← Quay lại trang sách

Chương II ĐOÀN ÁO XÁM KÉO QUÂN

Gandalf đã đi rồi, và tiếng vó ngựa thậm thịch của Scadufax đã biến mất vào bóng đêm, khi Merry trở lại bên Aragorn. Cậu chỉ mang một bọc nhẹ, vì đồ đạc đã đánh mất ở thảm cỏ Parth Galen, và tất cả những gì cậu có là một ít đồ hữu dụng nhặt nhạnh được trong đống đổ nát Isengard. Hasufel đã thắng yên. Legolas và Gimli dắt ngựa đứng gần đó.

“Vậy là Hội Đồng Hành vẫn còn lại bốn người,” Aragorn nói. “Chúng ta sẽ xuất phát cùng nhau. Nhưng chúng ta sẽ không đi một mình như lúc trước tôi tưởng. Giờ đức vua quyết định khởi hành ngay lập tức. Từ khi cái bóng có cánh bay qua, ngài muốn trở lại vùng đồi trong sự bao bọc của màn đêm.”

“Và rồi đi đâu?” Legolas hỏi.

“Tôi chưa thể biết được,” Aragorn đáp. “Về phần đức vua, ngài sẽ tới bãi hội quân ngài đã triệu tập tại Edoras, bốn đêm nữa kể từ bây giờ. Và ở đó, tôi nghĩ ngài sẽ lắng nghe tin tức về chiến tranh, và những Kỵ Sĩ Rohan sẽ xuống Minas Tirith. Nhưng còn tôi, và bất cứ ai muốn đi cùng tôi...”

“Tôi sẽ đi cùng anh!” Legolas kêu lên. “Và cả Gimli nữa!” gã Người Lùn nói.

“Thế đấy, còn tôi,” Aragorn nói, “đường tôi sẽ qua tối tăm định sẵn. Tôi cũng phải đi xuống Minas Tirith, nhưng tôi còn chưa nhìn ra đường nào. Đã đến một thời điểm được chuẩn bị từ lâu.”

“Đừng bỏ tôi ở lại đằng sau!” Merry kêu lên. “Tôi vẫn chưa làm được gì nhiều; nhưng tôi không muốn bị quẳng sang một bên, giống như bịch hành lý chỉ được nhớ tới khi tất cả đã xong xuôi. Tôi không nghĩ các Kỵ Sĩ sẽ muốn vướng tay với tôi lúc này. Mặc dù, dĩ nhiên, đức vua có nói muốn tôi đến ngồi cạnh ngài khi ngài trở về nhà và kể cho ngài nghe về Quận.”

“Phải,” Aragorn nói. “Và tôi nghĩ con đường của cậu là ở bên ngài, Merry ạ. Nhưng đừng trông đợi sẽ có niềm vui đợi ở cuối đường. Tôi e sẽ còn lâu nữa Théoden mới được thanh thản ngồi xuống ở Meduseld. Nhiều niềm hy vọng sẽ lụi tàn trong mùa Xuân cay đắng này.”

Không lâu sau mọi người đã sẵn sàng lên đường: hai mươi tư con ngựa, Gimli ngồi đằng sau Legolas, và Merry ngồi trước Aragorn. Bấy giờ họ đang lao nhanh xuyên màn đêm. Họ vượt qua những nấm mồ tại Khúc Cạn sông Isen chưa được bao lâu thì một Kỵ Sĩ cho ngựa phi nước đại lên từ cuối hàng.

“Thưa chúa công,” anh ta nói với nhà vua, “có kỵ binh đuổi theo sau chúng ta. Khi chúng ta đang qua bãi cạn, thần đã nghĩ mình nghe thấy chúng. Giờ thì chắc chắn rồi. Chúng đang bắt kịp chúng ta, và lao tới rất nhanh.”

Théoden lập tức dừng ngựa. Đoàn Kỵ Sĩ quay lại siết chặt giáo. Aragorn xuống ngựa và đặt Merry xuống đất, rút kiếm đứng cạnh bàn đạp ngựa của nhà vua. Éomer và hầu cận đi về cuối hàng. Merry lại càng cảm thấy mình là bịch hành lý không ai cần đến, và tự hỏi nếu có trận đánh nổ ra, cậu nên làm gì? Giả sử như đội lính nhỏ của đức vua bị bao vây và đánh bại, riêng mình cậu trốn thoát được vào trong bóng tối - cô độc giữa những đồng cỏ hoang Rohan, không biết mình đang ở đâu trong hàng dặm bất tận này? “Không ổn!” cậu nghĩ thầm. Cậu rút kiếm ra và thắt chặt đai lưng lại.

Mặt trăng đang lặn khuất đằng sau một đám mây lớn vật vờ, nhưng đột nhiên lại ló ra quang đãng. Rồi tất cả đều nghe thấy tiếng vó ngựa, và cùng lúc ấy, họ thấy nhiều bóng đen vụt hiện ra trên con đường từ phía khúc cạn. Ánh trăng lấp lánh đây đó trên những ngọn giáo. Không thể đoán chắc số lượng đám người đuổi theo, nhưng có vẻ không ít hơn đội quân của nhà vua, ít nhất là thế.

Khi họ chỉ còn cách khoảng năm mươi bước, Éomer hô to: “Dừng lại! Dừng lại! Ai đang cưỡi ngựa qua Rohan?”

Những người đuổi theo đột ngột dừng ngựa. Im lặng nối tiếp, và rồi trong ánh trăng, người ta thấy một kỵ sĩ xuống ngựa đi chầm chậm về phía trước. Hiện ra bàn tay trắng đang đưa lên, lòng bàn tay chìa ra tỏ ý hòa bình; nhưng những người lính của nhà vua siết chặt vũ khí. Khi chỉ còn cách mười bước, người kia dừng lại. Anh ta rất cao, một bóng đen đang đứng. Rồi giọng nói trong trẻo vang lên.

“Rohan? Các anh nói Rohan phải không? Thật tốt quá. Từ xa, chúng tôi đang gấp gáp tìm vùng đất đó.”

“Các ngươi đã tìm thấy nó rồi,” Éomer nói. “Khi vượt qua khúc cạn đằng kia, các ngươi đã tiến vào Rohan. Nhưng đây là vương quốc của Đức Vua Théoden. Không ai cưỡi ngựa trên đất này mà không được người cho phép. Các ngươi là ai? Và tại sao các ngươi phải gấp gáp?”

“Halbarad Dúnadan, Tuần Du phương Bắc là tôi,” người kia thốt lên. “Chúng tôi tìm một người tên là Aragorn con trai Arathorn, và chúng tôi được tin anh ấy đang ở Rohan.”

“Và các anh cũng đã tìm được anh ta rồi!” Aragorn kêu lên. Trao cương ngựa cho Merry, chàng chạy về phía trước ôm chầm lấy người mới đến. “Halbarad!” chàng nói. “Trong tất cả tin vui có thể xảy ra, đây là điều tôi không ngờ nhất!”

Merry thở phào nhẹ nhõm. Cậu đã nghĩ đây là mánh khóe mới nhất của Saruman, phục kích đức vua trong khi ngài chỉ có vài người quanh mình; nhưng có vẻ không cần phải chết để bảo vệ Théoden, ít nhất lúc này thì chưa. Cậu tra kiếm vào vỏ.

“Tất cả đều tốt đẹp,” Aragorn nói và quay lại. “Đây là một vài người bà con của tôi ở miền đất xa xôi nơi tôi sống. Nhưng tại sao họ tới, và họ có bao nhiêu người, thì Halbarad sẽ nói với chúng ta.”

“Tôi mang ba mươi người theo,” Halbarad nói. “Đó là tất cả những người đồng tông mà tôi triệu tập được trong khi gấp gáp; nhưng hai anh em Elladan và Elrohir cũng đi cùng chúng tôi, sẵn lòng bước vào cuộc chiến. Chúng tôi phi tới đây nhanh hết sức mình khi nhận được lời triệu tập của anh.”

“Nhưng tôi đâu có triệu tập mọi người,” Aragorn nói, “chỉ trừ trong ao ước. Tôi thường nghĩ về các anh, và hiếm bao giờ nhiều như tối nay; nhưng tôi không gửi lời nào. Mà thôi! Mọi vấn đề ấy có thể đợi sau hãy nói. Các anh đã tìm đến khi chúng tôi đương lúc vội vàng và nguy hiểm. Giờ hãy đi cùng chúng tôi, nếu đức vua cho phép.”

