Chương III CUỘC HỘI QUÂN ROHAN
Giờ thì tất cả các con đường đều chạy về phía Đông để đối mặt với cuộc chiến đang ập đến và sự công kích của Bóng Đen. Ngay lúc Pippin đứng trước Đại Môn của Kinh Thành nhìn Hoàng thân Dol Amroth trương cờ tiến vào, cũng là lúc Vua đất Rohan ra khỏi khu đồi.
Ngày đang tàn. Dưới những tia sáng mặt trời cuối cùng, đoàn Kỵ Binh hắt những cái bóng nhọn dài về phía trước. Bóng tối đã trườn đến dưới rừng cây linh sam xào xạc phủ đầy bên sườn núi dốc. Nhà vua cho ngựa đi chậm. Bấy giờ con đường vòng qua vai một gờ đá lớn trọc lóc và đâm vào vùng bóng tối dưới những tán cây khe khẽ rì rầm. Họ đi xuống, xuống mãi theo hàng một dài uốn lượn. Khi cuối cùng họ cũng tới đáy hẻm núi, buổi tối đã lấp đầy những nơi trũng nhất. Mặt trời đã lặn. Ánh chiều tà phủ lên thác nước.
Suốt cả ngày, xa bên dưới họ, một dòng suối nhấp nhô đã chảy xuống từ con đèo núi cao đằng sau, lách dòng chảy hẹp giữa những vách núi xanh bóng thông; và giờ qua một cổng đá nó chảy ra rồi đổ vào một khe thung rộng hơn. Đoàn Kỵ Binh đi theo nó; và đột nhiên Hargdal, dải thung lũng Khe Miếu trải ra trước mắt họ, ầm ĩ tiếng nước rơi vào buổi tối. Dòng Tuyết Snawburna trắng xóa được dòng suối nhỏ hơn tiếp sức, cuồn cuộn sủi bọt trên đá cuội, chảy xuống Edoras cùng những ngọn đồi và cánh đồng xanh tươi. Ở xa phía bên phải, ngay đầu thung lũng dài, ngọn Starkhorn hùng vĩ sừng sững trên những thân núi mênh mông mây cuốn; nhưng đỉnh núi nhọn lởm chởm vĩnh viễn phủ trong tuyết trắng, lấp lánh cao tít bên trên thế giới, đằng Đông bắt bóng xanh lam, đằng Tây loang lổ đỏ dưới hoàng hôn.
Merry kinh ngạc ngắm nhìn vùng đất kỳ lạ này, vùng đất cậu đã được nghe kể nhiều câu chuyện suốt dọc đường dài. Đó là một thế giới không có bầu trời, mà tầm mắt cậu, phóng qua những vịnh không khí tăm tối, chỉ thấy những sườn núi mỗi lúc một thêm cao ngất, hết rặng tường đá khổng lồ này đến rặng tường đá khác, và những vách núi dựng đứng tư lự vờn sương. Cậu ngồi một lúc mơ mơ màng màng, lắng nghe tiếng ầm ĩ của nước, tiếng thì thầm của rừng cây tối, tiếng lách cách của sỏi, và cái im lặng mênh mông ủ ê chờ đợi đằng sau mọi âm thanh. Cậu yêu núi non, hoặc đúng hơn cậu đã từng yêu ý nghĩ về những dãy núi trùng trùng điệp điệp ở hậu cảnh những câu chuyện từ xa xôi đâu đó mang về; nhưng giờ cậu muốn oằn xuống dưới sức nặng không chịu nổi của Trung Địa. Cậu muốn trốn khỏi cảm giác khổng lồ này trong một căn phòng yên tĩnh bên ánh lửa.
Cậu rất mệt, bởi mặc dù đi chậm, họ đã đi mà không nghỉ ngơi mấy. Nhiều giờ đồng hồ liền trong suốt gần ba ngày mệt mỏi, cậu xóc lên xóc xuống, qua đèo xuyên thung dài, vượt nhiều con suối. Đôi lúc, khi đường rộng hơn, cậu đi bên cạnh đức vua, không để ý thấy nhiều Kỵ Sĩ mỉm cười khi thấy cả hai bên nhau: chàng Hobbit trên chú ngựa lùn xám bờm xờm, và Chúa đất Rohan trên con tuấn mã trắng. Rồi thì cậu nói chuyện với Théoden, kể cho ông nghe về quê nhà mình và những chuyện người Quận vẫn làm, hoặc nghe ông kể truyền thuyết về đất Mark và những con người hùng cường thuở xa xưa. Nhưng hầu hết thời gian, đặc biệt trong ngày cuối cùng này, Merry đi một mình ngay phía sau nhà vua, không nói gì hết, cố gắng hiểu lối nói trầm vang từ tốn của người Rohan mà cậu nghe thấy những người đi sau sử dụng. Ngôn ngữ ấy dường như chứa rất nhiều từ cậu hiểu, dù được phát âm ngân nga và mạnh mẽ hơn ở Quận, và dù vậy cậu vẫn không thể xâu chuỗi các từ với nhau. Thảng hoặc, một Kỵ Sĩ nào đó lại cất vang giọng ca hào hùng trong trẻo, và Merry cảm thấy như trái tim cậu nhảy nhót theo, dù không hiểu ca từ.
Nhưng dù thế nào cậu vẫn cảm thấy cô đơn, và chưa bao giờ cô đơn hơn lúc này, khi ngày kết thúc. Cậu tự hỏi Pippin đã đi tới đâu nơi miền đất lạ lùng này; và còn chuyện gì sẽ xảy ra với Aragorn, Legolas và Gimli. Rồi đột nhiên như có bàn tay lạnh lẽo chạm vào tim, cậu nghĩ tới Frodo và Sam. “Mình đang quên dần họ!” cậu tự quở trách. “Và họ quan trọng hơn tất cả chúng ta nhiều. Và mình đến đây để giúp họ; nhưng giờ họ hẳn phải ở cách xa đây hàng trăm dặm, nếu vẫn còn sống.” Cậu rùng mình.
* * *
“Cuối cùng cũng đến Hargdal!” Éomer nói. “Hành trình của chúng ta sắp kết thúc rồi.” Họ dừng lại. Lối đường dẫn ra khỏi khe núi hẹp chợt dốc hẳn xuống. Chỉ thấy một thoáng dải thung lũng mênh mông trong ánh chập choạng phía dưới, giống như nhìn qua ô cửa sổ cao. Một tia sáng nhỏ đơn độc lấp lánh bên dòng sông.
“Cuộc hành trình này đã kết thúc, có thể là vậy,” Théoden nói, “nhưng ta vẫn còn phải đi nhiều. Hai đêm trước trăng tròn, và khi trời sáng, ta sẽ phi tới Edoras để hội quân toàn đất Mark.”
“Nhưng nếu người nghe lời khuyên của thần,” Éomer hạ giọng nói, “thì sau đó người hãy trở về đây, cho tới khi chiến tranh kết thúc, dù thắng hay thua.”
