celebrant.”

Lúc này bốn người lữ hành tiến lên trước, đi qua đống củi cháy sáng rỡ trên ô bếp dài chính giữa phòng. Rồi họ dừng lại. Tại đầu kia tòa nhà, phía bên kia ô bếp và quay ra cửa về phía Bắc, có một bệ lớn ba bậc; ở chính giữa bệ có một chiếc ngai lớn mạ vàng. Ngồi trên ngai là một người còng rạp vì tuổi tác đến nỗi trông gần như một người lùn; nhưng mái tóc bạc lại dài và dày, chảy xuống thành từng bím lớn từ dưới vành miện vàng đặt trên đầu. Chính giữa vành miện trên trán ông sáng ngời một viên kim cương trắng. Bộ râu ông trải ra như tuyết trên đầu gối; nhưng đôi mắt vẫn cháy như ngọn lửa sáng, lóe lên khi ông nhìn những người lạ mặt. Đứng sau ngài là một người con gái vận đồ trắng. Ngồi dưới chân ông, trên bậc bệ, là một hình người nhăn nheo, khuôn mặt tái khôn ngoan và đôi mắt có mi sùm sụp.

Tất cả đều im lặng. Ông già không hề cử động trên ngai. Cuối cùng Gandalf lên tiếng. “Xin kính chào, Théoden con trai Thengel! Tôi đã trở lại. Bởi hãy nhìn xem! Cơn bão đang đến, và giờ bạn bè cần phải tập trung lại cùng nhau, kẻo từng người riêng rẽ sẽ bị tiêu diệt.”

Ông già chậm chạp vươn người đứng lên, nặng nhọc tựa mình vào cây gậy ngắn màu đen tay cầm bằng xương trắng; và đến giờ những người lạ mặt nhận thấy, dù còng, nhưng ông ta vẫn cao và thuở còn trẻ chắc hẳn đã từng rất cao lớn và kiêu hãnh.

“Ta chào ông,” ông ta nói, “và có lẽ ông đang trông đợi một sự đón mừng. Nhưng sự thật là sự đón mừng đó ở đây không lấy gì làm chắc, lão Gandalf ạ. Ông lúc nào cũng là sứ giả đưa tin thống khổ. Những điều rắc rối theo chân ông như lũ quạ, càng lúc càng tệ hại hơn. Ta không lừa gạt ông đâu: khi ta nghe tin Scadufax quay về mà không người cưỡi, ta mừng vì ngựa trở về, nhưng còn vui mừng hơn vì không còn tay kỵ sĩ; và khi Éomer báo rằng ông rốt cục đã ra đi về ngôi nhà dài của ông, ta cũng chẳng thương tiếc. Nhưng tin tức từ xa hiếm khi là sự thật. Giờ ông lại đến đây! Và đến cùng ông là những điều xấu xa còn tồi tệ hơn trước, đúng như dự đoán. Tại sao ta lại phải đón mừng ông, hả Gandalf Chim Lợn? Hãy nói xem.” Rồi ông ta lại từ từ ngồi xuống ngai.

“Người nói thật chính xác, thưa chúa công,” gã người tái mét ngồi trên bậc bệ ngai nói. “Vẫn chưa đến năm ngày kể từ tin báo cay đắng cho biết Théodred con trai người đã bị giết chết ở Tây Biên Thùy: cánh tay phải của người. Đệ Nhị Thống Chế đất Mark. Còn Éomer chẳng thể trông cậy nhiều. Nếu hắn được phép cầm quân, sẽ chẳng còn nhiều lính ở lại gác tường thành của người. Và ngay lúc này đây chúng ta đã hay tin từ Gondor rằng Chúa Tể Hắc Ám đang trở dậy ở miền Đông. Đó chính là thời khắc kẻ lang thang này cố tình trở lại. Đúng vậy, tại sao chúng ta phải đón mừng ông, hả lão Chim Lợn? Tôi đặt cho ông cái tên Láthspell, Tin xấu; và người ta nói tin xấu luôn là một vị khách xấu.” Hắn vừa cười cay độc, vừa nhướn hàng mí sụp trong chốc lát mà đưa cặp mắt tăm tối nhìn những người lạ mặt.

“Ngươi vẫn hằng được coi là khôn ngoan, anh bạn Lưỡi Giun của ta, và hẳn nhiên là chỗ dựa lớn lao cho chủ nhân ngươi,” Gandalf trả lời bằng một giọng nhẹ nhàng. “Song người ta có thể đến cùng tin xấu một trong hai cách. Người đó có thể là nguyên do cái xấu; hoặc có thể thuộc loại người chẳng dây vào lúc tốt, mà chỉ đến cứu giúp vào lúc khó khăn.”

