← Quay lại trang sách

Chương IV CUỘC VÂY HÃM GONDOR

Pippin được Gandalf gọi dậy. Nến thắp trong phòng họ, bởi tràn vào từ cửa sổ chỉ có ánh sáng tù mù; không gian nặng nề như có cơn giông tố sắp kéo đến.

“Mấy giờ rồi?” Pippin ngáp.

“Đã qua giờ thứ hai,” Gandalf trả lời. “Đến lúc dậy và ăn mặc chỉnh tề rồi. Ngươi được Chúa Thành triệu tập để thông báo về nhiệm vụ mới của ngươi.”

“Và ngài sẽ cho cháu bữa sáng chứ?”

“Không! Ta đã cho ngươi rồi: đó là tất cả những gì ngươi được ăn cho đến trưa. Thức ăn giờ được phân phát theo lệnh.”

Pippin rầu rĩ nhìn ổ bánh mì nhỏ và lát bơ (cậu nghĩ) rất không đủ đặt trước mặt, cạnh một tách sữa loãng. “Tại sao ông lại mang cháu tới đây?” cậu hỏi.

“Ngươi biết rõ rồi,” Gandalf nói. “Để ngươi khỏi làm những trò quậy phá; và nếu ngươi không thích ở đây, hãy nhớ rằng ngươi đã tự rước điều này vào thân.” Pippin không nói gì nữa.

Không lâu sau, cậu đã lại đi bên Gandalf theo dải hành lang lạnh lẽo tới cánh cửa Đại Sảnh Tháp. Bên trong, Denethor ngồi trong bóng tối xám xịt, cứ y như con nhện già kiên nhẫn, Pippin nghĩ; ông ta dường như chưa hề di chuyển từ ngày hôm qua. Ông ta làm hiệu mời Gandalf ngồi xuống, nhưng Pippin bị bỏ đứng một hồi lâu. Rồi sau ông già cũng quay sang cậu:

“Chà, cậu Peregrin, ta hy vọng ngươi đã sử dụng ngày hôm qua có ích theo ý mình? Dù ta đoán chắc bàn ăn ở thành phố này trống rỗng hơn ngươi ao ước.”

Pippin có cảm giác không thoải mái rằng hầu hết những điều cậu nói hoặc làm đã đến tai vị Chúa Thành bằng cách nào đó, và ngay cả ý nghĩ của cậu cũng bị đoán ra phần lớn. Cậu không trả lời.

“Ngươi có thể làm gì để phụng sự ta?”

“Tôi tưởng, thưa Quốc Quản, ngài sẽ cho tôi biết bổn phận của mình.”

“Ta sẽ làm vậy, khi ta biết được ngươi phù hợp làm gì,” Denethor nói. “Nhưng điều đó ta sẽ biết được sớm nhất, có lẽ vậy, nếu ta giữ ngươi bên cạnh ta. Hầu cận trong cung ta đã van xin được ra trấn đồn ngoài, nên ngươi sẽ thay vị trí đó trong một thời gian. Ngươi sẽ đứng chầu bên ta, chạy liên lạc, và nói chuyện với ta, nếu chiến tranh và hội nghị cho ta chút xả hơi nào. Ngươi biết hát chứ?”

“Vâng,” Pippin đáp. “Cũng hay, vâng, hay so với đồng bào của tôi. Nhưng chúng tôi không có bài hát nào phù hợp cho sảnh đường lớn và trong thời nguy cấp, thưa Quốc Quản. Chúng tôi ít khi hát về thứ gì tồi tệ hơn mưa gió. Và hầu hết các bài hát đều nói về những gì khiến chúng tôi cười; hoặc về thức ăn và đồ uống, dĩ nhiên.”

“Và tại sao những bài hát đó lại không phù hợp cho những sảnh đường của ta, hoặc vào những thời điểm như thế này? Chúng ta, những người đã sống lâu dưới Bóng Tối chắc chắn cũng được nghe tiếng vọng từ miền đất không bị nó quấy nhiễu chứ? Rồi chúng ta có thể cảm thấy sự canh phòng của mình không vô ích, cho dù có thể chỉ được nhận lại sự vô ơn.”

Trái tim Pippin chùng xuống. Cậu không khoái ý nghĩ phải hát bất cứ bài hát Quận nào cho ông Chúa Minas Tirith, chắc chắn không phải những bài hát đùa cợt mà cậu thuộc nhất; chúng có vẻ quá, chà, quá nhà quê cho những dịp như thế này. Dù sao hiện tại cậu cũng được tạm tha chuyện đó. Cậu không bị yêu cầu hát. Denethor quay sang Gandalf, hỏi chuyện về người Rohan và chính sách của họ, và địa vị của Éomer, cháu ruột nhà vua. Pippin ngạc nhiên trước lượng thông tin mà vị Quốc Quản biết về một dân tộc sống cách xa mình như vậy, dù hẳn đã nhiều năm trôi qua rồi, cậu nghĩ, kể từ lần cuối Denethor thân chinh đi xa.

Tiếp đó Denethor phẩy tay ra hiệu cho Pippin lui ra. “Hãy tới kho vũ khí Hoàng Thành,” ông ta nói, “lãnh chế phục và quản trang của Tháp. Chúng đã được chuẩn bị xong. Lệnh đã ban vào ngày hôm qua. Hãy quay lại đây khi ngươi đã ăn mặc tề chỉnh!”

Việc đúng như ông đã nói; và chẳng mấy chốc Pippin đã khoác lên mình những y phục kỳ lạ, tất cả đều màu đen và bạc. Cậu có một chiếc áo giáp xích dài nhỏ, vòng xích bằng sắt, quả vậy, nhưng đen nhánh như huyền; và mũ trụ chóp cao với những cánh quạ nhỏ ở hai bên, khảm ngôi sao bạc ở chính giữa vành mũ. Khoác ngoài áo giáp là một chiếc áo trùm đen, nhưng thêu biểu tượng Cây Trắng trên ngực bằng chỉ bạc. Quần áo cũ của cậu bị gấp lại và mang đi, nhưng câu được cho phép giữ lại cái áo choàng Lórien xám, dù không được mặc khi đang làm nhiệm vụ. Cậu lúc này trông đích thực là Ernil I Pheriannath, Hoàng tử người Tí Hon, như người ta gọi cậu; nhưng cậu cảm thấy không yên. Và bóng tối bắt đầu đè nặng lên tinh thần cậu.