Théoden mỉm cười. “Không, con trai ạ, bởi ta sẽ gọi con như vậy, đừng nói những lời ngọt nhạt của Lưỡi Giun vào đôi tai già này!” Ông ngồi thẳng dậy và nhìn lại hàng quân dài mờ dần vào bóng hoàng hôn sau lưng. “Kể từ khi ta lên ngựa về Tây, chỉ vài ngày mà như hàng năm trời đằng đẵng đã trôi qua; nhưng ta sẽ không bao giờ tì lên gậy nữa. Nếu cuộc chiến thất bại, ta lẩn nấp giữa những ngọn đồi thì có ích gì đâu? Và nếu chúng ta chiến thắng, dù ta có ngã xuống khi dùng đến chút sức lực cuối cùng, sao có thể gọi là đau khổ? Nhưng giờ chúng ta sẽ không nói chuyện này nữa. Tối nay, ta sẽ ngủ tại Cứ Điểm Dunharg. Ít nhất thì chúng ta vẫn còn một buổi đêm yên bình. Hãy đi tiếp!”
Trong bóng hoàng hôn tối dần, họ đi xuống thung lũng. Ở đây, dòng Snawburna chảy gần vách phía Tây thung lũng, và không lâu sau, lối mòn dẫn họ tới một khúc cạn nơi dòng nước nông chảy ồn ĩ trên đá cuội. Khúc cạn có người gác. Khi nhà vua đến gần, nhiều người nhảy bật ra khỏi bóng vách đá; và khi nhận ra nhà vua họ kêu lên vui sướng: “Théoden Vương! Théoden Vương! Vua đất Mark đã trở lại rồi!”
Rồi ai đó thổi hồi tù và dài. Tiếng kêu vang vọng trong thung lũng. Những tiếng tù và khác rúc lên trả lời, ánh sáng bừng lên bên kia sông.
Và đột ngột đồng loạt cất cao những tiếng kèn từ phía trên, dường như rền vang từ hốc đá nào đó, nơi hòa quyện chúng làm một và ném trả chúng cuồn cuộn và dồn dập lăn xuống các tường đá.
Vậy là Vua đất Mark thắng trận trở về từ phía Tây, đã tới Dunharg dưới chân Dãy Núi Trắng. Ở đây, ông thấy tất cả lực lượng còn lại của dân tộc mình đã tập hợp đủ; bởi ngay khi tin ông tới truyền ra, các chỉ huy đã phi ngựa đến diện kiến ông ở khúc cạn, mang theo tin từ Gandalf. Dúnhere, thủ lĩnh dân ở Hargdal, đứng hàng đầu.
“Vào bình minh ba ngày trước, thưa chúa thượng,” ông nói, “Scadufax tới Edoras như một làn gió thổi đến từ phương Tây, và Gandalf báo tin về chiến thắng của chúa công cho những trái tim chúng tôi vui sướng. Nhưng ông ấy cũng chuyển lời căn dặn của chúa công là phải đẩy nhanh việc tập hợp đội Kỵ Binh. Và rồi Bóng Ma có cánh ập đến.”
“Bóng Ma có cánh?” Théoden hỏi. “Chúng ta cũng thấy nó nhưng đó là vào đêm khuya trước khi Gandalf ra đi.”
“Có lẽ, thưa chúa công,” Dúnhere nói. “Nhưng cùng là nó, hoặc một con giống nó, một thứ bóng tối bay lượn trong hình dáng con chim khổng lồ, đã bay qua Edoras vào sáng hôm đó, và tất cả mọi người đều run sợ. Bởi nó lượn xuống trên Meduseld, và khi nó xuống thấp, gần sát đầu hồi, tiếng nó kêu làm tim chúng tôi ngừng đập. Rồi chính Gandalf đã khuyên chúng tôi không nên tụ quân trên đất bằng mà tới đây đón chúa công trong thung lũng dưới chân núi. Và ông ấy dặn chúng tôi không thắp đèn hoặc đốt lửa ngoại trừ cho những nhu cầu cần thiết nhất. Chúng tôi đã làm theo. Gandalf đã nói rất uy quyền. Chúng tôi tin rằng đó chính là điều chúa thượng cũng muốn. Ở Hargdal chưa bao giờ thấy bóng những con quái vật này cả.”
“Tốt lắm,” Théoden nói. “Giờ ta sẽ phóng tới Cứ Điểm, và trước khi nghỉ ngơi, ta sẽ gặp các thống chế và chỉ huy. Hãy bảo họ tới chỗ ta càng nhanh càng tốt!”
Con đường giờ dẫn sang phía Đông, cắt ngang thung lũng, ở đó thung chỉ rộng hơn nửa dặm. Những vạt và khóm cỏ lởm chởm rải rác khắp nơi, xám xịt dưới màn đêm đang dần buông xuống, nhưng phía trước, ở đầu kia thung lũng, Merry thấy một vách đá lừng lững, một nhánh chân núi cuối cùng của đỉnh Starkhorn, bị dòng sông xẻ đôi từ rất lâu về trước.
Ở tất cả những nơi bằng phẳng đều có những đoàn người đông đảo tập hợp. Một số dồn lại bên đường, vui mừng hoan hô nhà vua và các kỵ sĩ trở về từ phương Tây; nhưng trải dài về phía xa sau lưng họ còn có những hàng lều trại được dựng lên trật tự, những hàng ngựa buộc vào cọc, nhiều lều trữ vũ khí lớn, và những đống giáo dựng lên tua tủa như thảm cây mới trồng. Lúc này, toàn bãi quân chìm dần vào bóng tối, thế nhưng dù bầu không khí ban đêm lạnh lẽo tràn xuống từ những đỉnh núi cao, không ánh đèn nào sáng lên, không đống lửa nào được thắp. Lính canh mặc áo choàng kín mít đi đi lại lại.
Merry tự hỏi ở đây có bao nhiêu Kỵ Sĩ. Cậu không đoán được số lượng họ trong bóng tối ngày càng dày đặc, nhưng cậu thấy có vẻ đó là một đoàn quân lớn, phải lên tới mấy ngàn người tráng kiện. Trong lúc cậu ngó nghiêng hai bên, đoàn người của nhà vua đã tới chân vách đá lừng lững chắn cạnh phía Đông thung lũng, và ở đó, con đường đột ngột dốc lên, khiến Merry ngước nhìn kinh ngạc. Cậu đang đi trên một con đường không giống bất cứ con đường nào cậu từng thấy, công trình của bàn tay con người từ những năm tháng xa xưa quá cả ký ức trong thơ ca. Đường đi vòng vèo lên mãi, uốn lượn như rắn, cắt vào sườn đá dựng đứng. Dốc như cầu thang, nó ngoặt qua rồi ngoặt lại dẫn lên phía trên. Ngựa có thể đi trên đường, và xe thồ có thể được kéo lên chậm chạp; nhưng không kẻ thù nào có thể đến theo đường đó, trừ phi từ trên trời, nếu nó được phòng thủ từ phía trên. Ở mỗi chỗ ngoặt lại có những khối đá lớn tạc hình người, to lớn và chân tay lóng ngóng, ngồi khoanh chân với đôi cánh tay ngắn mập khoanh trước cái bụng ông địa. Một vài hình khắc đã mất hết đường nét gương mặt dưới sự bào mòn của năm tháng, chỉ còn lại những lỗ mắt tối sẫm vẫn chằm chằm buồn bã nhìn những kẻ đi qua. Các Kỵ Sĩ hầu như không liếc mắt nhìn chúng. Họ gọi chúng là hình nhân Púkel, và không mấy để ý tới chúng: chúng không còn chút kinh hoàng hay quyền năng nào sót lại; nhưng Merry nhìn chúng kinh ngạc và cảm thấy gần như thương hại, khi thấy chúng thêm gần, thê lương trong ánh chạng vạng.