“Đúng vậy,” Lưỡi Giun nói, “nhưng vẫn còn một loại thứ ba: những kẻ bới xương, những kẻ xía vào nỗi buồn của người khác, những con chim ăn xác thối béo lên nhờ chiến tranh. Ông đã từng đến cứu giúp lần nào, hả Chim Lợn? Và bây giờ ông đến cứu giúp gì vậy? Chính ông đã cần chúng tôi cứu giúp lần trước khi ông ở đây. Rồi chúa công tôi đã cho phép ông lựa chọn bất cứ con ngựa nào ông muốn rồi đi cho nhanh, và trước sự sửng sốt của tất cả mọi người, ông đã xấc xược chọn ngay Scadufax. Chúa công tôi đã đau đớn khôn cùng; song đối với vài người thì để ông mau chóng rời khỏi đất này xem ra đó cũng khống phải là cái giá quá cao. Tôi đồ rằng có vẻ như mọi việc sẽ lại như vậy một lần nữa: ông sẽ lại cầu viện được cứu giúp thay vì đưa lại. Ông có đưa người đến không? Ông có đưa ngựa, hay kiếm, hay giáo đến không? Đó mới là những thứ tôi coi là cứu giúp; đó mới là những thứ chúng tôi đang cần. Thế nhưng những kẻ theo đuôi ông là ai vậy? Ba kẻ lang thang rách rưới vận đồ xám, và chính ông mới là kẻ giống ăn mày nhất trong cả bốn!”

“Lòng hiếu khách trong cung điện của ngài dường như gần đây đã kém đi rồi, Théoden con trai Thengel,” Gandalf đáp. “Chẳng lẽ người đưa tin trước cổng đã không thông báo tên những người bạn đường của tôi sao? Hiếm có vị chúa Rohan nào từng được tiếp đón những vị khách như vậy. Vũ khí họ để lại ngoài cửa kia có giá trị ngang rất nhiều người trần, kể cả người hùng mạnh nhất. Màu xám là màu y phục họ, bởi người Tiên đã mặc lên họ, và nhờ vậy họ đã vượt qua bóng tối của những hiểm họa khôn lường để đến được cung điện ngài.”

“Vậy ra đấy là sự thật, điều Éomer đã báo cáo, rằng các ông cùng bè đảng với Mụ Phù Thủy khu Rừng Vàng?” Lưỡi Giun nói. “Chẳng có gì phải ngạc nhiên: những tấm lưới gian dối vẫn luôn được dệt ở Dwimordene.”

Gimli tiến lên phía trước một bước, nhưng đột nhiên cảm thấy bàn tay Gandalf nắm chặt vai gã, và gã dừng lại, đứng im như tảng đá.

Đất Dwimordene, Lórien

Xưa nay vốn hiếm dấu chân Con Người,

Thiều quang chói lọi muôn đời

Mắt phàm trần cũng hiếm người quan chiêm.

Galadriel! Galadriel!

Trắng thay là đốm sao trên tay người;

Trong thay là nước giếng thơi;

Xinh thay vô nhiễm tinh khôi lá cành

Đất Dwimordene, Lórien,

Đẹp thay mộng tưởng Phàm Nhân sao tày.

Gandalf nhẹ nhàng hát, và rồi ông đột nhiên thay đổi. Ném chiếc áo choàng rách sang một bên, ông vươn thẳng người không còn chống gậy nữa; rồi ông nói bằng một giọng rõ ràng lạnh băng.

“Biết thì thưa thốt là châm ngôn của những người thông thái, Gríma con trai Gálmód. Ngươi đã trở thành một con giun đần độn. Vậy nên hãy câm miệng, và giữ yên cái lưỡi chẻ đằng sau hàm răng ngươi. Ta không vượt qua lửa và cái chết để đến cò kè những lời quanh co với một tên đầy tớ tới tận khi sấm sét giáng xuống.”

Ông giơ cây trượng. Một tiếng sấm rền lên. Ánh mặt trời tắt ngấm khỏi những ô cửa sổ phía Đông; toàn bộ căn điện chợt tối sầm như buổi đêm. Ngọn lửa tàn lụi thành những tro than ủ rũ. Chỉ còn nhìn thấy mình Gandalf đang đứng, ngời sáng và cao lớn trước cái bếp tối đen.

Trong bóng tối ảm đạm họ nghe thấy tiếng rít của Lưỡi Giun: “Chẳng phải thần đã khuyên người sao, thưa chúa công, là phải cấm cây gậy của hắn? Đồ ngu Háma đã phản bội chúng ta!” Một ánh chớp lóe lên như thể sét bổ đôi mái nhà. Rồi tất cả lại im lặng. Lưỡi Giun nằm úp mặt sõng soài.

“Giờ thì hỡi Théoden con trai Thengel ngài sẽ lắng nghe tôi chứ?” Gandalf nói. “Ngài có yêu cầu giúp đỡ không?” Ông giơ cây trượng chỉ vào một ô cửa sổ trên cao. Nơi đó bóng tối dường như quang đi, và xuyên qua khoảng mở, cao và xa, có thể thấy một mảng trời tỏa sáng. “Không phải tất cả đều tăm tối. Hãy can đảm lên, hỡi Chúa đất Mark; bởi ngài sẽ không tìm được sự giúp đỡ nào tốt hơn đâu. Tôi chẳng thể chỉ bày kẻ nào đang tuyệt vọng. Song tôi có thể chỉ bày ngài, có thể nói cho ngài nghe nhiều điều. Ngài sẽ nghe tôi chứ? Những lời ấy không phải tai nào cũng được nghe đâu. Tôi yêu cầu ngài hãy ra ngoài cửa mà nhìn thế giới bên ngoài. Ngài đã ngồi trong bóng tối quá lâu, đã tin những câu chuvện thối nát và những lời xúi giục đê tiện quá lâu rồi.”