Théoden thực sự vui mừng trước tin này. “Được thôi!” ông nói. “Nếu những người bà con của anh có chút nào giống như anh, vương tử Aragorn ạ, thì ba mươi kỵ sĩ là nguồn sức mạnh không thể đo đếm bằng số đầu người.”

* * *

Rồi đoàn Kỵ Sĩ lại lao đi, trong một lúc Aragorn đi cùng toán người Dúnedain; và khi họ đã nói chuyện xong về tình hình ở phương Bắc và phương Nam, Elrohir bảo chàng:

“Tôi chuyển lời từ cha tôi cho anh: Ngày tháng quá ngắn ngủi. Nếu con vội vã, hãy nhớ tới Lối Người Chết.”

“Ngày của tôi luôn quá ngắn ngủi để đạt được những điều tôi muốn,” Aragorn trả lời. “Nhưng đúng là phải vội vã lắm lắm tôi mới chọn lối đường đó.”

“Chúng ta sẽ sớm thấy thôi,” Elrohir nói. “Nhưng không nên nói thêm về những điều này trên đường rộng!”

Rồi Aragorn hỏi Halbarad: “Anh mang gì theo thế, người anh em?” Bởi chàng thấy thay vì mang theo giáo, Halbarad mang một cây sáo dài, giống như cán cờ nhưng lại được bọc kỹ trong vải đen buộc nhiều dây da.

“Đây là một món quà Tiểu Thư ở Thung Đáy Khe gửi tôi mang đến cho anh,” Halbarad trả lời. “Nàng đã làm nó trong bí mật, và làm rất lâu. Nhưng nàng cũng chuyển lời tới anh: Ngày tháng quá ngắn ngủi. Hoặc hy vọng của chúng ta sẽ tới, hoặc tất cả hy vọng đều kết thúc. Bởi vậy thiếp gửi tới chàng một vật thiếp đã làm cho chàng. Bảo trọng, hỡi Ngọc Tiên!”

Aragorn bèn đáp: “Giờ thì tôi biết anh mang gì theo rồi. Hãy giữ nó thay tôi thêm một thời gian nữa!” Và chàng quay đi, nhìn về phương Bắc dưới những vì sao lớn, và chàng im lặng, không nói gì thêm suốt phần còn lại của chuyến du hành trong đêm.

Đêm đã khuya và phương Đông xám xịt khi cuối cùng họ cũng đi lên khỏi Lòng Chảo Hẻm về đến Lũy Tù Và. Ở đó họ nằm nghỉ ngơi trong chốc lát và bàn bạc.

Merry ngủ cho tới khi bị Legolas và Gimli dựng dậy. “Mặt Trời lên cao rồi,” Legolas nói. “Mọi người khác đều đã dậy và đang chuẩn bị. Đi thôi, cậu Lười, và hãy nhìn ngắm nơi này trong khi còn có thể!”

“Ba đêm trước ở đây đã có một cuộc chiến,” Gimli nói. “Và ở đây, Legolas và ta đã chơi một trò chơi mà ta chỉ thắng hơn đối thủ có một tên Qrc thôi. Đi mà xem nơi này đã từng như thế nào! Và lại còn hang nữa, Merry ạ, những cái hang tuyệt vời! Chúng ta đi ngắm chúng đi, Legolas, anh nghĩ thế nào?”

“Không! Không có thời gian đâu,” chàng Tiên nói. “Đừng làm hỏng cả sự tuyệt vời bằng thói vội vàng! Tôi đã hứa là sẽ trở lại đây sau với anh rồi, nếu những ngày hòa bình và tự do lại tới. Nhưng giờ đã sắp tới trưa, tôi nghe nói lúc đó chúng ta sẽ ăn uống rồi lên đường.”

Merry dậy và ngáp dài. Giấc ngủ vài giờ còn lâu mới đủ cho cậu; cậu mệt mỏi và khá rầu rĩ. Cậu nhớ Pippin, và cảm thấy mình chỉ là gánh nặng, trong khi tất cả mọi ngươi đang làm mọi cách để thần tốc trong một chuyện mà cậu không hiểu hoàn toàn. “Aragorn đâu?” cậu hỏi.

“Trong một phòng cao trên Lũy,” Legolas nói. “Tôi nghĩ anh ấy chưa hề ngủ hay nghỉ ngơi gì cả. Anh ấy lên đó vài giờ trước, bảo có việc cần phải nghĩ ngợi, và chỉ có người họ hàng Halbarad đi cùng thôi; nhưng nỗi nghi ngờ hay phiền não tối tăm gì đó hình như trĩu nặng nơi anh ấy.”

“Những người mới đến này, họ là một toán lạ lùng,” Gimli nói. “Những Con Người rắn rỏi và quý phái, và các Kỵ Sĩ Rohan trông chỉ như là mấy cậu bé bên cạnh họ; bởi họ có gương mặt nghiêm nghị, hầu như ai cũng dạn dày như những tảng đá phong sương, cũng như chính Aragorn vậy; và họ im lặng.”

“Nhưng cũng như chính Aragorn, họ rất lịch thiệp, khi nào họ thôi im lặng,” Legolas nói. “Và anh có để ý hai anh em Elladan và Elrohir không? Trang bị của họ không sẫm màu bằng những người khác, họ thanh cao và phong nhã như những chúa Tiên; thật chẳng lấy gì làm lạ với các con trai Elrond ở Thung Đáy Khe.”

“Tại sao họ lại tới? Anh có biết không?” Merry hỏi. Giờ cậu đã mặc xong đồ, khoác áo choàng xám lên vai; và cả ba người cùng nhau đi qua cổng Lũy Tù Và đổ nát.

“Họ đáp lại lời triệu tập, như ngươi đã nghe đấy,” Gimli nói. “Tin tức tới Thung Đáy Khe, họ bảo vậy: Aragorn cần tới họ hàng mình. Hãy phái người Dúnedain tới chỗ anh ấy ở Rohan! Nhưng từ đâu họ nhận được tin này thì không rõ. Gandalf gửi tới, ta đoán vậy.”

“Không, là Galadriel đó,” Legolas nói. “Chẳng phải bà ấy đã chuyển lời qua Gandalf về Đoàn Áo Xám kéo quân về từ phương Bắc sao?”

“Ờ, anh nói đúng đấy,” Gimli nói. “Phu Nhân trong Rừng! Bà ấy đọc thấu vô số trái tim và khát vọng. Giờ thì sao chúng ta không mong được thấy một vài người đồng hương của chúng ta, hả Legolas?”

Legolas đứng trước cổng ngoảnh đôi mắt sáng về phía Bắc và phía Đông, gương mặt đẹp đẽ toát lên vẻ ưu sầu. “Tôi không nghĩ có ai sẽ tới,” chàng trả lời. “Họ không cần phải lên đường đến với chiến tranh; chiến tranh đã diễu trên đất của họ rồi.”

Ba người bạn đồng hành đi cùng nhau suốt một lúc, trò chuyện về những biến chuyển này kia của cuộc chiến, và họ rời khỏi cái cổng đổ nát, rồi đi xuống qua những nấm mồ của những người ngã xuống trên thảm cỏ dọc đường, cho tới khi họ đứng trên Hào Helm nhìn xuống Lòng Chảo. Đồi Chết sừng sững ngay đó, đen thẫm, cao và cứng như đá, và những vết giẫm đạp cháy xém trên cỏ do người Huorn để lại vẫn còn nhìn thấy rõ ràng. Lũ người Dunland và nhiều người đóng ở Lũy đang làm việc quanh Hào hoặc trên những cánh đồng và quanh bức tường bị tàn phá bên Hào; nhưng tất cả dường như yên tĩnh đến kỳ lạ: một thung lũng mỏi mệt đang nghỉ ngơi sau cơn bão dữ. Không lâu sau, họ quay lại và tới sảnh chính trong Lũy để ăn trưa.

Nhà vua đã ở đó, và ngay khi họ bước vào, ông đã cho vời Merry và chuẩn bị chỗ cho cậu ngồi bên mình. “Tiếp đãi thế này thật không được như ta muốn,” Théoden nói, “bởi nơi đây chẳng mấy giống cung điện đẹp đẽ của ta ở Edoras. Và bạn của ngươi đáng lẽ phải ở đây, thế mà cậu ấy đã đi xa. Nhưng có lẽ sẽ còn lâu chúng ta mới có dịp ngồi cùng nhau, ngươi và ta, bên bàn ăn cao trong Meduseld; cũng sẽ không có thời gian chè chén khi ta trở lại đó. Nên giờ thì nào! Ăn uống thôi, và chúng ta hãy trò chuyện khi còn có thể. Và rồi ngươi sẽ đi trong đoàn quân của ta.”