Sau một hồi lâu, cậu ngoảnh lại thấy mình đã lên được khoảng trăm bộ trên thung lũng, nhưng xa phía dưới vẫn lờ mờ thấy dòng Kỵ Binh uốn lượn băng qua khúc cạn và đi hàng một trên con đường tới khu lều trại được chuẩn bị cho họ. Chỉ nhà vua và đội cận vệ đi lên Cứ Điểm.
Cuối cùng, đoàn người của nhà vua tới bờ vách núi thẳng đứng, và con đường đi lên xẻ đôi giữa hai vách đá, lên một quãng dốc ngắn rồi đổ ra một khoảng đất bằng rộng. Người ta gọi nơi này là Firienfeld, một cánh đồng núi phủ cỏ và thạch nam xanh, cao tít phía trên thung lũng sông Snawburna xẻ sâu, nằm ở khúc giao thoa giữa hai khối núi hùng vĩ phía sau: đỉnh Starkhorn phía Nam, và phía Bắc là khối núi Írensaga hình răng cưa; chính giữa, đối diện với các kỵ sĩ, là vách đen đỉnh Dwimorberg, Đỉnh Ma Ám, vụt lên từ những sườn núi dốc phủ đầy những cây thông tối thẫm. Chia đôi cánh đồng núi cao là một hàng đồi những khối đá đứng không hình thù rõ rệt, nhỏ dần vào bóng chạng vạng và biến mất giữa những tán cây. Những ai dám đi theo con đường này rồi sẽ tới rừng đen Dimholt dưới chân đỉnh Dwimorberg, cột đá đầy đe dọa, và bóng tối ngoác miệng trong ô cửa cấm.
Đó chính là Dunharg tăm tối, thành quả của những con người đã bị lãng quên. Tên họ đã mất từ lâu, và không bài ca hay truyền thuyết nào nhắc tới họ. Vì sao họ dựng lên nơi này, làm một thị trấn, một ngôi đền bí mật hay một lăng mộ hoàng gia, không ai ở Rohan có thể trả lời. Ở đây họ đã lao động trong Những Năm Đen Tối, trước khi có con tàu nào cập bến bờ Tây, hay Gondor của người Dúnedain được xây dựng; và giờ thì họ đã biến mất, chỉ còn những hình nhân Púkel là còn lại, vẫn ngồi ở các chỗ ngoặt của con đường.
Merry nhìn hai hàng đá kéo dài: những khối đá mòn và đen đúa; một vài khối nghiêng, một vài khối đổ xuống, một số nứt vỡ; trông chúng giống như hai hàng răng già nua đói ngấu. Cậu tự hỏi chúng có thể là gì, và cậu hy vọng nhà vua sẽ không đi theo chúng vào bóng tối phía trước. Thế rồi cậu thấy có những lều trại cả hai bên hàng đá, nhưng không cái nào dựng gần cụm rừng, trái lại dường như đều tránh đi mà co cụm về phía bờ vách núi. Nửa bên phải trảng Firienfeld rộng hơn, lều trại cũng nhiều hơn; nửa bên trái là một khu trại nhỏ, chính giữa có một nhà lều lớn. Từ phía này, một kỵ sĩ tiến ra chào đón họ, và họ rẽ khỏi con đường.
Khi họ tới gần hơn, Meny thấy kỵ sĩ kia là một người phụ nữ, mái tóc tết dài lấp lánh trong ánh chạng vạng, thế mà nàng đội mũ sắt và trùm giáp tới thắt lưng như một chiến binh, đeo theo kiếm bên sườn.
“Kính mừng Chúa đất Mark!” nàng kêu lên. “Trái tim thần vui sướng khi thấy người trở về.”
“Còn con, Éowyn,” Théoden nói, “mọi chuyện vẫn ổn với con chứ?”
“Tất cả đều ổn,” nàng trả lời; nhưng Merry thấy dường như giọng nàng phản bội nàng, và cậu hẳn sẽ nghĩ nàng vừa khóc, nếu điều đó có thể tin được ở một người có nét mặt nghiêm nghị dường kia. “Tất cả đều ổn. Con đường lên đây thật mệt mỏi đối với người dân của ta, khi đột nhiên phải xa rời ngôi nhà của mình. Cũng có những lời phàn nàn, bởi từ lâu rồi chúng ta chưa bị chiến tranh bắt rời khỏi những cánh đồng xanh; nhưng không hề có rắc rối gì lớn cả. Giờ tất cả đều đã ổn thỏa, như người thấy đó. Và nơi nghỉ của người đã được chuẩn bị rồi; bởi thần được biết tin về người rất đầy đủ, và biết khi nào người tới.”
“Vậy là Aragorn đã tới đây,” Éomer nói. “Anh ấy còn ở đây không?”
“Không, ngài đi rồi,” nàng trả lời, quay mặt đi nhìn về dãy núi tối đen trên nền trời phía Đông và Nam.
“Anh ấy đi đâu vậy?” Éomer hỏi.
“Em không biết,” nàng đáp. “Ngài đến đây vào buổi đêm, và đi vào sáng hôm qua, trước khi Mặt Trời lên qua đỉnh núi. Ngài đã đi rồi.”
“Con buồn khổ, con gái của ta,” Théoden nói. “Chuyện gì đã xảy ra vậy? Nói cho ta biết có phải anh ấy đã nói về con đường đó không?” Ông chỉ theo những hàng đá dần chìm trong bóng tối dẫn về đỉnh Dwimorberg. “Về Lối Người Chết?”
“Vâng, thưa chúa thượng,” Éowyn nói. “Và ngài đã tiến vào bóng tối mà chưa từng ai trở ra. Thần không thể khuyên can được. Ngài đã đi rồi.”
“Vậy là con đường của chúng ta đã chia lìa,” Éomer nói. “Anh ấy đã mất dấu. Chúng ta phải đi tiếp mà không có anh ấy, và hy vọng của chúng ta suy giảm.”
Họ chậm chạp đi qua thảm thạch nam thấp và cỏ vùng cao, không nói gì nữa cho tới khi đến nhà lều của nhà vua. Ở đây, Merry thấy mọi thứ đã sẵn sàng, và thấy mình không bị bỏ quên. Một cái lều nhỏ đã được dựng cho cậu cạnh nơi nghỉ của nhà vua; cậu ngồi một mình trong đó khi con người đi tới đi lui, vào gặp nhà vua và bàn bạc với ông. Buổi đêm kéo đến, những đỉnh núi lấp ló ở phía Tây đội lên vương miện bằng sao, nhưng phương Đông tối và trống trải. Những hàng đá chạy dài từ từ mờ dần không nhìn thấy được, nhưng ở cuối hàng, tối hơn bóng đêm, vẫn mãi thấy cái bóng gù gù mênh mông của đỉnh Dwimorberg.