Théoden chậm rãi rời ngai. Ánh sáng mờ ảo lại hửng lên trong điện. Người con gái vội vã đến bên nhà vua, đỡ lấy tay ông, và bằng những bước đi loạng choạng ông già đi xuống bệ rồi nhẹ bước ngang qua điện. Lưỡi Giun vẫn nằm lại dưới sàn. Họ đến bên cửa rồi Gandalf gõ lên đó.

“Mở ra!” ông thét. “Chúa đất Mark tiến bước!”

Những cánh cửa được mở ra và không khí trong trẻo vi vút ùa vào. Một cơn gió đang thổi qua ngọn đồi.

“Hãy cử lính gác xuống chân cầu thang,” Gandalf nói. “Và nàng, thưa tiểu thư, hãy để ngài lại với tôi một lát. Tôi sẽ lo cho ngài.”

“Đi đi, Éowyn con gái em ta!” Vị vua già nói. “Quãng thời gian sợ hãi đã qua rồi.”

Người con gái quay đi và chậm rãi trở vào ngôi nhà. Lúc bước qua ngưỡng cửa nàng quay người nhìn lại. Ánh mắt nàng nghiêm trang và tư lự, khi nàng nhìn nhà vua với vẻ trắc ẩn điềm đạm trong mắt. Khuôn mặt nàng rất đẹp, mái tóc dài buông xuống như dòng sông vàng. Nàng thật mảnh mai và cao ráo trong chiếc áo choàng trắng thắt đai bạc; nhưng nàng có vẻ mạnh mẽ và cứng cỏi như sắt thép, đúng như một người con gái những vì vua chúa. Và đó là lần đầu tiên dưới ánh sáng ban ngày Aragorn chiêm ngưỡng Éowyn, Công Chúa Rohan, và thấy nàng rất đẹp, đẹp và lạnh lùng, như một buổi sáng chớm xuân vẫn chưa hẳn trở thành phụ nữ. Và giờ đây nàng bất chợt nhận thấy chàng: người kế vị vương quyền cao lớn, thông thái vì bao mùa đông đã qua, choàng áo xám, nhưng sức mạnh ẩn giấu bên trong nàng vẫn cảm nhận được. Nàng đứng ngây như đá trong phút chốc, rồi thoắt đã quay người bỏ đi.

“Giờ thì thưa đức vua,” Gandalf nói, “hãy nhìn khắp vùng đất của ngài! Hãy lại hít thở bầu không khí tự do!”

Từ cổng vòm trên đỉnh sân hiên cao họ nhìn thấy phía bên kia dòng nước những cánh đồng xanh biếc đất Rohan trải ngút tận phía xa mờ xám. Những tấm màn mưa cuốn theo gió rơi xiên xuống. Bầu trời trên đầu về phía Tây vẫn tối sầm vì sấm giông, và ánh chớp đằng xa lóe lên giữa những đỉnh đồi bị che phủ. Nhưng gió đã đổi chiều từ phía Bắc, còn cơn bão thổi tới từ miền Đông cũng đã bắt đầu lùi xa, cuốn về phía Nam ra biển. Đột nhiên xuyên qua vết rách trên tầng mây phía sau họ một cột nắng đâm xuống. Những giọt mưa rơi lóe lên như ánh bạc, và ở tít phía xa dòng sông tỏa sáng như mặt gương lấp lánh.

“Ở đây không tối lắm,” Théoden nói.

“Không,” Gandalf nói. “Cũng như tuổi tác không đè nặng lên vai ngài như có kẻ muốn ngài nghĩ vậy. Hãy vứt nạng đi!”

Từ tay nhà vua cây gậy đen đúa rơi xuống nền đá kêu lách cách. Ông vươn thẳng người lên, chậm rãi, như một người xương cốt cứng đờ vì phải gập người quá lâu làm một công việc mệt nhọc đờ đẫn. Giờ ông đứng thẳng và cao lớn, và cặp mắt ông xanh biếc nhìn lên bầu trời rộng mở.

“Gần đây những giấc mơ của tôi thật đen tối,” ông nói, “nhưng giờ tôi có cảm giác như người vừa thức tỉnh. Tôi ước như ông đã đến sớm hơn, Gandalf. Bởi tôi sợ rằng ông đến lần này quá muộn, chỉ để chứng kiến những ngày cuối cùng của nhà tôi. Giờ cung điện cao mà Brego con trai Eorl dựng lên chẳng còn trụ được lâu nữa. Lửa sẽ ngốn lấy chiếc ngai tôn quý. Phải làm gì đây?”

“Nhiều đấy,” Gandalf nói. “Nhưng trước tiên hay triệu Éomer tới. Tôi đoán có đúng không, rằng ngài đã cho bắt anh ấy, theo lời cố vấn của Gríma, kẻ mà tất cả trừ ngài đều đặt cho cái tên Lưỡi Giun?”

“Đúng vậy,” Théoden nói. “‘Nó đã chống lại mệnh lệnh của tôi, và dọa giết Gríma ngay trong điện.”

“Một người có thể yêu quý ngài mà vẫn không yêu quý Lưỡi Giun hay lời cố vấn của hắn,” Gandalf nói.