“Được vậy ư?” Merry hỏi, ngạc nhiên và vui sướng. “Vậy thì thật tuyệt vời!” Cậu chưa bao giờ được nghe lời tử tế nào khiến mình biết ơn hơn. “Tôi sợ tôi chỉ làm vướng chân mọi người,” cậu lúng túng, “nhưng ngài biết đấy, tôi rất muốn được làm bất cứ điều gì tôi có thể.”

“Ta không nghi ngờ điều đó,” nhà vua nói. “Ta đã chuẩn bị sẵn một con ngựa lùn vùng đồi cho ngươi. Nó sẽ chở ngươi cũng nhanh như bất cứ ngựa thường nào trên những con đường chúng ta sẽ đi. Vì ta sẽ rời Lũy bằng đường núi, không phải qua đồng bằng, và vì vậy tới Edoras theo đường đi qua Dunharg, nơi Công Chúa Éowyn đang đợi. Ngươi sẽ là hầu cận cho ta, nếu ngươi muốn. Nơi này có trang bị quân sự nào thích hợp cho kiếm đồng của ta không, Éomer?”

“Không có nhiều kho vũ khí tốt ở đây, thưa chúa thượng,” Éomer trả lời. “Có lẽ sẽ tìm được mũ sắt nhẹ vừa với cậu ấy; nhưng chúng ta không có áo giáp và kiếm phù hợp với vóc người cậu ấy.”

“Tôi có kiếm rồi,” Merry nói, trèo xuống khỏi ghế và rút thanh kiếm nhỏ và sáng ra khỏi bao kiếm đen. Đột nhiên trong lòng tràn ngập sự kính yêu với vị vua già, cậu quỳ một gối, nâng bàn tay ông lên hôn. “Tôi có thể đặt thanh kiếm của Meriadoc dân Quận vào lòng người không, Théoden Vương?” cậu kêu lên. “Xin hãy nhận sự phụng sự của tôi, nếu người vừa ý.”

“Ta rất vui lòng nhận lấy,” nhà vua nói; và đặt hai bàn tay thon dài già nua lên mái tóc nâu của anh chàng Hobbit ông ban phước cho cậu. “Hãy đứng dậy đi, Meriadoc, lính hầu cận đất Rohan thuộc đội gia binh Meduseld!” ông nói. “Hãy cầm lấy thanh kiếm và cầu cho phúc lành đến với nó!”

“Tôi sẽ coi người như cha mình,” Merry nói.

“Trong một thời gian ngắn,” Théoden nói.

Rồi tiếp đó họ vừa ăn vừa nói chuyện cùng nhau, cho tới khi Éomer lên tiếng. “Đã gần tới giờ chúng ta định khởi hành rồi, thưa chúa thượng,” chàng nói. “Thần sẽ sai người thổi tù và báo hiệu chứ? Nhưng Aragorn đâu rồi nhỉ? Ghế anh ấy vẫn bỏ trống, và anh ấy chưa ăn gì cả.”

“Chúng ta sẽ chuẩn bị sẵn sàng khởi hành,” Théoden nói, “nhưng hãy thông báo cho Vương tử Aragorn rằng đã tới giờ rồi.”

Nhà vua cùng với đội cận vệ và Merry bên cạnh từ cổng Lũy đi xuống tới nơi các Kỵ Sĩ đang tập hợp trên bãi cỏ. Nhiều người đã lên ngựa rồi. Đoàn quân xuất hành rất lớn; bởi nhà vua chỉ để lại một lượng binh lính nhỏ đóng quân ở Lũy, tất cả những người không nhiệm vụ đều đi tới cuộc khởi binh ở Edoras. Trên thực tế, một nghìn tay giáo đã ra đi ngay đêm trước; nhưng dù vậy, vẫn sẽ có thêm khoảng năm trăm đi cùng với nhà vua, hầu hết đều là người dân những cánh đồng và thung lũng Westfold.

Hơi cách xa hơn một chút, đoàn Tuần Du ngồi đó, yên lặng, theo đội hình trật tự, trang bị giáo, cung tên và kiếm. Họ khoác áo choàng xám thẫm, trùm mũ áo choàng qua đầu và mũ sắt. Ngựa của họ mạnh mẽ và dáng điệu kiêu hãnh, những bờm xù xì; và một con đứng đó không người cưỡi, con ngựa của Aragorn mà họ đã mang từ phương Bắc đến; tên nó là Roheryn. Không có đá hay vàng lấp lánh, hay bất cứ thứ trang sức gì khác trên trang bị và yên cương của họ; và người cưỡi cũng không đeo bất cứ huy hiệu hay biểu tượng nào, trừ việc mỗi chiếc áo choàng đều cài lại trên vai trái bằng chiếc ghim bạc hình ngôi sao nhiều tia sáng.

Nhà vua cưỡi lên Snawmana Tuyết Mao, và Merry bên cạnh ông trên con ngựa lùn: tên nó là Stybba. Ngay lúc đó Éomer ra khỏi cổng, bên cạnh chàng là Aragorn, và Halbarad mang theo cây sáo lớn cuộn chặt trong vải đen, và hai người cao ráo khác không già mà cũng không trẻ. Họ trông thật giống nhau, các con trai Elrond, giống tới nỗi ít người có thể phân biệt được họ: tóc sẫm màu, mắt xám, gương mặt mang vẻ thanh thoát của tộc tiên, họ mặc áo giáp sáng màu giống nhau dưới lớp áo choàng xám bạc. Legolas và Gimli đi đằng sau họ. Nhưng Merry chỉ dõi theo một mình Aragorn, và sự thay đổi đập vào mắt cậu thật đáng giật mình, cứ như thể chỉ trong một đêm, nhiều năm tháng đã trôi qua mái đầu chàng. Gương mặt chàng dữ tợn, u tối và mệt mỏi.

“Tâm trí tôi lo lắng, thưa bệ hạ,” chàng nói, đứng cạnh ngựa nhà vua. “Tôi đã nghe được những tin lạ lùng, và tôi thấy những mối hiểm họa mới ở cách xa. Tôi đã ngẫm nghĩ rất lâu, và giờ tôi e rằng mình phải thay đổi mục tiêu. Hãy nói cho tôi biết, Théoden, giờ ngài sẽ tới Dunharg, vậy phải mất bao lâu ngài mới tới được đó?”

“Đã một giờ sau chính ngọ,” Éomer nói. “Trước buổi đêm ngày thứ ba kể từ lúc này, chúng ta sẽ tới Cứ Điểm. Mặt Trăng sẽ ở vào thời điểm hai đêm sau khi tròn, và cuộc hội quân do đức vua chỉ huy sẽ được tổ chức vào hôm sau. Chúng ta không thể đi nhanh hơn thế, nếu muốn tập hợp đủ sức mạnh của Rohan.”

Aragorn im lặng trong khoảnh khắc. “Ba ngày,” chàng thì thầm, “mà cuộc hội quân Rohan sẽ chỉ mới bắt đầu. Nhưng tôi hiểu giờ thì không thể đẩy gấp nó lên.” Chàng ngước lên, và dường như chàng vừa lập quyết định, gương mặt bớt hẳn vẻ lo âu. “Vậy nếu ngài cho phép, thưa bệ hạ, tôi sẽ phải theo những dự định mới cho mình và họ hàng. Chúng tôi phải đi trên con đường riêng, và không giữ bí mật nữa. Với tôi, thời gian ẩn nấp đã qua rồi. Tôi sẽ đi về phương Đông theo con đường nhanh nhất, và tôi sẽ chọn Lối Người Chết.”

“Lối Người Chết!” Théoden kêu lên, và run sợ. “Tại sao anh lại nhắc đến nó?” Éomer quay sang sửng sốt nhìn Aragorn, và Merry thấy dường như gương mặt các Kỵ Sĩ ngồi trong tầm nghe đều trắng bệch vì những từ này. “Nếu đúng là có lối đi đó,” Théoden nói, “thì cánh cổng dẫn vào nằm ở Dunharg; nhưng không người sống nào có thể qua cổng đó.”

“Than ôi! Aragorn, bạn của tôi!” Éormer nói. “Tôi đã mong chúng ta sẽ cùng phi ngựa vào cuộc chiến; nhưng nếu anh chọn Lối Người Chết thì giờ khắc chia tay đã đến, và ít có khả năng chúng ta sẽ gặp lại nhau dưới ánh Mặt Trời.”