“Lối Người Chết,” cậu thì thầm. “Lối Người Chết? Tất cả điều này nghĩa là sao vậy? Giờ họ đều đã rời bỏ mình. Họ đều đã đi đến định mệnh nào đó: Gandalf và Pippin tới cuộc chiến ở phía Đông; Sam và Frodo tới Mordor; Sải Chân Dài cùng Legolas và Gimli tới Lối Người Chết. Nhưng rồi cũng sẽ sớm đến lượt mình thôi, mình đoán vậy. Mình tự hỏi tất cả bọn họ đang nói gì với nhau, và đức vua định làm gì. Bởi giờ mình phải tới nơi nào ngài tới.”
Giữa những suy nghĩ ảm đạm này, cậu chợt nhớ rằng mình rất đói, và cậu dậy đi xem có ai khác ở khu trại lạ lùng này cũng thấy đói không. Nhưng đúng lúc ấy tiếng kèn đồng vang lên, và có người tới triệu cậu, hầu cận của đức vua, tới hầu bên bàn ông.
Ở bên trong nhà lều có một khoảng nhỏ ngăn riêng ra nhờ các tấm thảm treo thêu và trải da thú trên mặt đất; bên trong Théoden đang ngồi quanh cái bàn nhỏ cùng Éomer, Éowyn và Dúnhere, chúa thung lũng Hargdal. Merry đứng cạnh ghế đặt chân của nhà vua chờ đợi, cho tới lúc vị vua già thoát khỏi những suy nghĩ trầm tư, quay lại cậu mỉm cười.
“Đến đây, cậu Meriadoc!” ông nói. “Ngươi không phải đứng. Ngươi sẽ ngồi cạnh ta, chừng nào ta còn ở trên đất của mình, và làm khuây khỏa trái tim ta bằng những câu chuyện.”
Người ta dọn chỗ cho chàng Hobbit ở bên tay trái nhà vua, nhưng không ai đòi kể chuyện gì. Thực ra không ai nói chuyện nhiều, và họ ăn uống hầu như trong im lặng, cho tới lúc cuối cùng, thu được đủ can đảm, Meny hỏi câu hỏi cứ luôn hành hạ cậu.
“Đã hai lần rồi, thưa bệ hạ, tôi nghe nhắc đến Lối Người Chết,” cậu hỏi. “Nó là gì thế? Và Sải Chân Dài đâu rồi, ý tôi là Vương tử Aragorn, anh ấy đi đâu?”
Nhà vua thở dài, nhưng không ai trả lời, tới khi cuối cùng Éomer lên tiếng. “Chúng tôi không biết, và trái tim chúng tôi trĩu nặng,” chàng nói. “Nhưng về Lối Người Chết, chính cậu đã bước lên những bước đầu tiên của nó rồi. Không, tôi không nói điềm xấu đâu! Đường chúng ta lên đây là lối tới Cửa Tối, sâu trong rừng Dimholt. Nhưng điều gì nằm bên trong, không ai biết cả.”
“Không ai biết,” Théoden nói: “thế nhưng những truyền thuyết cổ xưa, giờ thì ít khi còn được nhắc đến, từng kể đôi điều về nó. Nếu những truyện kể xa xưa được truyền từ cha sang con trong Gia tộc Eorl là đúng, thì Cửa dưới chân Dwimorberg dẫn tới một lối đi bí mật trong lòng núi đến nơi nào đó đã bị lãng quên. Nhưng không ai từng dám vào tìm kiếm bí mật của nó, kể từ khi Baldor, con trai Brego, đi qua Cửa và không bao giờ còn xuất hiện trước mắt người đời nữa. Người đã lập một lời thề liều lĩnh, trong khi uống cạn sừng rượu ở bữa tiệc Brego tổ chức mừng ngày cất Meduseld, và người không bao giờ tới được chiếc ngai tôn quý thuộc quyền người thừa kế.
“Người ta nói Người Chết từ Những Năm Đen Tối canh gác lối đi, và sẽ không cho người sống nào bước vào những sảnh đường bí mật của họ; nhưng đôi khi người ta thấy chính họ đang lướt qua cửa xuống con đường đá như những cái bóng. Rồi người ở Hargdal vội vàng đóng sập cửa nhà, kéo rèm che cửa sổ mà sợ hãi. Nhưng Người Chết ít khi xuất hiện, chỉ vào thời loạn lạc và chết chóc mà thôi.”
“Còn ở Hargdal đồn đại thế này,” Éowyn thấp giọng nói, “rằng trong những đêm không trăng chỉ cách đây không lâu, một đoàn quân lớn ăn vận kỳ lạ đi qua. Chúng đến từ đâu không ai biết, nhưng chúng đi lên con đường đá và biến mất vào trong đồi, như thể đến một cuộc hẹn.”
“Vậy thì tại sao Aragorn lại đi theo hướng ấy?” Merry hỏi. “Các vị không biết gì giải thích được điều đó à?”
“Trừ phi anh ấy nói với cậu như với một người bạn những lời mà chúng tôi chưa được nghe,” Éomer nói, “thì giờ không ai trên vùng đất người sống biết được mục đích của anh ấy.”
“Ngài đã thay đổi rất nhiều từ khi thần thấy ngài lần đầu trong cung điện của chúa công,” Éowyn nói: “khắc khổ hơn, già dặn hơn. Thần nghĩ ngài như trong cơn mê, giống như kẻ bị Người Chết gọi hồn.”
“Có lẽ anh ta thật sự đã bị gọi hồn,” Théoden nói, “và trái tim mách bảo ta rằng ta sẽ không còn gặp lại anh ta nữa. Nhưng đó là con người có khí chất đế vương với số phận cao quý. Và hãy tìm an ủi trong ý nghĩ này, con gái của ta, vì xem ra con cần an ủi trong nỗi đau buồn dành cho vị khách này. Người ta nói rằng khi dòng giống Eorlingas xuống đây từ phương Bắc và cuối cùng cũng đi ngược dòng Snawburna, tìm kiếm những nơi trú ẩn kiên cố trong khi nguy cấp, Brego và con trai Baldor đã trèo lên Cầu Thang Cứ Điểm và đến trước Cửa Tối. Một ông lão ngồi trên thềm cửa, già nua không thể đoán tuổi tác, xưa đã từng cao lớn và mang khí chất đế vương, nhưng giờ khô héo như một tảng đá lâu đời. Quả thực họ đã nhầm lão là tảng đá, bởi lão không cử động, và không nói lời nào, cho tới khi họ định đi qua lão tiến vào trong. Và rồi một giọng nói cất lên từ lão, như thể cất lên từ mặt đất, và ngạc nhiên thấy, giọng nói ấy dùng ngôn ngữ miền Tây: Cửa vào đã đóng.