“Có lẽ vậy. Tôi sẽ làm như ông yêu cầu. Hãy gọi Háma cho ta. Vì anh ta đã tỏ ra không đáng tin trong vai giám môn, vậy hãy để anh ta làm người chạy việc. Hãy để kẻ có tội dẫn kẻ có tội tới xét xử,” Théoden nói, giọng ông đanh thép, song ông nhìn Gandalf mỉm cười và khi ông làm vậy bao nếp nhăn lo âu bỗng chốc mờ đi không hằn trở lại nữa.

Sau khi Háma đuợc triệu đến và phái đi, Gandalf dẫn Théoden đến một bên bệ đá, và ngồi trước mặt nhà vua trên bậc thang cao nhất. Aragorn và các bạn đồng hành đứng bên cạnh.

“Không có thời gian để kể tất cả những gì ngài nên nghe,” Gandalf nói. “Song nếu hy vọng của tôi không bị lừa gạt, chẳng mấy nữa sẽ đến lúc tôi có thể kể đầy đủ hơn. Hãy chú ý! Ngài đang đứng trước một hiểm họa thậm chí còn lớn hơn cả những gì Lưỡi Giun có thể len lỏi đưa vào những giấc mơ của ngài. Nhưng hãy xem! Ngài không còn nằm mơ nữa. Ngài đang sống. Gondor và Rohan không đứng một mình. Kẻ thù còn mạnh hơn cả ước đoán của chúng ta, song chúng ta có một hy vọng mà hắn vẫn chưa đoán được.”

Lúc này Gandalf bắt đầu nói thật nhanh. Giọng ông trầm và kín đáo, và chẳng một ai ngoại trừ nhà vua nghe thấy những gì ông nói. Thế nhưng càng nghe đôi mắt Théoden càng rực sáng, rồi cuối cùng ông vươn người khỏi ghế đứng dậy vươn thẳng người, Gandalf đứng bên ông, và cùng nhau họ dõi mắt từ đỉnh đồi nhìn về phương Đông.

“Quả vậy,” Gandalf nói, giờ bằng một giọng sang sảng thiết tha và trong trẻo, “hy vọng của chúng ta nằm về ngả đó, cũng là nơi nỗi sợ hãi lớn nhất của chúng ta ngự trị. Định mệnh vẫn còn treo lơ lửng trên dây. Song vẫn còn hy vọng, chỉ cần chúng ta đứng vững không bị khuất phục thêm ít lâu nữa.”

Những người khác giờ cũng hướng mắt về phía Đông. Qua những lý dài chia cắt đôi phương, họ nhìn đến tít xa nơi tận cùng tầm mắt, nhưng hy vọng lẫn sợ hãi đưa tâm trí họ vượt xa hơn nữa, qua dãy núi đen thẳm đến Vùng Đất Bóng Tối. Người Mang Nhẫn giờ nơi đâu? Sợi dây vẫn đang treo định mệnh mới mong manh làm sao! Đối với Legolas, khi chàng căng cặp mắt giỏi nhìn xa, dường như chàng nhận thấy một tia sáng trắng: ánh mặt trời có lẽ vừa lấp lánh trên đỉnh tòa Tháp Canh xa tít tắp. Và xa hơn nữa, nơi xa xôi bất tận song lại là hiểm họa cận kề, có một lưỡi lửa bé xíu.

Théoden lại chậm rãi ngồi xuống, như thể nỗi mệt mỏi vẫn đang cố chiếm lấy ông bất kể ý chí của Gandalf. Ông quay lại nhìn tòa nhà to lớn của mình. “Than ôi!” ông nói, “những ngày xấu xa nay lại đến với tôi, lại đến trong tuổi già của tôi thay vì sự bình yên mà tôi xứng đáng có được. Thương thay Boromir dũng cảm! Lá xanh rụng xuống còn lá vàng vẫn ở trên cây mà khô héo.” Đôi bàn tay nhăn nheo của ông nắm chặt đầu gối.

“Những ngón tay ngài sẽ nhớ lại sức mạnh của chúng khi xưa, nếu được nắm vào chuôi kiếm.” Gandalf nói.

Théoden dứng dậy đưa tay sang hông; nhưng chẳng có thanh kiếm nào gài vào thắt lưng. “Gríma để nó ở đâu rồi?” ông thì thầm rất khẽ.

“Hãy cầm thanh này, thưa chúa thượng thân yêu!” một giọng nói trong trẻo cất lên. “Nó luôn phục vụ người.” Hai người đàn ông vừa lặng lẽ đi lên cầu thang và chỉ còn cách đầu thang vài bậc. Éomer đứng đó. Không có mũ trụ trên đầu anh, không có áo giáp trên ngực anh, nhưng anh lại cầm trong tay một thanh kiếm trần; và vừa quỳ xuống anh vừa dâng chuôi kiếm cho chủ nhân mình.

“Tai sao lại thế này?” Théoden nghiêm mặt nói. Ông quay về phía Éomer, khiến cả hai người đều kinh ngạc nhìn ông, giờ đang đứng kiêu hãnh và rắn rỏi. Lão già họ từng thấy gù người trên ngai hoặc tì vào gậy chống đâu rồi?