Cả ngày đều tối nhờ nhờ. Từ buổi bình minh thiếu vắng mặt trời tới buổi chiều, bóng tối nặng nề càng mù mịt hơn, và mọi trái tim trong Kinh Thành đều như bị bóp nghẹt. Trên cao, một đám mây lớn chậm chạp trôi về phía Tây từ Vùng Đất Đen, ngốn ngấu ánh sáng, nương trên ngọn gió chiến tranh; nhưng ở dưới, bầu không khí ngưng đọng và lặng ngắt, như thể tất cả Thung Lũng Anduin đang chờ đợi những đợt đầu tiên của cơn bão hủy diệt.

Khoảng giờ thứ mười một, cuối cùng cũng được tạm dừng nghĩa vụ một lát, Pippin ra ngoài đi tìm thức ăn đồ uống để an ủi trái tim nặng nề và khiến nhiệm vụ hầu cận còn chịu đựng được. Trong quán ăn tập thể, cậu lại gặp Beregond vừa trở về từ chuyến đi qua đồng Pelennor tới những Tháp canh trên bờ Đường Cao. Họ cùng nhau đi tới bên tường thành; bởi Pippin cảm thấy tù túng khi ở trong nhà và ngột ngạt ngay cả trên Hoàng Thành cao. Giờ họ lại ngồi cạnh nhau tại lỗ châu mai trông về phía Đông, nơi họ đã ăn uống và nói chuyện ngày hôm trước.

Đã tới giờ hoàng hôn, nhưng màn tối trên đầu giờ đã trải dài về phương Tây, và chỉ khi cuối cùng cũng chìm xuống Đại Dương, vầng Măt Trời mới thoát được ra một tia sáng từ biệt ngắn ngủi trước khi đêm xuống, chính là lúc Frodo thấy nó ở Ngã Tư đường, chạm xuống đầu vị vua lâm nạn. Nhưng những cánh đồng Pelennor, dưới bóng tối đỉnh Mindolluin, thì không được tia sáng nào: chúng nằm nâu xỉn ảm đạm.

Pippin cảm thấy dường như hàng năm trời đã trôi qua kể từ khi cậu ngồi ở đó lần trước, vào thời kỳ nào đó gần như đã bị lãng quên, khi cậu vẫn còn là một người Hobbit, một người lãng du vô tư lự, hầu như không bị ảnh hưởng bởi những hiểm nguy đã trải qua. Giờ cậu là một người lính nhỏ bé trong một thành phố đang chuẩn bị đương đầu với cuộc tấn công dữ dội, ăn mặc theo phong cách kiêu hãnh nhưng thâm trầm của Tháp Canh.

Vào khoảng thời gian khác, ở nơi chốn khác, Pippin hẳn đã cảm thấy hài lòng với nhung phục mới của mình, nhưng giờ cậu biết điều cậu đang tham gia chẳng phải chơi đùa; cậu đích thực là bầy tôi của người chủ nhân khắc nghiệt trong hiểm nguy tàn khốc nhất. Cái áo giáp dài rất vướng víu, và mũ trụ nặng trịch trên đầu cậu. Áo choàng đã bị vứt sang bên cạnh trên ghế. Cậu dứt ánh mắt mệt mỏi khỏi những cánh đồng đang chìm vào bóng tối và ngáp, rồi cậu thở dài.

“Ngày hôm nay cậu rất mệt mỏi phải không?” Beregond hỏi.

“Vâng,” Pippin nói, “rất mệt mỏi: mệt mỏi với cảnh ngồi rồi và chờ đợi. Tôi đã gõ gót chân trước cửa phòng của chủ nhân tôi trong nhiều giờ chậm chạp, trong khi ngài thảo luận với Gandalf, Hoàng thân và những vị tai to mặt lớn khác. Và cậu Beregond ạ, tôi không quen ôm cái bụng mốc meo chầu chực bên người khác trong khi họ ăn uống. Đó là thử thách ghê gớm với người Hobbit. Chắc chắn anh sẽ nghĩ tôi nên cảm nhận vinh dự dành cho tôi một cách sâu sắc hơn. Nhưng thứ vinh dự kiểu đó thì hay ho gì chứ? Thực vậy, ngay cả thức ăn hay đồ uống thì cũng có tốt đẹp gì đâu dưới bóng tối bò lan này? Điều đó có nghĩa gì vậy? Ngay cả không khí dường như cũng dày đặc và màu nâu! Các anh có thường gặp thứ bóng tối này khi gió thổi về hướng Đông không?”

“Không,” Beregond nói, “đây không phải là thời tiết của thế giới này. Đây là trò ma quỷ hiểm độc gì đó của hắn; khói nóng từ ngọn Núi Lửa mà hắn sai đi phủ bóng đen lên những trái tim và chủ kiến. Và quả thật nó đã có tác dụng. Tôi ước giá mà Chúa Faramir trở về. Ngài thì sẽ không nhụt chí. Nhưng giờ, ai biết được liệu ngài có bao giờ trở lại từ trong Bóng Tối bên kia Sông Cả?”

“Phải,” Pippin nói, “cả Gandalf cũng lo lắng. Tôi nghĩ ông ấy thất vọng khi không gặp Faramir ở đây. Và ông ấy đi đâu rồi? Ông ấy rời khỏi hội nghị của Chúa Thành trước bữa trưa, và cũng không trong tâm trạng tốt đẹp gì, tôi nghĩ vậy. Có lẽ ông có linh tính về tin tức xấu.”

* * *

Đột nhiên trong khi đang nói chuyện họ lặng đi, cứng người như những khối đá đang lắng nghe. Pippin co rúm lại áp chặt tay vào tai; nhưng Beregond, vừa nhìn ra phía ngoài tường răng cưa khi nói về Faramir, vẫn ngồi nguyên đó, cứng đờ, nhìn trân trối bằng cặp mắt hoảng hốt. Pippin biết tiếng kêu sởn gai ốc mà cậu vừa nghe thấy: đó cũng là tiếng mà rất lâu trước đây cậu từng nghe ở Chằm Lớn trong Quận, nhưng giờ nó mạnh mẽ và căm hận hơn, đâm thấu con tim bằng nỗi tuyệt vọng đầy nọc độc

Cuối cùng Beregond cố gắng nói. “Chúng đã đến!” anh nói. “Can đảm lên và nhìn kìa! Có những thứ ghê rợn dưới kia.”