“Và họ ngừng bước nhìn sang lão, thấy lão vẫn còn sống; nhưng lão không nhìn họ. Cửa vào đã đóng, giọng lão lại cất lên. Nó được xây bởi những người đã Chết, và Người Chết canh giữ nó, cho tới thời điểm thích hợp. Cửa vào đã đóng.
“Và khi nào thì sẽ tới thời điểm đó? Baldor hỏi. Nhưng người không bao giờ biết được câu trả lời. Bởi ông lão đã tắt thở ngay khi ấy và ngã sấp xuống; và không còn thông tin nào về những người cư ngụ trong dãy núi từ xa xưa còn đến với chúng ta. Nhưng rất có thể cuối cùng thời điểm được tiên báo đã tới, và Aragorn sẽ qua được cửa.”
“Nhưng làm sao người ta phát hiện được có phải thời điểm ấy đã đến hay không, trừ phi dám bước vào Cửa Tối?” Éomer hỏi. “Và con đường đó thần sẽ không đi qua cho dù tất cả lũ quân của Mordor đứng chắn trước thần, dù thần chỉ có một mình và không còn nơi trú ẩn nào khác. Than ôi, cơn mê ấy lại ập lên một người hào hiệp đến vậy trong thời khắc nguy cấp này! Chẳng lẽ những thứ xấu xa ma quỷ phía trên còn chưa đủ mà phải tìm kiếm bên dưới lòng đất hay sao? Chiến tranh đang cận kề.”
Chàng ngừng lời, bởi đúng lúc ấy có tiếng động ở bên ngoài, giọng một người kêu lớn tên Théoden, và tiếng lính canh gặng hỏi.
Lúc này, chỉ huy đội Cận Vệ vén màn ra. “Có người tới đây, thưa chúa công,” anh ta nói, “một Kỵ Sĩ liên lạc từ Gondor. Anh ta mong được diện kiến chúa công ngay lập tức.”
“Cho anh ta vào!” Théoden nói.
Một người đàn ông cao lớn bước vào, và Merry nghẹn lại một tiếng kêu; trong khoảnh khắc cậu thấy dường như Boromir đã sống lại và quay về. Rồi cậu thấy không phải vậy; đây là một người lạ mặt, dù giống Boromir như thể là họ hàng của gã, cao, mắt xám và kiêu hãnh. Anh ta ăn mặc lối kỵ sĩ, áo choáng xám xanh phủ qua áo giáp xích mắt nhỏ; mặt trước mũ sắt có ngôi sao bạc nhỏ. Trong tay anh ta cầm một mũi tên duy nhất, lông đuôi đen và có gai sắt, nhưng mũi sơn đỏ.
Anh ta khuỵu một gối quỳ xuống và dâng mũi tên lên cho Théoden. “Kính chào bệ hạ, Chúa người Rohirrim, bạn của Gondor!” anh nói. “Tôi là Hirgon, kỵ sĩ liên lạc của Denethor, được lệnh chuyển cho bệ hạ tín vật báo chiến tranh này. Gondor đang nguy cấp. Người Rohan đã nhiều lần trợ giúp chúng tôi, nhưng giờ Chúa Denethor mong có được tất cả sức mạnh và tất cả tốc độ của ngài, bởi nếu không, e rằng cuối cùng Gondor sẽ thất thủ.”
“Mũi Tên Đỏ!” Théoden kêu lên, cầm lấy nó, vẻ như một người nhận được lời triệu tập đã mong đợi từ lâu, nhưng lại sợ khi nó tới. Tay ông run rẩy. “Mũi Tên Đỏ đã không xuất hiện trên đất Mark suốt những năm tháng trị vì của ta! Thật sự đã tới nước này sao? Và Chúa Denethor nghĩ rằng tất cả sức mạnh và tất cả tốc độ của ta sẽ được bao nhiêu?”
“Điều đó ngài hiểu rõ hơn ai hết, thưa bệ hạ,” Hirgon nói. “Nhưng chắc hẳn không còn lâu nữa Minas Tirith sẽ bị bao vây, và trừ phi ngài có sức mạnh đủ phá vòng vây hãm của rất nhiều lực Iượng, Chúa Denethor lệnh cho tôi thưa với bệ hạ, người phán đoán rằng tốt hơn hết những tráng sĩ Rohirrim hùng mạnh hãy ở bên trong tường thành của người, hơn là ở bên ngoài.”
“Nhưng ngài hẳn biết rằng dân tộc chúng ta thường chiến đấu trên lưng ngựa và trên đất rộng, người của chúng ta sống rải rác và sẽ cần thời gian mới tập hợp được các Kỵ Sĩ của chúng ta. Hirgon, có phải Chúa thành Minas Tirith biết nhiều hơn điều ngài nói trong thông điệp của mình không? Bởi chúng ta cũng đã lâm vào chiến tranh, như anh đã thấy đấy, và anh đâu có thấy chúng ta chưa chuẩn bị. Gandalf Áo Xám đã ở đây với chúng ta, và ngay giữa lúc này, chúng ta đang hội quân để đón đầu cuộc chiến ở phía Đông.”
“Chúa Denethor biết hoặc phán đoán ra sao về tất cả những điều này, tôi không biết được,” Hirgon trả lời. “Nhưng tình thế của chúng tôi thật sự khẩn cấp. Quốc quản chúng tôi không ra lệnh cho bệ hạ, người chỉ khẩn cầu bệ hạ nhớ tới tình bằng hữu lâu đời và những lời ước xa xưa, và làm tất cả những điều có thể, vì chính đất nước của ngài. Chúng tôi được báo rằng nhiều vị vua đã đến từ phía Đông đầu quân dưới tay Mordor. Từ phía Bắc tới đồng Dagorlad, đã có những trận giao tranh nhỏ và tin đồn về chiến tranh. Ở phía Nam, những người Haradrim đang hành quân, và nỗi sợ hãi bao trùm khắp những miền duyên hải, vì vậy chúng tôi không mong được nhiều trợ giúp từ phía đó. Xin hãy nhanh lên! Bởi chính trước tường thành của Minas Tirith là nơi định mệnh của thời đại chúng ta sẽ được quyết định, và nếu cơn triều không bị chặn tại đó, nó sẽ tràn tới tất cả những cánh đồng phì nhiêu của Rohan, và thậm chí ngay cả Cứ Điểm miền núi non này cũng sẽ không thể trở thành nơi ẩn náu.”
“Những tin tức hắc ám,” Théoden nói, “tuy không phải hoàn toàn không dự đoán được. Nhưng hãy nói với Denethor rằng ngay cả nếu Rohan không cảm thấy hiểm họa, chúng ta cũng sẽ đến trợ giúp ngài. Nhưng chúng ta đã chịu nhiều tổn thất trong những trận chiến với tên phản bội Saruman, và chúng ta cũng vẫn phải lo cho biên giới phía Bắc và phía Đông, như chính những tin tức của ngài cho thấy. Giờ có vẻ quyền năng của Chúa Tể Hắc Ám hùng mạnh đến mức dù hắn tung quân đủ mạnh để kiềm tỏa chúng ta trong trận chiến trước Kinh Thành, hắn vẫn có thể giáng đòn tấn công mạnh mẽ vượt Sông Cả cách xa Cổng Hai Vua.