“Đó là lỗi của thần, thưa chúa công,” Háma run sợ nói. “Thần hiểu rằng Éomer sắp được thả tự do. Nỗi hân hoan dâng trào trong tim nên có lẽ thần đã sai lầm. Song, vì ngài đã được tự do, và ngài là một Thống Chế đất Mark, vậy nên thần đã đưa kiếm theo mệnh mệnh của ngài.”

“Để đặt dưới chân người, thưa chúa thượng,” Éomer nói.

Trong phút chốc im lặng Théoden đứng nhìn xuống Éomer trong khi anh vẫn quỳ trước mặt. Cả hai đều không cử động.

“Ngài không định cầm lấy thanh kiếm ư?” Gandalf nói.

Chậm rãi Théoden đưa tay ra. Ngay khi những ngón tay ông chạm vào chuôi kiếm, dường như tất cả những người xung quanh đều nhận thấy sự rắn rỏi và sức mạnh đã trở về với cánh tay gầy guộc của ông. Đột nhiên ông giơ thanh kiếm lên múa một đường xé gió loang loáng trên không. Rồi ông thét lớn. Giọng ông ngân vang khi ca bài hội quân bằng tiếng Rohan.

Vùng lên đi, vùng lên, những Kỵ Sĩ của Théoden!

Những sự hung tàn đang trở dậy, đằng Đông đang tối sầm.

Ngựa hãy thắng cương, tù và hãy ngân vang!

Tiến lên Eorlingas!

Toán cận vệ, ngỡ mình được hiệu triệu, lao lên cầu thang. Họ sửng sốt nhìn vị chúa của mình, rồi nhất tề như một họ rút kiếm đặt xuống chân ông. “Hãy ra lệnh cho chúng thần!” họ nói.

“Westu Théoden hál!” Éomer thét lớn. “Quả là một niềm hân hoan đối với chúng thần được thấy người trở lại là chính mình. Sẽ không bao giờ có ai còn nói, Gandalf, rằng ông chỉ mang đến buồn đau!”

“Hãy lấy lại kiếm của ngươi. Éomer con trai em gái ta!” nhà vua nói. “Đi đi, Háma, và hãy tìm thanh kiếm của ta! Gríma đang cất giữ nó. Mang cả hắn đến đây nữa. Giờ, Gandalf, ông nói ông có lời khuyên cho tôi, nếu tôi muốn nghe. Lời khuyên của ông là gì vậy?”

“Ngài đã tự tiếp nhận lời khuyên ấy rồi đấy,” Gandalf trả lời. “Là hãy đặt lòng tin vào Éomer, thay vì vào một kẻ tâm địa quanh co. Hãy quẳng sang một bên hối tiếc và sợ hãi. Và làm những việc phải làm ngay. Bất cứ ai cưỡi ngựa được cần cử sang phía Tây ngay lập tức, như Éomer đã khuyên ngài: trước tiên chúng ta phải đập tan sự đe dọa từ phía Saruman, trong lúc vẫn còn thời gian. Nếu thất bại, chúng ta sẽ sụp đổ. Nếu thành công - chúng ta sẽ phải đương đầu với nhiệm vụ tiếp theo. Trong lúc đó những người còn lại, phụ nữ, trẻ em và người già, cần phải di tán đến nơi trú ẩn của ngài trong dãy núi. Chẳng lẽ họ lại chưa chuẩn bị cho một ngày ác hại như thế này? Hãy khiến họ mang theo đồ dự trữ, nhưng đừng trì hoãn, và đừng làm nặng gánh bản thân bằng của cải châu báu, dù nhiều hay ít. Chính mạng sống của họ mới là thứ đang bị de dọa.”

“Lời khuyên này có vẻ hữu ích cho tôi,” Théoden nói. “Người của ta hãy chuẩn bị sẵn sàng! Nhưng còn những vị khách các ông - ông đã nói đúng, Gandalf, rằng lòng hiếu khách trong cung điện tôi đã kém đi. Các ông đã phi ngựa suốt đêm, con buổi sáng thì đang trôi qua. Các ông chưa được ngủ và cũng chưa được ăn. Một căn nhà cho khách sẽ được chuẩn bị: các ông sẽ ngủ ở đó sau khi đã dùng bữa.”

“Không, thưa bệ hạ,” Aragorn nói. “Những người mệt mỏi vẫn chưa thể nghỉ ngơi. Người Rohan phải lên đường ngay hôm nay, và chúng tôi sẽ đi cùng họ, cả rìu, kiếm, và cung tên. Chúng tôi không mang vũ khí đến chỉ để dựng lên tường nhà ngài, thưa Chúa đất Mark. Và tôi đã hứa với Éomer rằng kiếm của tôi và anh ấy sẽ được tuốt ra bên nhau.”

“Vậy là có hy vọng chiến thắng rồi!” Éomer nói.

“Hy vọng, đúng vậy,” Gandalf nói. “Thế nhưng Isengard rất mạnh. Và những mối họa khác đang tiến đến mỗi lúc một gần. Xin đừng trì hoãn, Théoden, sau khi chúng tôi đã đi khỏi. Hãy nhanh chóng dẫn người của ngài đến Cứ Điểm Dunharg trong vùng đồi!”