“Dù sao tôi vẫn chọn con đường đó,” Aragorn nói. “Nhưng tôi dám nói thế này, Éomer, rằng chúng ta có thể còn gặp lại nhau trong chiến trận, dầu cho tất cả lũ quân Mordor bày ở giữa.”

“Anh hãy làm như ý mình, Vương tử Aragorn,” Théoden nói. “Có lẽ định mệnh của anh là vậy, đi trên những lối kỳ lạ mà không ai khác dám đi. Cuộc chia tay này làm lòng ta buồn khổ, và làm lực lượng ta giảm sút; nhưng giờ ta phải đi theo đường núi và không thể trì hoãn nữa. Bảo trọng!”

“Bảo trọng! thưa bệ hạ!” Aragorn nói. “Hãy phi ngựa tới vinh quang! Bảo trọng, Merry! Tôi trao cậu lại cho những bàn tay tử tế, tử tế hơn nhiều những gì chúng tôi dám mong đợi khi truy đuổi lũ Orc tới Fangorn. Legolas và Gimli vẫn sẽ truy đuổi cùng tôi, tôi hy vọng vậy; nhưng chúng tôi sẽ không quên cậu.”

“Tam biệt!” Merry nói. Cậu không biết phải nói gì hơn. Cậu cảm thấy mình thật nhỏ bé, và bối rối và phiền muộn bởi những lời lẽ u ám họ thốt ra. Cậu chưa bao giờ nhớ nhung tính vui vẻ không gì dập tắt của Pippin hơn thế. Những Kỵ Sĩ đã sẵn sàng, và ngựa đang bồn chồn; cậu mong họ chóng khởi hành cho xong.

Giờ Théoden nói với Éomer, rồi chàng đưa tay lên hô to, và nghe lời đó, các Kỵ Sĩ phóng đi. Họ lao qua Hào xuống Lòng Chảo, và rồi, nhanh chóng ngoặt về phía Đông, họ lên con đường sẽ men theo chân đồi khoảng một dặm gì đó, cho tới khi vòng xuống phía Nam, lại lẩn vào giữa các ngọn đồi và biến mất khỏi tầm nhìn. Aragorn thúc ngựa tới Hào quan sát cho tới khi người của nhà vua đã đi xa vào Lòng Chảo. Rồi chàng quay sang Halbarad.

“Thế là ba người mà tôi quý mến đã đi rồi, và người nhỏ nhất không hề là cảm tình ít nhất,” chàng nói. “Cậu ta không biết mình đang đi tới kết cục nào; và dù có biết, cậu ta cũng vẫn sẽ đi.”

“Dân ở Quận là một giống người nhỏ bé, nhưng đáng quý,” Halbarad nói. “Họ hầu như không biết chúng ta đã bỏ bao nhiêu công sức để bảo vệ biên giới của họ, mà tôi vẫn không cảm thấy phiền lòng.”

“Và giờ số phận chúng ta đã bện vào nhau,” Aragorn nói. “Và dù thế, than ôi! đây là nơi chúng ta phải chia tay. Chà, tôi phải bỏ chút gì vào bụng đã, và rồi cả chúng ta cũng phải gấp gáp lên đường. Đi thôi, Legolas và Gimli! Tôi cần nói chuyện với các anh trong lúc ăn.”

Họ đi cùng nhau trở vào trong Lũy; vậy nhưng Aragorn vẫn ngồi im lặng hồi lâu bên bàn trong sảnh chính, những người khác đợi chàng lên tiếng. “Nào!” cuối cùng Legolas nói. “Nói ra cho nhẹ lòng, và xua đi bóng tối! Chuyện gì đã xảy ra kể từ khi chúng ta quay trở lại nơi ảm đạm này trong buổi sáng xám xịt?”

“Một cuộc đấu tranh có chút dữ dội với tôi hơn cả cuộc chiến ở Lũy Tù Và.” Aragorn trả lời. “Tôi đã nhìn vào Quả Cầu Orthanc, các bạn của tôi ạ.”

“Anh nhìn vào hòn đá ma thuật đáng nguyền rủa đó!” Gimli kêu lên, mặt đầy vẻ sợ hãi và kinh ngạc. “Anh đã nói gì với... hắn rồi sao? Ngay cả Gandalf cũng sợ phải giáp mặt hắn.”

“Anh quên mình đang nói chuyện với ai rồi,” Aragorn nghiêm khắc nói, đôi mắt chàng lóe lên. “Anh sợ tôi sẽ nói gì với hắn? Chẳng lẽ tôi chưa từng tuyên bố công khai ngôi vị của mình trước những cánh cửa Edoras sao? Không, Gimli ạ,” chàng dịu giọng, và vẻ dữ tợn rời khỏi gương mặt chàng, trông chàng giống như người đã phải chịu đựng đau đớn và mất ngủ trong nhiều đêm. “Không, các bạn của tôi, tôi là chủ nhân hợp pháp của Quả Cầu, có cả quyền và sức mạnh để sử dụng nó, hoặc tôi đã cho là như thế. Quyền của tôi không thể nghi ngờ. Sức mạnh tôi có đủ - suýt soát đủ.”

Chàng hít thật sâu. “Đó là một cuộc đấu tranh khó khăn, và nỗi mệt mỏi sẽ còn lâu mới trôi qua. Tôi không nói lời nào với hắn, và cuối cùng tôi đã đoạt lại Quả Cầu, bắt nó tuân theo ý nguyện của mình. Chỉ riêng điều đó thôi hắn cũng thấy khó mà chịu được. Và hắn đã trông thấy tôi. Phải, cậu Gimii ạ, hắn trông thấy tôi, nhưng dưới bộ dạng khác anh đang thấy tôi ở đây. Nếu điều đó sẽ có lợi cho hắn thì tôi đã gây họa lớn. Nhưng tôi không nghĩ vậy. Biết tôi còn sống và vẫn bước đi trên mặt đất này là một đòn mạnh giáng vào tim hắn, tôi đồ là thế; bởi trước hôm nay hắn còn chưa biết điều đó. Đôi mắt tại Orthanc không nhìn thấu qua giáp phục của Théoden; nhưng Sauron còn chưa quên Isildur và thanh kiếm của Elendil. Giờ chính tại thời điểm thực hiện mưu đồ to lớn hắn xây dựng bấy lâu, người kế vị Isildur và Thanh Kiếm đã lộ diện; bởi tôi đã cho hắn thấy lưỡi kiếm được rèn lại. Hắn còn chưa hùng mạnh tới mức không biết gì là sợ hãi; không, nỗi nghi ngờ vẫn gặm nhấm hắn trước nay.”

“Nhưng dù sao thì phạm vi thống trị của hắn cũng rất lớn,” Gimli nói, “và giờ hắn sẽ tấn công ta còn nhanh hơn.”

“Đòn đánh vội vã thường không trúng đích,” Aragorn nói. “Chúng ta phải dồn ép Kẻ Thù của mình, và không tiếp tục đợi hắn ra đòn nữa. Các anh biết không, bạn của tôi, khi đã làm chủ Quả Cầu, tôi biết được rất nhiều điều. Tôi thấy một mối nguy khủng khiếp không lường tới đang kéo đến Gondor từ phương Nam, sẽ lấy đi phần nhiều sức mạnh phòng thủ của Minas Tirith. Nếu không nhanh chóng kháng cự lại, tôi tính rằng Kinh Thành sẽ thất thủ chỉ trong vòng mười ngày.”

“Vậy hẳn nó sẽ thất thủ rồi,” Gimli nói. “Bởi còn nguồn trợ giúp nào mà phái tới đó chứ, và làm sao mà đến kịp được?”

“Tôi chẳng thể phái đi nguồn trợ giúp nào, vì vậy tôi phải tự mình đi,” Aragorn nói. “Nhưng chỉ có một lối đường qua núi là có thể dẫn tôi tới vùng ven biển trước khi tất cả đều mất hết. Đó là Lối Người Chết.”

“Lối Người Chết!” Gimli nói. “Đó là một cái tên kinh khủng; và tôi có thể thấy là Con Người Rohan không ưa gì nó. Liệu người sống có thể qua một lối đường như vậy mà không tuyệt diệt không? Và ngay cả nếu anh đi qua được, từng này chúng ta làm sao đương đầu được với những đòn tấn công của Mordor?”