“Nhưng chúng ta sẽ không bàn bạc những lời dè dặt nữa. Chúng ta sẽ đến. Cuộc khởi binh đã được ấn định vào ngày mai. Khi tất cả được thu xếp, chúng ta sẽ lên đường. Ta đã từng có thể cử đi mười ngàn ngọn giáo phi qua đồng bằng để gieo tai vạ cho kẻ thủ của các anh. Giờ ta sợ số lượng sẽ ít hơn; bởi ta sẽ không bỏ lại thành trì của mình không ai bảo vệ. Nhưng ít nhất sáu ngàn quân sẽ đi theo ta. Hãy nói với Denethor rằng vào thời khắc này, đích thân Vua đất Mark sẽ phi ngựa đến vương quốc Gondor dù cho có thể ông ta sẽ không quay trở về nữa. Nhưng đó là một chặng đường dài, người và ngựa đều phải còn sức chiến đấu khi đến nơi. Ước tính một tuần kể từ sáng mai, anh sẽ nghe thấy tiếng Hậu Duệ Eorl đến từ phía Bắc.”
“Một tuần!” Hirgon kêu lên. “Nếu phải như vậy thì đành như vậy. Nhưng bảy ngày nữa, bệ hạ có lẽ sẽ chỉ thấy những bức tường thành đổ nát, trừ phi có thêm sự trợ giúp bất ngờ mà chúng tôi chưa đoán được. Dù sao, ít nhất ngài có thể quấy phá lũ Orc và bọn Ngăm Đen đang dở tiệc ăn mừng trong tòa Tháp Trắng.”
“Ít nhất chúng ta cũng sẽ làm như vậy,” Théoden nói. “Nhưng chính ta cũng mới trở về từ chiến trận cùng một chuyến đi dài, và giờ ta sẽ nghỉ. Hãy lưu lại đây đêm nay. Rồi anh có thể chứng kiến cuộc hội quân Rohan và trở về vui vẻ hơn vì cảnh đó, và nhanh hơn vì được nghỉ ngơi. Các mưu tính vẫn minh mẫn hơn vào buổi sáng, và đêm làm thay đổi nhiều suy nghĩ.”
Nói xong, nhà vua đứng dậy, và họ đều đứng lên. “Giờ mỗi người hãy trở về nghỉ đi,” ông nói, “và ngủ ngon giấc. Còn ngươi, cậu Meriadoc, ta không cần ngươi vào đêm nay nữa. Nhưng hãy sẵn sàng đợi ta triệu tập ngay khi Mặt Trời lên.”
“Tôi sẽ sẵn sàng,” Merry nói, “kể cả dù bệ hạ lệnh cho tôi cùng đi với người lên Lối Người Chết.”
“Đừng nói gở!” nhà vua nói. “Bởi có thể có nhiều con đường ngoài đường đó cũng mang cái tên này. Nhưng ta không nói ta sẽ lệnh cho ngươi cùng đi với ta trên bất cứ con đường nào. Ngủ ngon!”
“Mình sẽ không bị bỏ lại, chờ gọi đến chỉ khi nào người ta trở về!” Merry nói. “Mình sẽ không bị bỏ lại, không đâu.” Lặp đi lặp lại những lời đó với mình, cuối cùng cậu cũng thiếp ngủ trong lều.
Cậu được một người lay mình đánh thức. “Dậy đi, dậy đi, cậu Holbytla!” anh ta kêu lên; và rốt cuộc Merry rời khỏi những giấc mơ sâu và giật mình ngồi dậy. Trời vẫn còn rất tối mà, cậu nghĩ.
“Có chuyện gì thế?” cậu hỏi.
“Đức vua cho đòi anh.”
“Nhưng Mặt Trời chưa lên, vẫn chưa mà,” Merry nói.
“Không, và sẽ không lên ngày hôm nay, cậu Holbytla ạ. Không bao giờ nữa, dưới đám mây này người ta dễ nghĩ như vậy đấy. Nhưng dù vậy, thời gian không dừng lại, dù Mặt Trời có mất. Nhanh lên!”
Khoác vội quần áo, Merry nhìn ra ngoài. Thế giới tối mờ. Ngay cả không khí cũng như ám nâu, tất cả mọi thứ đều xám tối và không hắt bóng; yên lặng nặng nề. Không thấy bóng dáng đám mây nào, trừ ở rất xa về phía Tây, nơi những ngón tay xa nhất của bóng tối dày đặc vẫn đang trườn về phía trước, để một chút ánh sáng lọt qua. Thẳng trên đầu là một vòm bóng đêm nặng nề, tối sẫm và không có đường nét, ánh sáng dường như đang tắt dần thay vì hửng lên.
Merry thấy nhiều người đang đứng, ngước lên thì thầm; gương mặt ai cũng cau có và buồn bã, và một vài người sợ hãi. Với trái tim trĩu nặng, cậu tới chỗ nhà vua. Hirgon, kỵ sĩ Gondor đã ở đó trước cậu, và cạnh anh ta lúc này còn một người đàn ông nữa, cũng giống như anh ta và ăn mặc tương tự, nhưng thấp và bé người hơn. Khi Merry bước vào, người này đang nói chuyện với nhà vua.
“Nó đến từ Mordor, thưa bệ hạ,” anh ta nói. “Nó bắt đầu từ đêm qua vào lúc hoàng hôn. Từ những ngọn đồi ở Eastfold vương quốc của bệ hạ, tôi thấy nó dâng lên và trườn qua bầu trời, và cả đêm trên đường tôi phóng đi, nó đuổi theo phía sau nuốt chửng những vì sao. Giờ đám mây khổng lồ này đang lơ lửng trên toàn bộ miền đất từ đây tới Dãy Núi Bóng Đêm; và nó đang dày thêm. Chiến tranh đã bắt đầu rồi.”
Nhà vua yên lặng hồi lâu. Cuối cùng ông nói. “Vậy là cuối cùng chúng ta cũng tới nước này,” ông nói: “trận đại chiến trong thời đại của chúng ta, sẽ khiến nhiều thứ biến mất. Nhưng ít nhất thì cũng không cần ẩn náu nữa. Chúng ta sẽ phóng đi trên đường thẳng và đường rộng, với tất cả tốc độ có thể đạt được. Cuộc hội quân sẽ được bắt đầu ngay lập tức, và sẽ không đợi ai nấn ná. Anh đã chuẩn bị đủ đồ dự trữ ở Minas Tirith chưa? Bởi nếu giờ chúng ta phải lao đi nhanh nhất, thì chúng ta phải đi nhẹ nhàng, mang thức ăn và nước uống chỉ đủ đưa chúng ta vào cuộc chiến.”
“Chúng tôi đã chuẩn bị rất nhiều từ lâu rồi,” Hirgon trả lời. “Giờ xin hãy đi nhanh và nhẹ nhất có thể!”
“Vậy hãy gọi lính hiệu lệnh đi Éomer,” Théoden nói. “Gọi đội Kỵ Binh vào hàng ngũ!”