“‘Không đâu, Gandalf!” Nhà vua nói. “Ông còn không hiểu được chính kỹ năng chữa thương của mình. Không cần sắp xếp như vậy. Đích thân tôi sẽ tham chiến, sẽ ngã xuống trên đầu trận chiến, nếu buộc phải như vậy. Có vậy tôi mới có thể ngủ ngon được.”

“Vậy thì ngay cả cuộc thất bại của Rohan cũng sẽ vinh quang trong những bài ca,” Aragorn nói. Đội lính vũ trang đứng cạnh đó chạm vũ khí vào nhau, thét lớn: “Chúa đất Mark sẽ xuất trận! Tiến lên Eorlingas!”

“Nhưng không thể để người của ngài vừa không được vũ trang vừa không được bảo vệ,” Gandalf nói. “Ai sẽ dẫn dắt họ và cai quản họ thay ngài?”

“Tôi sẽ tính chuyện đó trước khi lên đường,” Théoden trả lời. “Cố vấn của tôi đến rồi đây.”

Ngay lúc đó Háma từ trong cung điện đã lại đi ra. Đằng sau anh, khúm núm giữa hai người khác nữa, là Gríma Lưỡi Giun. Mặt hắn trắng bệch, mắt hắn chớp chớp trong ánh mặt trời. Háma quỳ xuống dâng lên Théoden một thanh kiếm dài trong bao vàng đính ngọc xanh.

“Đây, thưa chúa công, là Herugrim, thanh kiếm cổ của người,” anh ta nói. “Nó được tìm thấy trong rương hắn. Hắn bất đắc dĩ lắm mới nộp lại chìa khóa. Ở đó còn có cả những thứ nhiều người đã đánh mất.”

“Ngươi nói láo,” Lưỡi Giun nói. “Và thanh kiếm này là do đích thân chủ nhân ngươi đưa cho ta cất giữ.”

“Và giờ chủ nhân yêu cầu lấy lại nó từ ngươi,” Théoden nói. “Điều đó khiến người không hài lòng ư?”

“Hoàn toàn không, thưa chúa công,” Lưỡi Giun nói. “Thần lo cho người và những gì thuộc về người chu đáo nhất có thể. Thế nhưng đừng tự làm nhọc thân người, hay chất quá nặng lên sức lực của người. Hãy để người khác đối phó với những tên khách khó chịu này. Thức ăn của người sắp được bày lên bàn rồi. Người sẽ đến ăn chứ?”

“Ta sẽ đến,” Théoden nói. “Và hãy bày thức ăn cho cả những vị khách ngồi bên ta nữa. Đạo quân sẽ lên đường ngay hôm nay. Hãy cử những người đưa tin đi trước! Để họ hiệu triệu tất cả những ai sinh sống gần đây! Mọi đàn ông và con trai khỏe mạnh biết cầm vũ khí, tất cả những ai có ngựa, hãy yêu cầu họ sẵn sàng trên yên ngựa trước cổng vào giờ thứ hai sau chính ngọ!”

“Chúa thượng kính yêu!” Lưỡi Giun hét lên. “Đúng như điều thần sợ hãi. Tay phù thủy này đã bỏ bùa người. Sẽ chẳng còn ai ở lại để bảo vệ Cung Điện Vàng của cha ông người, và toàn bộ của cải của người sao? Sẽ chẳng có ai bảo vệ Chúa đất Mark sao?”

“Nếu đây là bùa mê,” Théoden nói, “thì ta thấy nó còn lành mạnh hơn cả những lời thì thầm của ngươi. Chạy chữa kiểu lang băm nhà ngươi chẳng mấy chốc sẽ khiến ta bò tứ chi như con vật. Không, sẽ không một ai được ở lại hết, kể cả Gríma. Gríma cũng sẽ lên đường. Đi đi! Ngươi vẫn còn thời gian để đánh gỉ kiếm của ngươi đấy.”

“Hãy khoan dung, thưa chúa công!” Lưỡi Giun khóc lóc, lăn lộn dưới thềm. “Hãy thương xót kẻ đã kiệt sức vì phục vụ người. Xin đừng bắt thần xa cách người! Ít ra vẫn còn có thần đứng bên người khi tất cả những người khác đã bỏ di. Xin đừng bắt Gríma trung thành của người phải ra đi!”

“Ngươi đã khiến ta động lòng thương xót,” Théoden nói. “Và ta không bắt ngươi xa cách ta đâu. Đích thân ta sẽ tham chiến cùng quân lính. Ta lệnh cho ngươi phải đi cùng ta và chứng minh lòng trung thành của ngươi.”

Lưỡi Giun nhìn từng khuôn mặt. Ánh mắt hắn là ánh mắt con thú bị săn đang kiếm tìm quãng hở giữa vòng vây kẻ thù. Hắn liếm môi bằng cái lưỡi dài tái nhợt. “Lòng quyết tâm như vậy là rất xứng đáng ở vị chúa thuộc Gia Tộc Eorl, dù người đã già,” hắn nói. “Thế nhưng những ai thực sự yêu quý người hẳn sẽ chẳng nỡ ép uổng khi người tuổi cao sức yếu. Song thần thấy là thần đã đến quá muộn. Những kẻ khác, những kẻ chắc sẽ ít đau đớn hơn trước cái chết của chúa công thần, thuyết phục được người. Nếu thần không thể cản được việc làm của chúng, ít nhất hãy lắng nghe điều này, thưa chúa thượng! Hãy để kẻ nào hiểu được ý nghĩ của người và tôn kính mệnh lệnh của người ở lại Edoras. Hãy bổ nhiệm một người quốc quản trung thành. Hãy để cố vấn Gríma của người trông nom mọi thứ cho đến ngày người trở lại - và thần cầu mong chúng ta sẽ được chứng kiến ngày đó, cho dù chẳng ai thông thái lại thấy có nhiều hy vọng.”