“Người sống chưa bao giờ sử dụng con đường đó kể từ khi người Rohirrim tới đây,” Aragorn nói, “bởi nó đóng chặt với họ. Nhưng trong thời khắc đen tối này, người kế vị Isildur có thể sử dụng nó, nếu anh ta dám. Nghe đây! Đây là lời mà các con trai Elrond chuyển đến cho tôi từ cha họ, bậc thầy tích truyện tại Thung Đáy Khe: Hãy nhắc Aragorn nhớ lại lời của nhà tiên tri, và Lối Người Chết.”

“Và lời của nhà tiên tri là gì đây?” Legolas hỏi.

“Vào thời của Arvedui, vị vua cuối cùng tại Fornost, Malbeth Nhà Tiên Tri đã nói,” Aragorn đọc:

Đất dài phủ rợp dưới bóng dài,

về Tây đôi cánh vỗ bóng tối.

Tháp cao run rẩy; mồ đế vương

định mệnh nhích gần. Giờ khắc tới:

Người Chết tỉnh giấc; vâng triệu hồi

bên Hòn Erech kẻ bội ước

nghe tù và giục vang miền đồi.

Thề xưa ai nhắc? Tù ai rúc

gọi từ bóng tà xua lãng quên?

Từ Bắc về đây cực khẩn thiết,

chính người kế vị minh chủ xưa

mở Cửa đi vào Lối Người Chết.

“Lối đường tối tăm, không nghi ngờ gì nữa,” Gimli nói, “nhưng tôi thấy cũng chẳng tối tăm hơn khổ thơ đó.”

“Nếu anh mong hiểu bài thơ hơn thì tôi mời anh đi cùng tôi,” Aragorn nói; “bởi giờ đó là con đường mà tôi sẽ chọn. Nhưng tôi không vui vẻ mà đi; chỉ vì tình thế giờ đã khẩn thiết. Vì thế, các anh hãy chỉ đi cùng tôi nếu đó là điều chính các anh muốn, bởi các anh sẽ phải đối mặt với cả sự cực nhọc lẫn nỗi kinh hoàng khủng khiếp, thậm chí còn tệ hơn.”

“Tôi sẽ đi cùng anh ngay cả vào Lối Người Chết, và tới bất cứ cái đích nào mà con đường dẫn đến,” Gimli nói.

“Cả tôi nữa,” Legolas nói, “bởi tôi không sợ Người Chết.”

“Tôi hy vọng là những kẻ bị lãng quên vẫn chưa quên cách chiến đấu,” Gimli nói, “vì nếu họ quên rồi, tôi không thấy lý do nào phải làm phiền họ.”

“Điều đó thì chúng ta sẽ biết nếu có bao giờ đến được Erech,” Aragorn nói. “Nhưng lời ước mà họ phản bội là lời ước cùng chiến đấu chống lại Sauron, và vì thế họ sẽ phải chiến đấu nếu họ muốn làm tròn lời ấy. Bởi tại Erech, vẫn còn một hòn đá đen mà người ta nói do Isildur mang đến từ Númenor; hòn đá được đặt trên một ngọn đồi, và trước hòn đá ấy, Vua trên Núi đã thề trung thành với người từ buổi bắt đầu vương quốc Gondor. Nhưng khi Sauron quay trở lại và lớn mạnh, Isildur triệu tập những Con Người trên Dãy Núi tới trả nợ lời ước năm xưa, nhưng họ không tới: bởi họ từng thờ phụng Sauron trong Những Năm Đen Tối.

“Và rồi lsildur nói với vua của họ: ‘Mi sẽ là vị vua cuối cùng. Và nếu miền Tây cuối cùng hùng mạnh hơn Chủ Nhân Đen của mi, thì đây là lời nguyền ta dành cho mi và người dân của mi: không bao giờ được yên nghỉ cho tới khi lời ước của mi được làm tròn. Bởi cuộc chiến này sẽ còn kéo dài qua số năm không tính đếm nổi, và mi sẽ còn được triệu tới lần nữa trước khi nó kết thúc.’ Và họ bỏ chạy trước cơn thịnh nộ của Isildur, không dám quay lại tham chiến dưới trướng Sauron; họ ẩn mình tại những nơi bí mật trên dãy núi, không giao du gì với những giống người khác nữa mà chết dần chết mòn trên những ngọn đồi trọc. Thế là nỗi kinh hoàng trước những Người Chết Không Ngủ lan truyền quanh Đồi Erech và tất cả những nơi dân tộc ấy còn sót lại. Nhưng tôi phải đi đường đó, bởi không còn người sống nào có thể giúp tôi.”

Chàng đứng dậy. “Đi thôi!” chàng kêu lên và tuốt kiếm, lưỡi kiếm sáng lên trong ánh tù mù sảnh Lũy. “Tới Hòn Erech! Tôi nhắm về Lối Người Chết. Những ai sẵn lòng, hãy đi cùng tôi!”

Legolas và Gimli không trả lời, nhưng họ đứng dậy và đi theo Aragorn khỏi sảnh. Trên bãi cỏ, đoàn Tuần Du đội mũ trùm đã đợi sẵn, yên lặng và nghiêm trang. Legolas và Gimli lên ngựa. Aragorn nhảy lên lưng Roheryn. Rồi Halbarad nâng lên một chiếc tù và lớn thổi vang vọng khắp Hẻm Helm: rồi với tiếng tù và họ bật đi, lao xuống Lòng Chảo như sấm sét, trong khi tất cả những người còn ở lại trên Hào hoặc Lũy trân trối nhìn kinh ngạc.

Và trong khi Théoden theo các lối mòn chậm chạp đi qua những ngọn đồi, Đoàn Áo Xám nhanh chóng lướt qua đồng bằng, và buổi chiều ngày tiếp theo tới Edoras; họ chỉ dừng lại chóng vánh ở đó, trước khi lại ngược lên thung lũng và tới Dunharg ngay khi màn đêm buông xuống.

Công Chúa Éowyn chào đón họ và vui mừng thấy họ xuất hiện; bởi nàng chưa từng thấy ai hùng mạnh hơn những người Dúnedain cùng hai con trai đẹp đẽ của Elrond; nhưng mắt nàng đậu lại lâu hơn hết ở Aragorn. Và khi họ cùng ngồi ăn bữa tối với nàng, tất cả cùng nhau nói chuyện, nàng được kể về mọi điều đã xảy ra kể từ khi Théoden ra đi, mà trước đó chỉ được nghe qua những tin đưa vội vã; khi nghe về trận Hẻm Helm và tổn thất lớn của kẻ thù, cũng như cuộc xung trận của Théoden và đoàn quân kỵ, đôi mắt nàng sáng lên.

Nhưng cuối cùng nàng nói: “Thưa các tôn chúa, các ngài đã mệt mỏi rồi, giờ cần phải chợp mắt, chịu vừa lòng với chút tiện nghi nào chúng tôi còn xoay xở kịp trong tình huống gấp gáp thế này. Nhưng ngày mai, nơi ở khá hơn sẽ được chuẩn bị cho các ngài.”

Aragorn bèn đáp: “Ồ không, thưa công chúa, đừng phải phiền lụy vì chúng tôi! Nếu chúng tôi được qua đêm ở đây và lót dạ vào sáng mai, thế là đủ lắm rồi. Bởi tôi đang đi có chuyện rất gấp, nên chúng tôi sẽ lên đường ngay tia sáng đầu tiên của ngày mai.”

Nàng mỉm cười với chàng và nói: “Vậy thì ngài thật tử tế, thưa vương tử, vì đã đi nhiều dặm chệch đường như thế để mang tin đến cho Éowyn, và nói chuyện với cô ta ở chốn đi đày.”

“Quả thật là không ai có thể coi chuyến đi như thế là lãng phí,” Aragorn nói; “và dù thế, thưa công chúa, tôi cũng không thể tới đây, nếu không phải vì con đường phải đi đẫn tôi tới Dunharg.”

Nghe vậy nàng liền trả lời như một người không thích điều vừa nghe phải: “Vậy thì thưa vương tử, ngài đi nhầm đường rồi; bởi không đường nào đi từ Hargdal mà lại hướng về phía Đông hoặc phía Nam; tốt nhất ngài nên quay trở lại nơi ngài đã từ đó tới.”

“Ồ không, thưa công chúa,” chàng nói. “Tôi không đi nhầm đường đâu; bởi tôi đã đi trên mảnh đất này từ trước khi nàng được sinh ra để nó thêm phần tươi đẹp. Có một con đường chạy ra từ thung lũng này, và tôi sẽ đi theo con đường đó. Ngày mai, tôi sẽ đi vào Lối Người Chết.”