Pippin miễn cưỡng trèo lên ghế đá nhìn qua tường. Đồng Pelennor lờ mờ bên dưới cậu, nhạt dần về phía vạch sẫm chỉ thoáng nhìn thấy mà cậu đoán là Sông Cả. Nhưng lúc này, lượn nhanh qua đồng như những cái bóng của màn đêm đến sớm, giữa không trung bên dưới cậu hiện ra năm hình thù giống như chim, kinh tởm như loài kền kền ăn xác nhưng lớn hơn đại bàng, tàn nhẫn như cái chết. Lúc chúng vụt tới gần, liều lĩnh bay gần như lọt vào tầm tên từ tường thành, lúc chúng lại lượn ra xa.

“Kỵ Sĩ Đen!” Pippin thì thầm. “Kỵ Sĩ Đen của không trung! Nhưng kìa, Beregond!” cậu kêu lên. “Chúng đang tìm gì đó, hẳn thế? Xem chúng lượn tròn rồi bổ xuống, luôn luôn tới một điểm đằng kia! Và anh thấy gì đó đang di chuyển trên mặt đất chứ? Những điểm tối nho nhỏ. Đúng rồi, người cưỡi ngựa: bốn hoặc năm gì đó. A! Tôi không chịu nổi nữa! Gandalf! Cầu Gandalf cứu chúng ta!”

Lại một tiếng rít dài vang lên rồi tắt, và cậu lại bật lùi khỏi tường, thở dốc như con thú bị săn đuổi. Qua tiếng kêu sởn gai ốc đó, cậu nghe mơ hồ và dường như từ xa xôi phía dưới vẳng lại tiếng kèn đồng kết thúc bằng một nốt cao dài.

“Faramir! Hoàng thân Faramir! Đó là kèn hiệu của ngài!” Beregond kêu lên. “Một trái tim dũng cảm! Nhưng làm sao ngài tới được Đại Môn, nếu những con diều hâu địa ngục ghê tởm kia còn vũ khí nào khác ngoài nỗi sợ? Nhưng nhìn kìa! Họ vẫn kiên cường. Họ sẽ tới được cổng. Không! ngựa đang phát điên rồi. Nhìn kìa! người bị hất xuống rồi; họ đang chạy bộ. Không, vẫn còn một người trên ngựa, nhưng anh ta đang lao ngựa trở lại giúp những người khác. Đó hẳn là Chỉ Huy rồi: ngài có thể chế ngự được cả người lẫn thú. A! Một con vật bay kinh tởm đang bổ xuống ngài. Cứu với! Cứu với! Không ai lao ra vì ngài sao? Faramir!”

Tới đây, Beregond bật lên và chạy vào trong bóng tối. Xấu hổ vì sự hoảng loạn của mình, trong khi Beregond đội Túc Vệ trước hết nghĩ về người chỉ huy mà anh yêu quý. Pippin đứng dậy ngó ra ngoài. Đúng lúc ấy, cậu bắt gặp một tia sáng trắng và bạc lóa lên từ phía Bắc, như một ngôi sao nhỏ lao xuống cánh đồng tối nhờ. Nó di chuyển nhanh như tên bắn và càng tới gần càng lớn, nhanh chóng hội tụ với bốn người đang chạy về phía Đại Môn. Pippin thấy dường như có quầng sáng nhạt bao quanh nó và bóng tối nặng nề nhường đường cho nó; và rồi khi nó tới gần, cậu nghĩ mình nghe thấy một giọng nói rổn rảng thét to, giống như tiếng vọng từ tường thành.

“Gandalf!” cậu kêu lên. “Gandalf! Ông ấy luôn luôn xuất hiện khi tình thế đen tối nhất. Lao lên! Lao lên, Kỵ Sĩ Trắng! Gandalf! Gandalf!” cậu hét váng lên, giống như người xem một cuộc đua lớn đang thúc giục người đua nằm ngoài tầm cổ vũ.

Nhưng giờ các bóng đen sà xuống đã phát hiện ra kẻ mới tới. Một cái bóng lượn về phía ông; nhưng Pippin thấy hình như ông giơ cao tay, và từ tay ông một cột sáng trắng đâm lên. Tên Nazgûl kêu lên một tiếng rền rĩ rồi quẹo đi; và thấy thế, bốn tên còn lại dao động, rồi nhanh chóng lượn tròn lên cao, chúng bay về phía Đông, biến mất vào đám mây khổng lồ đang hạ thấp; và dưới đồng Pelennor dường như trong thoáng chốc bớt tối tăm.

Pippin nhìn, cậu thấy người cưỡi ngựa và Kỵ Sĩ Trắng gặp nhau rồi dừng lại, đợi những người chạy bộ. Lúc này người từ Kinh Thành vội vã chạy về phía họ; và không lâu sau tất cả đều biến mất khỏi tầm nhìn bên dưới những vòng tường phía ngoài, và cậu biết họ đang đi qua Đại Môn. Đoán rằng họ sẽ lập tức lên Tháp gặp Quốc Quản, cậu vội vã tới cổng Hoàng Thành. Ở đó, cậu hòa vào rất nhiều người cũng đã chứng kiến cuộc chạy trốn và giải cứu từ trên tường thành cao.

Không bao lâu, tiếng hò reo đã cất vang trên những con phố dẫn lên từ các vòng thành ngoài, và nhiều người reo gọi tên Faramir và Mithrandir. Tiếp đến Pippin thấy những ngọn đuốc, và hai kỵ sĩ đang chậm rãi cho ngựa tiến lên theo sau là đám đông lớn: một người mặc đồ trắng nhưng không còn tỏa sáng, mờ mờ trong ánh chiều hôm như thể lửa trong ông đã cạn hoặc bị che bớt; người còn lại măc đồ tối sẫm và cúi đầu. Họ xuống ngựa, và trong khi những người giám mã dắt Scadufax và con ngựa kia đi, họ bước tới gặp lính canh bên cổng: Gandalf bước vững vàng, áo choàng xám hất về phía sau, ánh lửa vẫn còn âm ỉ trong mắt ông; người còn lại, mặc xanh tuyền, chậm chạp, hơi loạng choạng như một người kiệt sức hoăc bị thương.