Éomer cười phá lên. “Và nếu lời thỉnh cầu đó không thể giúp ngươi tránh khỏi cuộc chiến, hỡi Lưỡi Giun cao quý,” anh nói, “chức vụ kém vinh dự nào ngươi có thể chấp nhận đây? Mang bao tải bột vào trong núi ư - nếu còn có bất cứ ai tin tưởng giao cho ngươi việc đó?”

“Không đâu, Éomer, anh không hiếu hết ý của cậu Lưỡi Giun rồi,” Gandalf vừa nói vừa hướng cái nhìn sắc lẹm xuyên thấu hắn. “Hắn rất trơ trẽn và xảo quyệt. Ngay lúc này đây hắn vẫn đang chơi trò mạo hiểm và vừa thắng một keo rồi. Hàng giờ quý giá của tôi đã bị phí hoài vì hắn. Nằm xuống, đồ rắn độc!” đột nhiên ông gầm lên khủng khiếp. “Nằm xuống mà bò bằng bụng! Saruman mua chuộc ngươi từ bao lâu rồi? Cái giá đã hứa là gì vậy? Khi tất cả quân sĩ chết hết, ngươi sẽ được chọn phần chia của cải, và cướp lấy người phụ nữ ngươi khao khát phải không? Ngươi đã theo dõi nàng dưới hàng mí sụp và ám ảnh những bước đi của nàng lâu quá rồi đấy.”

Éomer nắm lấy thanh kiếm. “Tôi đã biết từ lâu rồi,” anh lầm bầm. “Chỉ cần lý do đó tôi đã có thể giết chết hắn rồi, mặc kệ luật lệ trong cung điện. Thế nhưng còn có những lý do khác nữa.” Anh bước lên một bước, nhưng Gandalf đưa tay giữ anh lại.

“Giờ Éowyn an toàn rồi,” ông nói. “Nhưng ngươi, Luỡi Giun, ngươi đã làm hết những gì có thể cho chủ nhân thực sự của ngươi. Ít nhất ngươi cũng đã xứng đáng với phần thưởng nào đó. Song Saruman ít khi lưu ý đến những giao kèo. Ta khuyên ngươi nên nhanh chóng đi khỏi đây và nhắc nhở ông ta, kẻo ông ta sắp quên mất công trạng trung thành của ngươi rồi đấy.”

“Ngươi nói láo,” Lưỡi Giun nói.

“Chữ đó phát ra quá thường xuyên và dễ dãi từ miệng ngươi,” Gandalf nói. “Ta không bao giờ nói láo. Thấy chưa Théoden, đây là một con rắn độc! Nếu muốn an toàn ngài không thể mang nó theo, cũng không thể để nó lại nhà. Giết nó hẳn là cũng đáng. Nhưng không phải lúc nào nó cũng như thế này. Nó đã từng là con người, và đã phục vụ ngài theo cách của nỏ. Hãy cho hắn một con ngựa và để hắn đi ngay lập tức, đến bất cứ nơi nào hắn chọn. Ngài sẽ phán xét hắn qua chính lựa chọn của hắn.”

“Ngươi đã nghe thấy chưa, Lưỡi Giun?” Théoden nói. “Đây là lựa chọn dành cho ngươi: tham chiến cùng ta, để chúng ta thấy trên chiến trường ngươi có thực tâm hay chăng; hay đi ngay bây giờ, đến bất cứ nơi nào ngươi muốn. Nhưng sau đó, nếu chúng ta có gặp lại, ta sẽ không khoan dung đâu.”

Lưỡi Giun chậm rãi đứng lên. Hắn nhìn họ bằng cặp mắt nhắm hờ. Cuối cùng hắn nhìn sang khuôn mặt Théoden và mở miệng ra như thể định nói gì. Rồi đột nhiên hắn vùng dậy. Tay hắn vung lên. Mắt hắn rực sáng. Dã tâm bùng lên trong mắt hắn khiến mọi người phải lùi bước tránh xa. Hắn nhe răng; rồi khịt một tiếng lớn hắn nhổ xuống trước chân nhà vua, và lao sang một bên, hắn chạy xuống cầu thang.

“Theo hắn!” Théoden nói. “Hãy đảm bảo hắn không làm hại bất cứ ai, nhưng đừng đánh đập hắn hay ngăn cản hắn. Cho hắn một con ngựa, nếu hắn muốn.”

“Và nếu có con nào chịu mang hắn,” Éomer nói.

Một người trong toán cận vệ chạy xuống cầu thang. Một người khác đi đến giếng dưới chân sân hiên rồi lấy mũ trụ múc nước. Dùng nước đó anh ta rửa sạch khoảng sân đá đã bị Lưỡi Giun vấy bẩn.