Bấy giờ nàng trân trối nhìn chàng như vừa trúng đòn trí mạng, gương mặt nàng tái nhợt, và nàng không nói gì nữa hồi lâu, trong khi tất cả mọi người im lặng. “Nhưng Aragorn,” cuối cùng nàng nói, “chẳng lẽ nhiệm vụ của ngài là tìm kiếm cái chết hay sao? Bởi đó là tất cả những gì ngài sẽ tìm thấy trên con đường đó. Chúng không chịu cho người sống đi qua.”

“Chúng có thể sẽ chịu cho tôi đi qua,” Aragorn nói, “mà ít nhất thì tôi cũng sẽ thử liều. Không có đường nào khác còn hữu dụng.”

“Nhưng thế này thật điên rồ,” nàng nói. “Bởi ở đây có những con người tiếng tăm và gan dạ, những người mà ngài không nên dẫn vào bóng tối, thay vì thế hãy dẫn họ vào cuộc chiến, nơi cần đến họ. Tôi xin ngài hãy ở lại đây và đi cùng anh trai tôi; bởi như thế, trái tim tất cả chúng tôi sẽ tràn ngập nỗi vui mừng, và hy vọng của chúng tôi sẽ sáng sủa hơn.”

“Không phải là điên rồ đâu, thưa công chúa,” chàng trả lời, “vì tôi đi theo con đường định sẵn cho mình. Nhưng những người theo tôi đều là tự nguyện; và giờ nếu họ muốn ở lại đây và đi cùng người Rohan, họ có thể làm như vậy. Còn tôi sẽ đi theo Lối Người Chết, một mình, nếu cần phải thế.”

Thế là họ không nói gì nữa, chỉ dùng bữa trong im lặng; nhưng đôi mắt nàng luôn hướng về Aragorn, và những người khác thấy nàng đang rất sầu lo. Một lúc sau, họ đứng dậy chào Công Chúa, cảm ơn lòng hiếu khách của nàng rồi đi nghỉ.

Nhưng khi Aragorn đi tới lều mình nơi chàng sẽ nghỉ cùng Legolas và Gimli, và hai người bạn đồng hành thì đã vào trong, Công Chúa Éowyn đi theo lên tiếng gọi chàng. Chàng quay lại thấy nàng như một bóng nhấp nhánh trong bóng đêm, bởi nàng mặc đồ trắng; nhưng đôi mắt nàng rực cháy.

“Aragorn,” nàng nói, “tại sao ngài lại lựa chọn con đường chết chóc này?”

“Bởi vì tôi phải chọn,” chàng nói. “Chỉ như vậy tôi mới thấy có hy vọng được đóng góp phần mình vào cuộc chiến chống lại Sauron. Tôi không tự chọn con đường nguy hiểm, Éowyn ạ. Nếu được quyền tới nơi mình dành cả trái tim, giờ tôi đã lang thang trong Thung Đáy Khe tươi đẹp ở mãi trên phương Bắc.”

Nàng im lặng hồi lâu, như thể cân nhắc ý nghĩa những lời này. Rồi đột nhiên nàng đặt tay lên cánh tay chàng. “Ngài là một vị đế vương cương nghị và quả quyết,” nàng nói; “và những người như vậy sẽ vang danh.” Nàng ngừng lời. “Thưa Vương tử,” nàng nói, “nếu ngài phải đi, xin hãy cho tôi được theo ngài. Bởi tôi đã mệt mỏi phải lẩn tránh giữa những ngọn đồi, tôi mong muốn được đối mặt với hiểm nguy và chiến trận.”

“Bổn phận của nàng là ở bên thần dân mình,” chàng trả lời

“Tôi đã nghe quá nhiều về bổn phận,” nàng kêu lên. “Nhưng chẳng phải là tôi thuộc về Gia tộc Eorl hay sao, một nữ chiến binh chứ không phải bảo mẫu? Tôi đã nâng đỡ những bàn chân run rẩy quá lâu rồi. Vì chúng không còn run rẩy nữa, có lẽ vậy, chẳng lẽ giờ tôi không thể sống đời mình theo ý nguyện mình ư?”

“Ít người được làm điều đó trong danh dự,” chàng trả lời. “Nhưng còn nàng, thưa công chúa: chẳng phải nàng đã chấp nhận nghĩa vụ trị vì nhân dân nàng cho tới khi đức vua của họ trở lại sao? Nếu không phải nàng được chọn, thì hẳn đã là một vị thống chế hoặc chỉ huy nào đó, và người đó cũng không thể rời khỏi nhiệm vụ của mình, dù vì nó mà mệt mỏi hay không.”

“Chẳng lẽ lúc nào cũng phải là tôi được chọn?” nàng cay đắng nói. “Chẳng lẽ tôi sẽ luôn bị bỏ lại đằng sau mỗi khi đoàn Kỵ Binh khởi hành, để trông nom nhà cửa trong khi họ giành lấy vinh quang, và lo liệu thức ăn giường ngủ đợi họ quay trở về?”

“Sẽ sớm đến một lúc,” chàng nói, “chẳng còn ai quay trở lại. Và rồi sẽ cần đến lòng dũng cảm mà không có vinh quang, bởi sẽ không ai còn nhớ những chiến tích trong nỗ lực cuối cùng bảo vệ quê nhà. Nhưng những chiến tích đó không hề kém anh dũng chỉ bởi vì chúng không được tôn vinh.”

Và nàng trà lời. “Tất cả những lời ngài nói chỉ có nghĩa là: cô là phụ nữ và vị trí của cô là ở trong nhà. Nhưng khi đàn ông đã chết quang vinh trong chiến đấu, thì cô có quyền được thiêu cháy cùng với ngôi nhà, bởi vì đàn ông không cần nhà đó nữa. Nhưng tôi là người của Gia tộc Eorl, chứ không phải một mụ phục dịch. Tôi có thể cưỡi ngựa và múa kiếm, và tôi không sợ đau đớn hay cái chết.”

“Nàng sợ gì, thưa công chúa?” chàng hỏi.

“Một cái lồng,” nàng đáp. “Cuộc sống sau những chấn song, tới khi mệt mỏi và tuổi tác buộc ta chấp nhận hết, và mọi cơ hội làm nên chiến tích lớn lao đã nằm ngoài hồi tưởng và khao khát.”

“Và dù nghĩ vậy, nàng vẫn khuyên tôi không nên dấn thân vào con đường đã chọn, bởi vì nó đầy nguy hiểm?”

“Đó là lời mà ai cũng sẽ khuyên,” nàng nói. “Nhưng tôi không khuyên ngài chạy trốn khỏi nguy hiểm, chỉ mong ngài tiến vào chiến trận nơi thanh kiếm của ngài có thể giành được vinh quang và chiến thắng. Tôi không muốn thấy một thứ cao quý và giỏi giang đến thế lại bị ném đi vô ích.”

“Tôi cũng vậy,” chàng nói. “Vì thế điều này tôi nói với nàng, thưa công chúa: Ở lại đi! Bởi nàng không có nhiệm vụ gì ở phương Nam.”

“Những người đi cùng chàng cũng vậy. Họ chỉ đi bởi vì nhờ thế họ sẽ không phải xa cách chàng - bởi họ yêu chàng.” Rồi nàng quay đi và biến mất vào màn đêm.

Khi ánh sáng ban ngày bừng lên trên bầu trời, tuy vầng thái dương vẫn chưa lên khỏi những sống núi cao phía Đông, Aragorn chuẩn bị khởi hành. Tất cả những người theo chàng đều đã lên ngựa, và chàng vừa chuẩn bị nhảy lên yên cương thì Công Chúa Éowyn tới từ biệt họ. Nàng ăn mặc theo lối Kỵ Sĩ và đeo kiếm bên sườn. Trong tay cầm chén rượu, nàng đưa nó lên nhấp môi, nói lời chúc họ đi nhanh; rồi nàng trao chén cho Aragorn, chàng uống rồi nói: “Bảo trọng, hỡi Công Chúa Rohan! Tôi uống vì hạnh vận của Gia tộc nàng, của nàng và tất cả thần dân. Hãy nói với anh trai nàng: chúng ta có thể sẽ gặp nhau bên kia bóng tối!”

Gimli và Legolas đang đứng cạnh cảm giác như thấy nàng rơi lệ, và với một người nghiêm trang và kiêu hãnh đến vậy, nỗi đau dường như càng gấp bội. Nhưng nàng nói: “Aragorn, chàng sẽ đi sao?”