Pippin chen lên đầu khi họ bước qua dưới đèn treo ở vòm cổng, và khi thấy gương mặt tái nhợt của Faramir, cậu nín thở. Đó là gương mặt của một người mới đây bị giày vò bởi nỗi sợ hãi hoặc đau đớn tột cùng, nhưng đã trấn áp được và giờ trầm lặng. Kiêu hãnh và trang nghiêm, chàng dừng lại một lúc khi nói với lính canh, và khi Pippin nhìn chàng, cậu thấy chàng giống biết mấy người anh trai Boromir - người mà Pippin đã thấy yêu mến từ cái nhìn đầu tiên, khâm phục khí chất quý tộc nhưng cách xử sự hiền từ ở con người ấy. Thế nhưng đột nhiên trái tim cậu thấy xúc động kỳ lạ với một cảm xúc mà cậu chưa từng biết tới dành cho Faramir. Đây là một người với khí chất cao quý như Aragorn đôi khi để lộ, có lẽ ít cao quý bằng, nhưng cũng ít khó lường và xa cách hơn: một trong những vị Vua của Con Người sinh ra sau này, nhưng mang trong mình trí thông thái và nỗi u sầu của nòi Cựu Tộc. Giờ cậu biết tại sao Beregond lại nhắc tới tên chàng với niềm kính yêu. Chàng là người chỉ huy mà người khác sẽ đi theo, mà cậu sẽ đi theo, dù là dưới bóng những đôi cánh đen.

“Faramir!” cậu kêu to cùng với những người khác. “Faramir!” Và Faramir, nghe thấy giọng nói lạ giữa những tiếng hò reo của người Kinh Thành, quay lại nhìn xuống cậu và kinh ngạc.

“Ngươi đến từ đâu?” chàng hỏi. “Một người tí hon, và mặc chế phục Tháp! Tự nơi nào...?”

Nghe thấy vậy, Gandalf bước tới bên chàng và nói. “Cậu ta đi cùng tôi từ miền đất của người Tí Hon,” ông nói. “Cậu ta đi cùng tôi. Nhưng chúng ta đừng chần chừ ở đây nữa. Có nhiều điều cần bàn và cần làm, và anh đã mệt. Cậu ta sẽ đi cùng chúng ta. Thực ra là cậu ta phải đi, bởi nếu cậu ta không dễ dàng quên trách nhiệm mới của mình hơn tôi, thì cậu ta phải có mặt trước chúa của mình trong vòng một tiếng nữa. Đi nào, Pippin, theo chúng ta!”

* * *

Vậy là cuối cùng họ tới phòng riêng của vị Chúa Thành. Ở đây, những ghế sâu lòng được xếp quanh bếp than đỏ rực; và rượu được mang lên; và Pippin đứng đó, hầu như không ai chú ý, đằng sau ghế Denethor và chẳng mấy cảm thấy mệt mỏi, cậu quá hứng thú lắng nghe tất cả những gì đang nói.

Khi Faramir đã ăn xong bánh mì trắng và uống một ngụm rượu, chàng ngồi xuống một chiếc ghế thấp bên tay trái cha mình. Lùi sau một chút phía bên kia, Gandalf ngồi trên chiếc ghế gỗ chạm trổ; và lúc đầu trông ông như đang ngủ. Bởi lúc đầu Faramir chỉ nói về nhiệm vụ mà chàng được cử đi mười ngày trước đó, và mang về tin tức của Ithilien cùng những động thái của Kẻ Thù và đồng minh; và chàng kể về cuộc đụng độ trên đường, khi bọn người Harad và con mãnh thú bị đánh bại: một người chỉ huy báo cáo cho chúa của mình những chuyện vẫn thường nghe trước đó, những chuyện nhỏ bé trong cuộc chiến tranh biên giới giờ đã thành vô dụng và lặt vặt, mất đi tráng khí trước kia.

Rồi đột nhiên Faramir nhìn Pippin. “Nhưng giờ chúng ta sẽ nói đến những chuyện lạ lùng,” chàng nói. “Vì đây không phải là người Tí Hon đầu tiên tôi thấy bước ra khỏi truyền thuyết phương Bắc tiến vào miền đất phía Nam.”

Nghe vậy, Gandalf ngồi thẳng dậy nắm chặt tay ghế; nhưng ông không nói gì, và đưa mắt chặn tiếng thét đã nhảy lên môi Pippin. Denethor nhìn gương mặt họ gật đầu, như muốn tỏ vẻ đã đọc được phần lớn biểu cảm của họ trước cả khi cất thành lời. Chậm rãi, trong khi những người kia ngồi yên im lặng, Faramir kể câu chuyện của mình, mắt phần lớn hướng về Gandalf, dù đôi lúc ánh mắt chàng lại đảo sang Pippin, như thể muốn gợi lại ký ức về những người Tí Hon chàng từng gặp.

Trong khi lắng nghe câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa chàng với Frodo và người hầu của cậu, cùng với những sự kiện ở Henneth Annûn, Pippin nhận ra tay Gandalf đang run rẩy trong khi nắm chặt thanh gỗ chạm. Giờ hai bàn tay trông thật trắng nhợt và già nua, và khi nhìn chúng, đột nhiên với một thoáng sợ hãi ngấm tận xương, Pippin biết Gandalf, ngay chính Gandalf, cũng đang phiền não, thậm chí lo sợ. Bầu không khí trong phòng ngột ngạt và tĩnh lặng. Cuối cùng khi Faramir kể đến lúc chia tay hai lữ khách, và kể quyết tâm muốn tới Cirith Ungol của họ, giọng chàng trầm xuống, và chàng lắc đầu thở dài. Rồi Gandalf bật dậy.

“Cirith Ungol? Thung Lũng Morgul?” ông nói. “Lúc nào, Faramir, lúc nào? Anh chia tay với họ vào lúc nào? Khi nào thì họ sẽ tới cái thung lũng ghê tởm đó?”