Éomer đi ra, rồi tiếng kèn đồng vang lên trong Cứ Điểm, và được nhiều tiếng kèn khác trả lời từ phía dưới; nhưng tiếng kèn không còn trong trẻo và gan dạ như khi Merry nghe thấy đêm hôm trước. Chúng nghe đục và the thé trong bầu không khí nặng nề, chói tai như điềm gở.
* * *
Nhà vua quay sang Merry. “Ta sắp bước vào cuộc chiến, cậu Meriadoc,” ông nói. “Không bao lâu nữa ta sẽ lên đường. Ta giải phóng cho ngươi khỏi bổn phận phụng sự ta, nhưng không phải là chấm dứt tình bạn của ta. Ngươi sẽ chờ ở đây, và nếu muốn, ngươi sẽ phụng sự Công Chúa Éowyn, người sẽ cai trị thần dân thay cho ta.”
“Nhưng, nhưng, thưa bệ hạ,” Merry nói lắp, “tôi đã dâng lên bệ hạ thanh kiếm của tôi. Tôi không muốn phải rời khỏi bệ hạ như thế này, Théoden Vương. Và tất cả bạn bè tôi đều đã bước vào cuộc chiến, tôi sẽ cảm thấy thật xấu hổ nếu ở lại đằng sau.”
“Nhưng chúng ta cưỡi trên những con ngựa cao và nhanh,” Théoden nói; “và dù có trái tim đáng quý, ngươi không thể cưỡi trên những con ngựa như vậy.”
“Vậy hãy buộc tôi lên lưng một con, hoặc treo tôi vào bàn đạp ngựa, hoặc thế nào cũng được,” Merry nói. “Đó là một chặng đường dài, nhưng tôi sẽ chạy, nếu tôi không thể cưỡi ngựa, kế cả dù tôi đi mòn cả bàn chân và đến trễ hàng tuần lễ.”
Théoden mỉm cười. “Thế thì thà ta để ngươi cưỡi cùng ta trên lưng Snawmana,” ông nói. “Nhưng ít nhất ngươi sẽ đi cùng ta tới Edoras và nhìn thấy Meduseld, bởi ta sẽ đi theo đường đó. Tạm thời Stybba vẫn có thể chở ngươi: cuộc phi nước đại còn chưa bắt đầu cho đến khi chúng ta tới đồng bằng.”
Rồi Éowyn đứng dậy. “Đi nào, Meriadoc!” nàng nói. “Tôi sẽ cho cậu xem quân trang mà tôi chuẩn bị cho cậu.” Họ cùng nhau ra ngoài. “Đây là yêu cầu duy nhất của Aragorn đối với tôi,” Éowyn nói, trong khi họ đi qua các túp lều, “rằng phải trang bị cho cậu vào cuộc chiến. Tôi đã cố gắng thực hiện hết sức có thể. Bởi trái tim tôi mách bảo rằng cậu sẽ cần những đồ quân trang đó.”
Giờ nàng dẫn Merry tới một ngôi lều giữa khu ở dành cho đội cận vệ của nhà vua, và ở đó, người phụ trách vũ khí mang ra cho nàng cái mũ sắt nhỏ, một cái khiên tròn và những quân trang khác.
“Chúng tôi không có áo giáp nào vừa được cậu,” Éowyn nói, “cũng không có thời gian để rèn một cái; nhưng ở đây cũng có áo da chắc, thắt lưng và một con dao. Kiếm thì cậu đã có rồi.”
Merry cúi đầu, và công chúa đưa cho cậu cái khiên, giống như chiếc khiên da được trao cho Gimli, trên có biểu trưng con ngựa trắng. “Cầm lấy tất cả những thứ này đi,” nàng nói, “và cầu cho phúc lành đến với chúng! Giờ hãy bảo trọng, cậu Meriadoc! Nhưng chúng ta có thể sẽ còn gặp lại nhau, cậu và tôi.”
Vậy là giữa bóng tối ngày càng dày đặc, Vua đất Mark chuẩn bị lãnh đạo tất cả các Kỵ Sĩ đi lên con đường về phía Đông. Những trái tim trĩu nặng và nhiều người run sợ trong bóng tối. Nhưng họ là một dân tộc kiên cường, trung thành với đức Vua, và không nghe thấy nhiều tiếng khóc than hoặc tiếng thì thầm, kể cả trong khu trại Cứ Điểm dành cho những người chạy nạn khỏi Edoras, phụ nữ, trẻ em và người già. Định mệnh lơ lửng trên đầu họ, nhưng họ im lặng đối mặt với nó.
Hai giờ nhanh chóng trôi qua, và lúc này nhà vua ngồi trên con ngựa trắng, lấp lánh trong ánh sáng lờ mờ. Ông trông cao và kiêu hãnh, dù mái tóc bên dưới mũ trụ bay tung như tuyết, và nhiều người kinh ngạc nhìn ông, phấn chấn hơn khi thấy ông không khom lưng, và không sợ hãi.
Tại khu đất bằng rộng lớn bên cạnh dòng sông ồn ào, các kỵ sĩ xếp đội ngũ thành nhiều quân đoàn, gần năm ngàn rưởi Kỵ Sĩ vũ trang đầy đủ, và hàng trăm người khác trên những con ngựa còn lại, chất nhẹ hơn. Một tiếng kèn hiệu lệnh duy nhất vang lên. Nhà vua đưa tay lên, và rồi đoàn quân đất Mark im lặng di chuyển. Đi trước là mười hai người trong số gia binh của nhà vua, những Kỵ Sĩ nổi danh. Rồi tiếp tục tới nhà vua, Éomer đi bên phải. Ông đã tạm biệt Éowyn ở trên Cứ Điểm, và ký ức ấy làm ông buồn khổ; nhưng giờ ông tập trung vào con đường phía trước. Đằng sau ông, Merry cưỡi con Stybba cùng hai lính liên lạc Gondor, và sau đó lại là mười hai người gia binh của nhà vua nữa. Họ đi qua hàng dài quân lính đang chờ đợi, gương mặt nghiêm trang không biểu cảm. Nhưng khi họ đi gần đến cuối hàng, một người đưa mắt lên liếc chàng Hobbit sắc bén. Một người trẻ tuổi, Merry nghĩ khi đáp lại cái nhìn đó, thấp và thon thả hơn hầu hết những người khác. Cậu thấy tia sáng trong đôi mắt xám trong trẻo ấy, và rồi cậu rùng mình, bởi đột nhiên nhận ra đó là gương mặt của một người không còn hy vọng, đi tìm cái chết.
Dọc theo con đường xám, họ đi bên dòng Snawburna vẫn ầm ầm chảy trên lòng đá cuội; qua các làng Underharg Dưới Miếu và Upburna Đầu Nguồn, nơi nhiều gương mặt phụ nữ buồn bã nhìn ra từ những ô cửa tối sầm; và không đệm tiếng tù và, đàn hạc hay tiếng người ca hát, cuộc hành quân vĩ đại về phương Đông bắt đầu, mà sau này, những bài ca Rohan rồi sẽ cất lên ngợi ca suốt nhiều thế hệ.