“Tôi sẽ đi,” chàng đáp.

“Vậy chàng vẫn sẽ không cho em đi cùng chàng, như em đã yêu cầu ư?”

“Không đâu, công chúa,” chàng đáp. “Bởi đó là điều tôi không thể thuận lòng mà không có sự đồng ý của đức vua, và của anh trai nàng; và họ sẽ không trở về trước ngày mai. Trong khi bây giờ tôi cần từng giờ, đúng hơn là từng phút. Bảo trọng!”

Vậy là nàng sụp xuống gối, cầu xin, “Em van chàng!”

“Không đâu, công chúa,” chàng nói, và cầm lấy tay đỡ nàng lên. Chàng hôn tay nàng rồi nhảy lên yên cho ngựa phóng đi, không nhìn lại; chỉ những người hiểu chàng và đứng gần chàng mới thấy được chàng khổ tâm như thế nào.

Éowyn đứng lặng yên như bức tượng tạc vào đá, hai nắm tay siết chặt bên sườn, và nàng dõi theo cho tới khi họ hòa vào bóng tối dưới ngọn Dwimorberg tối tăm, Đỉnh Ma Ám, nơi có Cửa Người Chết. Khi họ biến mất khỏi tầm nhìn, nàng quay lại, lảo đảo như người mù, trở về phòng ở của mình. Tuy vậy không thần dân nào của nàng chứng kiến cuộc chia tay, bởi họ sợ hãi ẩn nấp không dám ra ngoài cho tới khi ngày đến, và những kẻ lạ mặt liều lĩnh đã rời đi.

Và một vài người nói: “Đó là bọn ác hồn Tiên. Hãy để chúng đi về nơi chúng thuộc về, vào những nơi tối tăm, và không bao giờ trở lại nữa. Những ngày tháng này đã ác nghiệt lắm rồi.”

Ánh sáng vẫn còn xám mờ khi họ ra đi, bởi mặt trời vẫn chưa leo lên qua những sống núi tối sẫm Đỉnh Ma Ám trước mặt họ. Nỗi sợ hãi bao trùm lấy họ ngay giữa lúc đi qua dưới hai hàng đá cổ xưa và cuối cùng đến rừng Dimholt. Ở đó, dưới bóng âm u của những đám cây đen mà ngay cả Legolas cũng không chịu nổi lâu, họ tìm thấy một lũng nhỏ mở ra ở chân núi, và ngay giữa đường sừng sững một cột đá lớn duy nhất như ngón tay định mệnh.

“Máu tôi lạnh buốt,” Gimli nói, nhưng những người khác im lặng, và giọng gã rơi xuống tắt lịm trên lớp lá linh sam ẩm ướt dưới chân. Ngựa không chịu đi qua cột đá đe dọa này, khiến các Kỵ Sĩ phải xuống ngựa và dắt chúng đi vòng rất rộng. Thế là họ đã đi sâu vào trong thung lũng hẹp; ở đó sừng sững vách núi dựng đứng, và trên vách, Cửa Tối mở hoác trước mặt họ như cái miệng của đêm đen. Nhiều dấu hiệu và hình vẽ được khắc trên vòm cửa rộng, không thể đọc được dưới ánh sáng tù mù, và nỗi kinh hoàng phả ra từ trong cửa như hơi nước xám.

Đoàn người dừng lại, trong số họ không trái tim nào không run sợ, trừ trái tim của Legolas tộc Tiên, mà hồn ma Con Người chẳng thể gieo niềm kinh sợ.

“Đây là một cánh cửa xấu xa,” Halbarad nói, “và cái chết của tôi đang chờ đằng sau cửa. Dù sao thì tôi vẫn dám đi qua nó; nhưng đám ngựa thì không chịu đâu.”

“Nhưng chúng ta phải đi vào, và vì thế, ngựa cũng phải đi thôi,” Aragorn nói. “Bởi nếu chúng ta còn đi qua nổi bóng tối này, vẫn còn nhiều lý đường chờ đợi, và mỗi giờ để mất ở đó sẽ đưa chiến thắng của Sauron tới gần hơn. Theo tôi nào!”

Rồi Aragorn dẫn đường, và vào giờ phút ấy ý chí của chàng sắt đá tới mức tất cả người Dúnedain cùng ngựa cưỡi đều theo chàng. Và đúng là ngựa của dân Tuần Du yêu chủ nhân tới mức ngay cả sự kinh hoàng trong cánh Cửa Tối chúng cũng sẵn lòng đối mặt, nếu trái tim chủ nhân vững vàng khi họ đi cạnh chúng. Nhưng Arod, con ngựa đất Rohan, không chịu đi tiếp, nó đứng đó đổ mồ hôi và run rẩy sợ hãi đến mức nhìn nó cũng thấy khổ sở thay. Thế rồi Legolas đặt hai tay lên mắt nó và hát vài lời càng thêm êm ái trong bóng tối, cho tới khi nó chịu để người ta dẫn đi, và Legolas đi vào cửa. Chỉ còn lại Người Lùn Gimli đứng trơ một mình.

Đầu gối gã run lên, và gã giận dữ mắng chính mình. “Một điều cả đời ta chưa nghe thấy bao giờ!” gã kêu lên. “Một tên Tiên chịu đi xuống lòng đất trong khi một Người Lùn không dám!” Nói thế xong, gã lao vào trong. Nhưng gã cảm thấy mình đang lê những bước chân nặng như chì qua ngưỡng cửa; và ngay lập tức bóng tối đui mù ập lấy gã, ập lấy chính Gimli con trai Glóin, kẻ đã đi lại không hề sợ hãi tại nhiều nơi dưới lòng đất sâu trên khắp thế giới.

Aragorn có mang theo đuốc từ Dunharg, và giờ chàng đi trước giơ cao một cây; Elladan cầm một cây đi cuối hàng, Gimli va vấp phía sau chen vượt lên. Gã không thấy gì ngoài ánh lửa tù mù của những ngọn đuốc; nhưng mỗi khi đoàn người dừng lại, dường như nổi lên những giọng nói rì rầm bất tận khắp quanh gã, những lời thì thầm bằng thứ ngôn ngữ gã chưa nghe thấy bao giờ.

Không gì tấn công hay cản đường Đoàn Áo Xám, thế nhưng nỗi sợ hãi của gã Người Lùn vẫn lớn dần lên trên đường đi tiếp: một phần lớn là vì giờ gã đã biết rằng không thể quay lại; tất cả các lối đi đằng sau đều chen chúc đội quân vô hình theo sát họ trong bóng tối.

Không thể tính nổi bao nhiêu thời gian đã trôi qua, cho tới khi Gimli thấy một cảnh mà sau này gã mãi mãi không muốn nhớ lại. Con đường vẫn rộng, theo gã ước tính từ đầu, nhưng giờ đoàn người lại đột nhiên bước vào một khoảng không mênh mang trống rỗng, không còn thấy vách tường ở hai bên nữa. Nỗi sợ đè nặng tới mức gã gắng gượng mới bước nổi. Ở bên trái có thứ gì đó lấp lánh trong bóng tối khi đuốc của Aragorn đưa đến gần. Vì thế chàng dừng lại và đi xem xét.

“Anh ta không biết sợ à?” gã Người Lùn lẩm bẩm. “Ở bất cứ cái hang nào, Gimli con trai Glóin cùng sẽ là người đầu tiên lao đến ánh lấp lánh của vàng. Nhưng không phải ở đây! Mặc kệ nó đi!”

Nói thế song gã vẫn lại gần và thấy Aragorn đang quỳ trong khi Elladan giơ cả hai cây đuốc trên cao. Trước mặt chàng là bộ xương một con người hùng mạnh. Người này mặc giáp xích, và giáp phục của hắn vẫn còn đó nguyên vẹn; bởi không khí trong hang khô ráo, và chiếc áo giáp dài trên người hắn mạ vàng. Thắt lưng làm bằng vàng và ngọc hồng lựu, nặng những vàng là chiếc mũ trụ trên đầu cái sọ úp mặt xuống sàn. Hắn đã ngã xuống gần vách tường hang, như giờ họ thấy, trước mặt là cánh cửa đá đóng chặt: những ngón tay xương xẩu vẫn còn cào vào kẽ đá. Một thanh kiếm gãy mẻ lưỡi nằm bên cạnh, như thể hắn đã bổ vào đá trong nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng.