“Tôi chia tay với họ vào buổi sáng hai ngày trước,” Faramir đáp. “Từ đó tới thung lũng sông Morgulduin là mười lăm lý, nếu họ đi thẳng về phía Nam; và rồi họ vẫn còn cách ngọn Tháp đáng nguyền rủa năm lý về phía Tây. Dù đi nhanh nhất, họ cũng không thể tới đó trước hôm nay, mà có lẽ họ chưa tới đâu. Thực sự tôi hiểu được ông sợ điều gì. Nhưng bóng tối này không phải bởi cuộc đi mạo hiểm của họ. Nó bắt đầu từ chiều qua, và cả Ithilien đã chìm trong bóng tối đêm qua. Tôi thấy rõ ràng là Kẻ Thù từ lâu đã chuẩn bị tấn công chúng ta, và thời khắc đó đã được quyết định từ trước khi những người lữ khách rời khỏi sự trông nom của tôi.”

Gandalf đi đi lại lại trên sàn. “Buổi sáng hai ngày trước, gần ba ngày đi đường rồi! Nơi anh chia tay họ cách đây bao xa?”

“Khoảng hai mươi lăm lý theo đường chim bay,” Faramir trả lời. “Nhưng tôi không thể về nhanh hơn. Chiều qua tôi nghỉ ở Cair Andros, cồn đảo dài giữa sông về phía Bắc, nơi chúng tôi phòng thủ; và ngựa thì để ở bờ bên này. Khi bóng tối kéo đến, tôi biết mình cần phải nhanh chóng, vì vậy tôi phi về đây cùng ba người khác cũng tìm được ngựa. Số còn lại tôi cử xuống phía Nam tăng cường cho quân đồn trú ở khúc cạn Osgiliath. Con hy vọng là con không làm sai chứ?” Chàng nhìn cha mình.

“Sai?” Denethor kêu, và mắt ông ta đột ngột lóe lên. “Sao anh hỏi? Những người đó nằm dưới sự chỉ huy của anh. Hay anh hỏi phán xét của ta về tất cả những gì anh làm? Điệu bộ anh nhẫn nhục trước mặt ta, nhưng từ lâu rồi anh đâu còn rời khỏi lối mình chọn vì nghe lời khuyên của ta nữa. Đó thấy chứ, anh vẫn nói năng khéo léo như trước; nhưng ta, chẳng phải ta đã thấy mắt anh chăm chú nhìn Mithrandir, dò xem mình nói đúng không hay nói quá nhiều sao? Ông ta từ lâu đã nắm được trái tim anh rồi.

“Con trai ta, cha anh già nhưng chưa lẩm cẩm đâu. Ta nhìn thấy và nghe thấy hết, như trước nay vẫn thế, và chẳng mấy chuyện mà anh kể dở hay không kể lại giấu được ta. Ta biết câu trả lời cho nhiều câu đố. Thương ôi, thương ôi, Boromir!”

“Nếu điều con làm khiến người không hài lòng, thưa phụ thân,” Faramir nhỏ nhẹ nói, “con ước đã được biết lời khuyên của người trước khi bị đẩy cho gánh nặng của quyết định khó khăn đến thế.”

“Điều đó có khiến anh thay đổi quyết định của mình không?” Denethor nói. “Ta cho rằng anh vẫn sẽ làm như vậy. Ta biết anh quá rõ. Lúc nào anh cũng ham muốn tỏ ra cao quý và hào phóng như một vì vua xa xưa, lịch thiệp, hiền từ. Điều đó có thể có ích cho một người có nòi giống cao quý đấy, nếu hắn đang bình an nắm quyền lực trong tay. Nhưng trong thời khắc khẩn cấp, sự hiền từ có thể bị đáp trả bằng cái chết.”

“Vậy hãy an bài như thế,” Faramir nói.

“Hãy an bài như thế!” Denethor kêu lên. “Nhưng không chỉ bằng cái chết của anh, Hoàng thân Faramir ạ: mà còn bằng cái chết của cha anh, của tất cả đồng bào anh, những người mà giờ khi Boromir không còn nữa, đến lượt anh phải bảo vệ.”

“Vậy người hẳn ước rằng,” Faramir đáp, “chúng con đã đổi chỗ cho nhau?”

“Phải, đúng là ta ước như thế,” Denethor nói. “Bởi Boromir trung thành với ta và chẳng phải là học trò ngoan của lão phù thủy nào. Nó sẽ nhớ cha nó cần gì, và không lãng phí thứ gì vận mệnh trao cho. Nó hẳn sẽ đem về cho ta một món quà hùng mạnh.”

Trong thoáng chốc, Faramir mất kiềm chế. “Con sẽ nhắc người nhớ lại, thưa phụ thân, tại sao lại là con, mà không phải anh ấy, ở Ithilien. Ít ra thì trong một lần lời khuyên của người cũng có tác dụng, cách đây không lâu. Chính Chúa Thành đã trao nhiệm vụ cho anh ấy.”

“Đừng khuấy thêm chén đắng ta đã tự pha cho mình,” Denethor nói. “Chẳng lẽ lưỡi ta còn chưa nếm nó suốt nhiều đêm, dự đoán thấy còn nhiều điều tồi tệ hơn trong lớp cặn? Và giờ thì đúng là ta đã thấy rồi. Giá mà không phải như vậy! Giá mà vật này đến với ta!”

“Bình tâm lại đi!” Gandalf nói. “Trong trường hợp nào thì Boromir cũng sẽ không mang nó đến cho ngài đâu. Anh ta đã chết, và chết bi tráng; cầu mong anh ta yên nghỉ! Nhưng ngài đang tự lừa dối mình đó. Anh ta hẳn sẽ vươn tay về phía vật này, và khi đoạt lấy nó, anh ta sẽ sa ngã. Anh ta sẽ giữ nó làm của riêng, và khi quay lại, ngài sẽ không còn nhận ra con trai mình đâu.”

Gương mặt Denethor gay gắt và lạnh lùng. “Ông thấy Boromir chậm đáp lại tay mình chứ gì?” ông ta nói nhẹ nhàng. “Nhưng ta, cha của nó, nói rằng nó sẽ mang vật đó cho ta. Ông thông tuệ, có lẽ, Mithrandir, nhưng bất chấp tất cả trí xảo của mình, ông cũng không nắm hết mọi điều thông thái. Vẫn còn những lời khuyên không phải là lưới dệt của phù thủy hay sự vội vã của lũ ngổc. Trong vấn đề này sự hiểu biết tích truyện và trí thông thái của ta lớn hơn ông nghĩ đấy.”