Khởi đi từ Dunharg tăm tối trong buổi mai tờ mờ
dẫn theo kiếm đồng cùng tướng soái người con trai Thengel:
Người phi về đến Edoras, cung điện xưa tổ tông
bao thế hệ chủ nhân đất Mark giờ phủ trong mù sương;
lớp lớp gỗ cao bọc vàng dát nay khoác màu âm u.
Lưu tình người nhủ câu giã biệt cùng muôn dân tự do,
cùng ngai tôn quý cùng vuông bếp, cùng chốn xưa linh thiêng
mấy thuở từng quây quần yến tiệc, thời ánh ngày chưa tan.
Hùng dũng này đức vua xung trận, hãi sợ gạt đằng sau,
đằng trước dẫn đầu là số phận. Lòng trung xin vâng theo;
tự cổ còn truyền lời ước hẹn, đời lại đời vẹn toàn.
Hùng dũng này Théoden xung trận. Năm ngày năm đêm tròn
đoàn kỵ mã Eorlingas vũ bão phi về Đông
vượt Folde lại băng qua Fenmark qua rừng Firionholt,
sáu ngàn ngọn giáo từ đất Mark tới miền Sunnlending,
oai hùng Mundburg tòa bạch tháp dưới chân Mindolluin,
kinh thành trải mấy đời Vua biển đế đô vương quốc Nam
giữa vòng địch hãm đương rên xiết, lửa rùng rùng vây quanh.
Khẩn trương định mệnh dồn chân ngựa. Bóng tối ôm vào lòng
cả đoàn chiến sĩ cùng chiến mã; nhịp vó khua xa dần
tới kỳ mất hút vào lặng lẽ: ấy chuyện xưa còn truyền.
Đúng là nhà vua đã tới Edoras trong bóng tối ngày càng dày đặc, mặc dù lúc đó là giữa buổi trưa. Tại đây ông chỉ dừng lại một lúc, bổ sung quân lực thêm chừng sáu mươi Kỵ Sĩ đến muộn lễ khởi binh. Sau khi ăn xong, ông lại chuẩn bị lên đường, và hiền từ chào tạm biệt anh chàng hầu cận. Nhưng Merry lần cuối cùng cầu xin không bị tách khỏi ông.
“Đây không phải là cuộc hành trình dành cho giống ngựa như Stybba, ta đã nói với ngươi rồi,” Théoden nói. “Và trong trận chiến mà chúng ta sắp bước vào trên những cánh đồng Gondor, ngươi sẽ làm gì, cậu Meriadoc, dù ngươi đúng là kiếm đồng của ta, và mang trái tim lớn lao hơn vóc dáng?”
“Về điều đó, ai có thể nói được?” Merry trả lời. “Nhưng tại sao, thưa bệ hạ, tại sao người nhận tôi làm kiếm đồng, nếu không phải để luôn ở bên người? Và tôi sẽ không chịu để những bài ca nhắc tới mình là kẻ luôn bị bỏ lại!”
“Ta nhận ngươi để bảo vệ an toàn cho ngươi,” Théoden trả lời; “và cũng để ngươi làm theo những gì ta ra lệnh. Không Kỵ Sĩ nào của ta có thể chở theo ngươi. Nếu trận chiến đến trước những cánh cổng của ta, có thể những ca công sẽ hát về các chiến công của ngươi; nhưng đây là cả trăm linh hai lý tới Mundburg nơi Denethor làm chúa. Ta sẽ không nói gì thêm nữa.”
Merry cúi mình chào và buồn rầu bước ra, chằm chằm nhìn những hàng kỵ sĩ. Các đoàn quân đã chuẩn bị lên đường: họ siết chặt đai cương, kiểm tra yên cương, vuốt ve những chú ngựa, một vài người bất an liếc lên bầu trời sà thấp. Không ai nhận thấy một Kỵ Sĩ bước đến nói thầm vào tai chàng Hobbit.
“Khi ý chí không mềm yếu, lối đường sẽ mở ra, chúng tôi vẫn nói như vậy,” người đó thì thầm; “và tôi đã thấy như vậy.” Merry ngước lên và nhận ra chàng Kỵ Sĩ trẻ cậu đã chú ý vào buổi sáng. “Cậu muốn tới nơi nào Chúa đất Mark tới; tôi thấy điều đó trên gương mặt cậu.”
“Tôi muốn thế,” Merry nói.
“Vậy cậu sẽ đi với tôi,” chàng Kỵ Sĩ nói. “Tôi sẽ chở cậu ngồi đằng trước, dưới áo choàng của tôi cho tới khi chúng ta đi xa, và bóng tối này dày đặc hơn nữa. Thiện ý như vậy không nên bị từ chối. Đừng nói gì với ai nữa, mà đi thôi!”
“Thật cảm ơn ngài!” Merry kêu lên. “Cảm ơn ngài, dù tôi không biết tên ngài.”
“Cậu không biết sao?” chàng Kỵ Sĩ nhẹ nhàng nói. “Vậy hãy gọi tôi là Dernhelm.”
Vậy là khi nhà vua lên đường, chàng Hobbit Meriadoc ngồi trước ngựa Dernhelm, và con tuấn mã Windfola màu xám không ngần ngại gì gánh nặng này; bởi Dernhelm nhẹ hơn nhiều người đàn ông khác, dù vóc dáng dẻo dai và chắc nịch.
Họ phi mãi vào bóng tối. Tại những bụi liễu nơi dòng Snawburna chảy vào Luồng Ent, mười hai lý về phía Đông Edoras, họ dựng trại đêm đó. Và rồi lại khởi hành đi qua Folde, và qua Fenmark, nơi bên phải họ, những cây sồi cao ngất mọc dày ven chân vệt đồi dưới bóng ngọn Halifirien tối sẫm ở biên giới Gondor; nhưng bên trái tận đằng xa, sương mù kéo dày đặc trên những đầm lầy được cửa sông Luồng Ent nuôi dưỡng. Và trên đường họ lao đi, tin đồn đến nơi báo về chiến sự phương Bắc. Những Kỵ Sĩ đơn độc phi như gió cuốn, mang tin về kẻ thù tấn công biên giới phía Đông của họ, về những quân đoàn Orc tiến vào Thảo Nguyên Rohan.
“Phi đi! Phi đi!” Éomer kêu lên. “Đã quá muộn để quay sang hướng khác. Đầm lầy Entwasc phải bảo vệ bên sườn chúng ta. Giờ chúng ta cần tốc độ. Phi đi!”
Và như vậy, Vua Théoden rời khỏi vương quốc của mình, và từng dặm từng dặm đường ngoằn ngoèo trôi qua, những ngọn đồi hiệu lướt qua họ: Calenhad, Min-Rimmon, Erelas, Nardol. Nhưng lửa trên đồi đã bị dập hết. Tất cả các miền đất đều xám xịt và yên lặng; và bóng tối mỗi lúc thêm nặng trĩu đằng trước họ, và hy vọng thêm tàn lụi trong mỗi trái tim.