Aragorn không chạm vào hắn, nhưng sau khi yên lặng nhìn hồi lâu, chàng đứng dậy thở dài. “Nơi đây hoa simbelmynë sẽ không bao giờ mọc cho tới tận cùng thế giới,” chàng thì thầm. “Chín gò đất và bảy nay đã xanh cỏ, qua bao nhiêu năm ròng rã ông ta vẫn nằm trước cánh cửa không thể mở ra. Nó dẫn tới đâu? Tại sao ông ta lại muốn đi qua đó? Sẽ không ai biết được!

“Bởi đó không phải là nhiệm vụ của ta!” chàng kêu lớn, quay lại nói với bóng tối đang rì rầm sau lưng. “Cứ giữ lấy những kho tàng và bí mật mà các người đã chôn vùi từ Những Năm Đáng Nguyền Rủa! Chúng ta chỉ đòi hỏi một điều là tốc độ. Hãy để bọn ta đi qua và rồi hãy tới! Ta triệu các ngươi tới Hòn Erech!”

Không có câu trả lời, trừ phi chính là sự im lặng tột cùng còn đáng sợ hơn những tiếng rì rầm lúc trước; và một cơn gió lạnh lướt tới thổi những ngọn đuốc rung rinh tắt phụt, không thể thắp lại. Khoảng thời gian sau đó, một giờ, hoặc cũng có thể là nhiều giờ, Gimli không nhớ nhiều lắm. Những người khác dấn bước trên đường, nhưng lúc nào gã cũng ở sau chót, bị nỗi kinh hoàng mơ hồ rượt đuổi, dường như lúc nào cũng sắp bắt kịp gã; và tiếng rì rầm theo sau gã như âm thanh mơ hồ của rất nhiều đôi chân. Gã cứ loạng choạng đi tới trước, tới khi bò trên nền đất như con thú và cảm thấy mình không chịu nổi nữa: gã phải tìm được điểm kết thúc và thoát khỏi đây, hoặc hóa điên chạy nhào trở lại, lao đầu vào nỗi sợ đang đuổi theo mình.

Đột nhiên gã nghe thấy tiếng nước róc rách, một âm thanh chắc chắn và rõ ràng như hòn đá rơi vào giữa giấc mơ toàn bóng tối. Xung quanh sáng dần, và kia! Đoàn Áo Xám lại đi qua một cổng nữa dưới mái vòm cao và rộng, có con lạch nhỏ chảy cạnh đường họ đi; và xa hơn, một con đường dốc thẳng xuống giữa những vách đá dựng đứng, như lưỡi dao cắt vào bầu trời vời vợi. Khe núi ấy sâu và hẹp đến mức bầu trời tối đen, và trên đó ánh sao tí xíu lấp lánh. Nhưng như sau này Gimli được biết, lúc đó vẫn còn hai giờ trước khi mặt trời lặn cuối cái ngày họ đã xuất phát từ Dunharg; dù nếu cứ hỏi ý gã, đấy cũng có thể là lúc tranh tối tranh sáng trong vài năm sau nữa, hoặc trong một thế giới nào khác.

Đoàn người lại lên ngựa, Gimli trở lại với Legolas. Họ đi thành hàng một, và buổi chiều đến, kéo theo hoàng hôn xanh thẫm, trong khi nỗi sợ hãi vẫn truy đuổi họ. Legolas quay lại định nói gì với Gimli, và gã Người Lùn thấy trước mặt mình, đôi mắt sáng của chàng Tiên rực lên. Đằng sau họ là Elladan, người cuối cùng trong Đoàn Áo Xám, nhưng không phải người cuối cùng đi trên con đường dẫn tiếp xuống dưới.

“Người Chết đang theo ta,” Legolas nói. “Tôi nhìn thấy bóng hình của Con Người, của ngựa và những lá cờ nhạt màu như những dải mây, và ngọn giáo như những bụi cây mùa đông trong một đêm sương mù. Người Chết đang đi theo đấy.”

“Phải, Người Chết theo sau ta. Họ đã nghe lời triệu tập,” Elladan nói.

Cuối cùng đoàn người ra khỏi hẻm núi, cũng đột ngột như thể vừa thoát ra khỏi một kẽ nứt trong tường; phía trước họ là vùng cao bên miệng thung lũng lớn, và ngọn suối chảy bên cạnh đổ xuống reo vui mát lạnh thành nhiều dòng thác.

“Chúng ta đang ở đâu trên Trung Địa?” Gimli hỏi; và Elladan trả lời: “Chúng ta đang đi xuống từ thượng nguồn Morthond, con sông dài lạnh lẽo cuối cùng sẽ đổ ra biển nơi sóng táp vào những tường thành Dol Amroth. Anh không cần hỏi tiếp tại sao lại có cái tên này: con người gọi nó là Rễ Đen.”

Thung Lũng Morthond là một vùng trũng lớn ăn vào mặt Nam dãy núi dựng đứng. Sườn thung dốc phủ xanh cỏ, nhưng vào giờ đó tất cả đều xám xịt, bởi mặt trời đã lặn, và sâu dưới lòng thung, ánh sáng lấp lánh trong những ngôi nhà của Con Người. Thung lũng phì nhiêu và có nhiều cư dân sinh sống.

Và rồi không quay đầu, Aragorn kêu to để tất cả đều nghe được: “Các bạn, hãy quên đi mệt mỏi! Giờ hãy phóng đi, phóng đi thôi! Chúng ta phải tới Hòn Erech trước khi ngày hết, và đường vẫn còn dài lắm.” Và không nhìn lại, họ phi qua những cánh đồng trên núi, cho tới khi đến một cây cầu bắc ngang qua dòng nước đang mạnh dần lên và thấy một con đường đi xuống vào trong vùng đất.

Ánh sáng tắt lịm trong những ngôi nhà và thôn xóm khi họ đi qua, cửa đóng sập lại, người dân ngoài đồng rú lên kinh hoàng và chạy loạn như hươu nai bị săn đuổi. Khắp nơi vang lên cùng một tiếng kêu trong bóng đêm dần trở nên dày đặc: “Vua Người Chết! Vua Người Chết đang ập tới chúng ta!”

Chuông ngân vang xa bên dưới, và tất cả cư dân bỏ chạy khi thấy gương mặt Aragorn; nhưng Đoàn Áo Xám vội vã lao đi như những thợ săn, cho tới khi ngựa họ chồn chân vì mệt mỏi. Và như vậy, ngay trước nửa đêm, trong bóng tối cũng đen thẫm như những cái hang trong lòng núi, cuối cùng họ đã tới Đồi Erech.

Từ rất lâu, nỗi kinh hoàng về Người Chết đã phủ lên ngọn đồi và trên những cánh đồng trống xung quanh. Vì trên đỉnh đồi có một khối đá đen, tròn như một quả cầu lớn, cao bằng chiều cao của một người, dù phân nửa bị chôn dưới đất. Nó trông như thể không thuộc về thế giới này, như thể nó đã rơi xuống khỏi bầu trời, như một số người tin; nhưng những ai vẫn còn nhớ tích truyện từ Tây Châu kể rằng nó được Isildur mang ra khỏi đống đổ nát Númenor và chôn ở đó khi người cập bến. Không người nào sống trong thung lũng lại dám tới bên nó, hoặc dám sống gần đây; bởi họ bảo đó là địa điểm gặp gỡ của những người Bóng Đêm, và chúng thường tụ tập ở đó trong những ngày tháng kinh hoàng, xúm xít xung quanh Hòn Đá mà rì rầm trò chuyện.

Đoàn người tới Hòn Đá và dừng lại trong đêm khuya lặng phắc. Rồi Elrohir đưa cho Aragorn chiếc tù và bạc, và chàng thổi; và những người đứng gần chàng dường như nghe thấy tiếng tù và trả lời, như thể là tiếng vọng từ trong những hang sâu xa xôi. Họ không nghe thấy âm thanh nào khác, dù vậy họ vẫn cảm nhận được một đoàn quân lên tụ tập quanh quả đồi họ đứng, cùng cơn gió lạnh như hơi thở của hồn ma tràn xuống từ dãy núi. Nhưng Aragorn xuống ngựa, và đứng cạnh Hòn Đá chàng hô to:

“Những người Bội Ước, tại sao các ngươi lại tới đây?”

Và một giọng nói vang lên trong đêm trả lời chàng, như thể vọng lại từ xa xôi:

“Để làm tròn lời ước của chúng ta và yên nghỉ.”

Thế rồi Aragorn nói: “Cuối cùng thời khắc cũng đến. Giờ ta sẽ tới