“Và trí thông thái mách bảo ngài gì?” Gandalf hỏi.

“Đủ để nhận ra có hai điều ngu xuẩn cần phải tránh. Dùng vật này là nguy hiểm. Vào thời điểm này, đưa nó vào tay một người Tí Hon đần độn để mang vào vùng đất của chính Kẻ Thù như ông đã làm, cùng đứa con này của ta, đó là điên rồ.”

“Và Chúa Denethor, ông ta sẽ làm gì?”

“Chẳng làm cả hai. Nhưng chắc chắn không lý lẽ nào bảo được ông ta đặt vật này vào chốn nguy hiểm không ai dám hy vọng trừ những lão khờ, mạo hiểm đưa chúng ta vào cõi diệt vong, nếu Kẻ Thù chiếm lại được thứ hắn đánh mất. Không, nó đáng lẽ phải được cất giữ, giấu đi, giấu thật sâu nơi tăm tối. Không phải đem sử dụng, ta nói như vậy, trừ khi vào thời điểm cuối cùng cần thiết nhất, mà giấu nơi nào vĩnh viễn nằm ngoài tầm tay hắn, trừ khi hắn giành chiến thắng tuyệt đối tới mức những gì kéo theo không còn có thể vướng bận chúng ta, khi ấy đã chết.”

“Ngài nghĩ, như thường lệ, thưa Quốc Quản, chỉ cho Gondor,” Gandalf nói. “Nhưng vẫn còn những người khác và những mảnh đời khác, và vẫn còn thời gian rồi sẽ đến. Về phần ta, ta thương hại đến cả lũ nô lệ của hắn.”

“Và những người khác đó sẽ đi đâu tìm kiếm giúp đỡ nếu Gondor thất thủ?” Denethor đối đáp. “Nếu giờ ta có vật đó cất sâu trong những căn hầm dưới Hoàng Thành, chúng ta hẳn sẽ không phải run rẩy sợ hãi dưới màn bóng tối này, lo sợ điều tồi tệ nhất, và những dự tính của chúng ta sẽ không bị làm phiền. Nếu ông không tin tưởng ta có thể chịu đựng được thử thách đó, ông còn chưa biết ta.”

“Dù sao thì ta cũng không tin ngài,” Gandalf nói. “Nếu tin, ta hẳn đã có thể đưa thứ này tới đây cho ngài cất giữ và tránh cho ta cũng như những người khác khỏi lắm nỗi buồn bực. Và giờ khi nghe ngài nói, ta càng ít tin tưởng ngài, không hơn Boromir. Không, hãy kiềm chế thịnh nộ đi! Ta không tin tưởng đến cả chính mình trong việc này, và ta đã từ chối vật này, dù nó đã được tự nguyện biếu cho ta. Ngài mạnh mẽ và có thể vẫn kiểm soát được mình trong vài chuyện, Denethor ạ; nhưng nếu ngài đã nhận được vật này, thì nó sẽ đánh bại ngài. Cho dù được chôn sâu bên dưới những tầng rễ đỉnh Mindolluin, nó vẫn sẽ thiêu đốt tâm trí ngài, khi bóng tối mạnh lên và những điều còn tồi tệ hơn nối tiếp, những điều sẽ sớm ập tới chúng ta.”

Trong một khoảnh khắc, đôi mắt Denethor lại sáng lên khi ông ta đối mặt với Gandalf, và Pippin lại cảm thấy sự căng thẳng giữa ý chí hai người; nhưng giờ dường như ánh mắt họ đối nhau như những lưỡi dao, lóe lên khi giao chiến. Pippin run rẩy sợ sẽ có một đòn đánh kinh khiếp xảy ra. Nhưng đột nhiên Denethor thả lỏng và lại trở nên lạnh lùng. Ông ta nhún vai.

“Nếu ta đã! Nếu ngài đã!” ông ta nói. “Những lời đó và những giả định nếu như đều là vô nghĩa. Nó đã biến mất vào trong Bóng Tối, và chỉ thời gian mới tiết lộ định mệnh cuối cùng nào đang chờ đợi nó, và chúng ta. Thời gian ấy không còn nhiều nữa. Trong khoảng thời gian còn lại, tất cả những người đương đầu với Kẻ Thù theo cách riêng của mình hãy đồng tâm hiệp lực và hy vọng khi còn có thể, và sau hy vọng vẫn còn lòng gan dạ để chết tự do.” Ông ta quay sang Faramir. “Anh nghĩ gì về đồn Osgiliath?”

“Không mạnh,” Faramir nói. “Con đã gửi quân Ithilien tới đó củng cố, như con đã nói.”

“Không đủ, ta thấy vậy,” Denethor nói. “Chính ở đó cú đánh đầu tiên sẽ đến. Họ sẽ cần người chỉ huy rắn rỏi ở đó.”

“Ở đó và ở nhiều nơi khác,” Faramir nói và thở dài. “Thương tiếc thay anh trai tôi, người cả tôi cũng yêu thương!” Chàng đứng dậy. “Con có thể xin phép rời đi chưa, thưa phụ thân?” Và rồi chàng lảo đảo dựa vào ghế của cha mình.

“Anh mệt, ta thấy rồi,” Denethor nói. “Anh đã đi nhanh và xa, dưới nhiều cái bóng của cái ác trong không trung, ta đã được nghe kể.”

“Chúng ta đừng nói về điều đó nữa!” Faramir nói.

“Vậy thì chúng ta sẽ không nói,” Denethor nói. “Đi và nghỉ ngơi đi trong khi còn có thể. Ngày mai sẽ còn đòi hỏi khắc nghiệt hơn.”

Giờ tất cả cáo từ vị Chúa Thành và đi nghỉ ngơi khi họ còn có thể. Bên ngoài là bóng đêm không sao khi Gandalf trở về nơi nghỉ, cùng với Pippin ở bên cạnh, mang theo một cây đuốc nhỏ. Họ không nói chuyện cho tới khi đã ở sau cánh cửa đóng kín. Thế rồi cuối cùng, Pippin nắm lấy tay Gandalf.

“Nói cho cháu biết,” cậu nói, “có hy vọng nào không? Ý cháu là cho Frodo; hoặc ít nhất là chủ yếu cho Frodo.”