“Giờ thì những vị khách của ta, đi nào!” Théoden nói. “Hãy đi ăn uống và nghỉ ngơi trong lúc nhiệm vụ gấp gáp của chúng ta còn cho phép.”

Họ lại trở vào tòa nhà lớn. Ở khu dân cư bên dưới đã vang lên tiếng những người đưa tin hô lớn và tiếng tù và chiến trận nổi lên. Bởi nhà vua sẽ lên đường ngay khi trai tráng thành đô và những người sinh sống xung quanh đó được vũ trang và tập hợp.

Éomer và bốn vị khách ngồi bên chiếc bàn dài của nhà vua, và ở đó, đứng hầu nhà vua, còn có cả công chúa Éowyn. Họ ăn và uống rất nhanh. Những người khác đều im lặng trong khi Théoden hỏi Gandalf những điều liên quan đến Saruman.

“Ai có thể biết được sự phản trắc của ông ta đã manh nha từ khi nào?” Gandalf nói. “Ông ta không phải lúc nào cũng tà ác. Tôi không nghi ngờ gì việc ông ta một thời là bạn của Rohan; và ngay cả khi trái tim ông ta dần trở nên lạnh giá, ông ta vẫn thấy ngài có ích. Thế nhưng ông ta đã âm mưu gây sự sụp đổ của ngài từ lâu, dưới cái mặt nạ tình bạn, cho đến khi ông ta sẵn sàng. Trong những năm ấy nhiệm vu của Lưỡi Giun khá dễ dàng, và tất cả những gì ngài làm Isengard đều biết nhanh chóng; bởi đất của ngài vẫn rộng mở, và người lạ cứ thế đến rồi đi. Còn Lưỡi Giun thì lúc nào cũng thì thầm vào tai ngài, đầu độc tâm tư ngài, làm băng giá trái tim ngài, làm suy yếu chân tay ngài, trong khi những người khác chỉ biết nhìn mà chẳng thể làm gì, bởi ý chí của ngài đã nằm trong tay hắn.

“Nhưng đến khi tôi trốn thoát được và cảnh báo ngài, cái mặt nạ đã bị lột trần, đối với những người thấy được. Sau đó Lưỡi Giun bắt đầu hành động nguy hiểm, lúc nào cùng tìm cách trì hoãn ngài, ngăn cản ngài tập trung đầy đủ sức mạnh. Hắn vô cùng xảo quyệt: khi làm mòn sự cảnh giác của con người, khi kích thêm sự sợ hãi của họ, tùy theo hoàn cảnh. Ngài không nhớ là hắn đã hăng hái thúc giục không trừ một ai tham gia cuộc truy đuổi vô ích lên phía Bắc, trong khi hiểm họa cận kề lại ở phía Tây ư? Hắn đã thuyết phục ngài cấm Éomer đuổi theo lũ Orc cướp bóc. Nếu không phải Éomer đã bất tuân lời của Lưỡi Giun nói ra từ miệng ngài, thì chắc hẳn lũ Orc đó giờ đã đến được Isengard, mang theo một chiến lợi phẩm giá trị. Quả thực đó không phải chiến lợi phẩm mà Saruman khao khát hơn tất thảy những thứ khác, nhưng ít nhất đó cũng là hai thành viên trong Hội Đồng Hành của tôi, những người cùng mang một niềm hy vọng bí mật, mà ngay cả với ngài, thưa bệ hạ, tôi cũng không thế tiết lộ được. Ngài có dám nghĩ tới những thứ mà lẽ ra giờ họ đang phải chịu đựng không, hay điều mà lẽ ra Saruman giờ đã biết được hòng khiến cho chúng ta sụp đổ?”

“Tôi nợ Éomer rất nhiều,” Théoden nói. “Trái tim trung thành vẫn thường mang miệng lưỡi ngang ngạnh.”

“Cũng có thể nói,” Gandalf nói, “trước con mắt không ngay thẳng sự thật luôn mang một bộ mặt nhăn nhó.”

“Thực sự là đôi mắt tôi đã gần như mù lòa,” Théoden nói. “Vì tôi nợ ông nhiều hơn tất thảy, hỡi vị khách quý của tôi. Một lần nữa ông lại đến đúng lúc. Tôi sẽ tặng ông một món quà trước khi chúng ta lên đường, tùy ông chọn, ông chỉ cần kể ra bất cứ thứ gì thuộc về tôi. Giờ tôi chỉ giữ lại duy nhất thanh kiếm của mình!”

“Vẫn chưa thể nói tôi đã đến đúng lúc hay không,” Gandalf nói. “Thế nhưng về món quà của ngài, thưa bệ hạ, tôi sẽ chọn lấy thứ đang rất cần cho nhu cầu của tôi: nhanh chóng và chắc chắn. Hãy tặng Scadufax cho tôi! Trước đây tôi mới chỉ mượn nó, nếu có thể gọi đấy là vay mượn. Nhưng giờ tôi sẽ cuỡi nó xông vào những hiểm nguy khôn cùng, lấy bạc đánh lại đen: tôi không dám liều bất cứ thứ gì không phải của tôi. Và hơn nữa giữa chúng tôi có một mối tình thâm.”

“Ông chọn hay lắm.” Théoden nói; “và giờ tôi sẵn lòng trao nó. Song đó là mộ