Gandalf đặt tay lên đầu Pippin. “Chưa bao giờ có nhiều hy vọng,” ông trả lời. “Chỉ là hy vọng của một lão khờ, như ta đã bị người ta nói đó. Và khi ta nghe nhắc tới Cirith Ungol...” ông ngừng lời và đi tới của sổ, như thể ánh mắt mình có thể xuyên qua bóng tối ở phương Đông. “Cirith Ungol!” ông thì thầm. “Ta tự hỏi tại sao lại là đường đó?” Ông quay lại. “Lúc này, Pippin ạ; trái tim ta gần như đã héo hon, khi nghe cái tên đó. Vậy mà thực tế thì ta tin rằng tin tức của Faramir cũng mang theo một chút hy vọng. Bởi có vẻ rõ ràng là cuối cùng thì Kẻ Thù của chúng ta đã khai chiến và đi nước đầu trong khi Frodo vẫn tự do. Vậy là giờ đây, trong nhiều ngày nữa, hắn sẽ hướng con mắt về phía này sang phía khác, rời xa vùng đất của chính mình. Và dù vậy, Pippin, ta cảm thấy từ xa sự gấp gáp và nỗi sợ hãi của hắn. Hắn đã bắt đầu sớm hơn dự định. Có chuyện gì đó đã xảy ra, làm hắn bồn chồn.”

Gandalf đứng yên một lúc suy nghĩ. “Có lẽ,” ông lẩm bẩm. “Có lẽ thậm chí hành vi khờ khạo của ngươi cũng đã có tác dụng, chàng trai ạ. Để xem nào: chừng năm ngày trước đây là lúc hắn phát hiện chúng ta đã lật đổ Saruman, và đoạt lấy Quả Cầu. Mà thế thì sao? Chúng ta không thể sử dụng nó làm gì nhiều, hay làm gì mà hắn không biết. A! ta băn khoăn đấy. Hay là Aragorn? Thời điểm của anh ấy đã tới gần rồi. Và anh ấy rất mạnh mẽ nghiêm nghị bên trong, Pippin ạ; gan dạ, quả quyết, có thể đi theo mưu tánh của chính mình và dám chấp nhận mạo hiểm lớn khi cần thiết. Có lẽ chính là điều này. Anh ấy có thể đã sử dụng Quả Cầu và lộ diện trước Kẻ Thù, thách thức hắn, cũng chính vì mục đích này, ta nghĩ vậy. Chà, chúng ta sẽ không biết được câu trả lời cho tới khi các Kỵ Sĩ Rohan tới, nếu họ không tới quá muộn. Phía trước là những ngày gian khó. Ngủ thôi khi ta còn có thể!”

“Nhưng,” Pippin nói.

“Nhưng sao?” Gandalf hỏi. “Ta chỉ cho phép một câu nhưng vào tối nay thôi.”

“Gollum,” Pippin nói. “Sao họ lại có thể đi khắp nơi với gã, thậm chí đi theo gã? Và cháu có thể thấy là Faramir chẳng ưa cái nơi gã đưa họ tới hơn gì ông. Có chuyện gì vậy?”

“Lúc này ta chưa trả lời được,” Gandalf nói. “Nhưng trái tim ta đoán rằng Frodo và Gollum sẽ còn gặp nhau trước kết thúc cuối cùng. Một điều tốt, hoặc điều xấu. Nhưng ta sẽ không nói về Cirith Ungol tối nay. Phản trắc, phản trắc là điều ta sợ; sự phản trắc của sinh linh cùng khổ đó. Nhưng điều gì đến sẽ đến. Chúng ta hãy nhớ rằng một kẻ phản bội có thể phản bội chính mình và làm điều tốt một cách không chủ đích. Điều đó cũng có thể xảy ra, đôi lúc. Ngủ ngon!”

Ngày hôm sau tới, một buổi sáng giống như hoàng hôn nâu sậm, và trái tim mỗi người đã nhẹ nhõm hơn trong chốc lát khi Faramir quay về, nay trở lại nặng nề. Ngày hôm đó, người ta không nhìn thấy những Bóng Ma có cánh nữa, nhưng cứ chốc chốc, cao bên trên thành phố, một tiếng kêu mơ hồ lại vang lên, và nhiều người nghe thấy lại đứng chết điếng trong nỗi kinh hoảng thoáng qua, trong khi những người trái tim ít cứng cỏi hơn thì run sợ và than khóc.

Và giờ Faramir lại ra đi. “Họ chẳng cho ngài nghỉ,” một vài người thì thầm. “Chúa Thành đòi hỏi quá nhiều ở con mình, và giờ ngài phải đảm đương trách nhiệm của hai người, của mình và của người sẽ không còn trở về nữa.” Và người ta không ngớt nhìn về phương Bắc và hỏi: “Những Kỵ Sĩ Rohan ở đâu rồi?”

Thực tế là Faramir không đi theo quyết định của bản thân. Nhưng vị Chúa Thành cũng là chủ trì Hội Đồng ông ta nắm giữ, và ngày hôm đó ông ta không có tâm trạng nhường nhịn kẻ khác. Từ sáng sớm, Hội Đồng đã được triệu tập. Ở đó, tất cả các chỉ huy đều nhận định rằng do mối đe dọa từ phương Nam, lực lượng của họ quá yếu không thể đứng ra khai chiến, trừ phi may ra những Kỵ Sĩ Rohan vẫn còn đến. Trong lúc này, họ phải cố thủ tường thành và chờ đợi.

“Tuy nhiên,” Denethor nói, “chúng ta không nên coi nhẹ và từ bỏ tuyến phòng thủ bên ngoài, tuyến tường Rammas đã được xây nên với nhiều sức lực. Và phải bắt Kẻ Thù trả giá lớn vì dám vượt qua Sông Cả. Muốn tấn công Kinh Thành, hắn không thể qua sông phía Bắc Cair Andros vì gặp đầm lầy, cũng như ở dưới Nam phía Lebennin vì chiều rộng dòng sông ở đó, sẽ cần đến nhiều thuyền. Chính tại Osgiliath hắn sẽ gây sức ép, cũng như trước đây khi Boromir không cho phép hắn vượt qua.”

“Ngày đó mới chỉ là phép thử mà thôi,” Faramir nói. “Ngày hôm nay chúng ta có thể khiến Kẻ Thù trả giá gấp mười lần tổn thất phía chúng ta khi qua sông mà vẫn phải lấy đó làm hối tiếc. Bởi hắn có thế chấp nhận hy sinh cả đạo quân dễ dàng hơn nhiều chúng ta mất đi một đội. Và rút quân hiện đang đóng ở xa về sẽ nguy hiểm, nếu hắn ồ ạt vượt qua.”

“Và còn Cair Andros thì sao?” vị Hoàng thân nói. “Nơi đó cũng phải giữ, nếu Osgiliath có thể cố thủ. Chúng ta đừng quên mối nguy hiểm bên trái. Người Rohan có thể tới, và cũng có thể không. Nhưng Faramir đã nói với chúng ta về lực lượng lớn liên tiếp dồn tới Cổng Đen. Không chỉ một đạo quân có thể xuất phát từ đó, và tấn công nhiều nơi chứ không chỉ một lối qua sông.”

“Trong chiến tranh phải chấp nhận nhiều mạo hiểm,” Denethor nói. “Cair Andros đã được coi giữ, và không thể cắt thêm người tới đó. Nhưng ta sẽ không từ bỏ Sông Cả và đồng Pelennor mà không tranh đấu - không nếu vẫn còn người chỉ huy nào ở đây có lòng can đảm thực thi ý nguyện chúa tể mình.”

Và tất cả đều im lặng. Nhưng cuối cùng Faramir nói: “Con không phản đối ý nguyện của người, thưa phụ thân. Vì người đã bị cướp đi Boromir, con sẽ đi và làm điều mình có thể thay cho anh ấy - nếu người ra lệnh.”

“Ta ra lệnh,” Denethor nói.

“Vậy xin người bảo trọng!” Faraimr nói. “Nhưng nếu con còn được trở về, hãy nghĩ tốt hơn về con.”

“Điều đó còn phụ thuộc vào cách anh trở về,” Denethor nói.

Gandalf là người cuối cùng nói với Faramir trước khi chàng lên đường về phía Đông. “Đừng ném đi cuộc đời mình vì hấp tấp hoặc vì chua chát,” ông nói. “Anh sẽ còn được cần đến ở đây, vì nhiều điều khác hơn là chiến tranh. Cha anh yêu thương anh, Faramir, và sẽ nhớ ra điều đó trước khi tất cả kết thúc. Bảo trọng!”

* * *

Và giờ Hoàng thân Faramir lại tiến về phía trước, mang theo quân lực là những người tự nguyện đi hoặc có thể cắt đi. Trên tường thành, một vài người đưa mắt qua bóng tối về phía thành phố đổ nát, và họ tự hỏi vận hội gì đang chờ ở đó, bởi chẳng thể nhìn thấy gì. Và những người khác vẫn luôn luôn nhìn về phương Bắc và đếm số lý đường dẫn tới Théoden ở Rohan. “Liệu ông ấy có đến không? Liệu ông ấy có nhớ mối đồng minh cũ hay không?” họ nói.

“Có chứ, ông sẽ tới,” Gandalf nói, “dù là đến quá muộn. Nhưng hãy nghĩ xem! Mũi Tên Đỏ dù nhanh nhất cũng không thể tới chỗ ông sớm hơn hai ngày trước, và nhiều dặm đường trải dài từ đây tới Edoras.”

Tin tức tới khi buổi tối đã trở lại. Một người vội vã phi ngựa từ khúc cạn đến, nói rằng một đạo quân xuất phát từ Minas Morgul và đã tới gần thành Osgiliath; còn được bổ sung những đội quân từ phía Nam, người Haradrim, cao lớn và tàn nhẫn. “Và chúng tôi biết được,” người đưa tin nói, “rằng tên Thủ Lĩnh Đen lại cầm đầu chúng, và nỗi sợ hãi hắn gieo rắc đã tiến xa trước hắn bên kia sông.”

Với những lời báo trước tai ương đó, ngày thứ ba kết thúc kể từ khi Pippin tới Minas Tirith. Không mấy người đi nghỉ ngơi, bởi lúc này chẳng còn mấy hy vọng rằng ngay cả Faramir cũng có thể giữ khúc cạn được lâu.

Ngày tiếp theo, dù bóng tối đã đến độ dày đặc nhất không tối thêm được nữa, nó vẫn đè nặng thêm lên trái tim con người, và nỗi sợ hãi khủng khiếp bao trùm lấy họ. Những tin tức xấu lại nhanh chóng ập tới. Dòng Anduin đã bị Kẻ Thù vượt qua. Faramir đang rút lui về tường bao quanh đồng Pelennor, tập hợp quân về Đồn ở Đường Cao; nhưng quân địch đông gấp mười lần chàng.

“Nếu ngài có còn chạy kịp về, vượt qua đồng Pelennor, kẻ thù cũng theo sát gót chân ngài,” người đưa tin nói. “Chúng đã trả giá đắt khi qua sông, nhưng không đắt như chúng ta hy vọng. Kế hoạch đã được lập cẩn thận. Giờ ta thấy rõ rằng từ lâu chúng đã bí mật làm một số lượng lớn bè và sà lan ở phía Đông Osgiliath. Chúng tràn qua nhiều như bọ. Nhưng chính Thú Lĩnh Đen mới là kẻ đánh bại chúng tôi. Chẳng mấy người đứng vững và trụ lại được dù chỉ mới nghe tin đồn rằng hắn sẽ tới. Quân của chính hắn cũng run sợ hắn, và chúng sẵn sàng tử chiến theo lệnh hắn.”

“Vậy thì ở đó cần tôi hơn là nơi này,” Gandalf nói, và lập tức phi ngựa đi, bóng ông nhanh chóng nhạt nhòa khỏi tầm nhìn. Và suốt đêm đó, một mình Pippin không ngủ đứng trên tường thành nhìn về phương Đông.

Chuông báo ban ngày lại vừa mới rung, như một lời nhạo báng trong bóng tối không ánh sáng, thì từ phương xa cậu thấy nhiều ngọn lửa bùng lên, bên kia khoảng không mờ nhạt nơi có vòng tường che chắn đồng Pelennor. Những người lính canh thét to và tất cả quân trong Kinh Thành vào vị trí cầm lấy vũ khí. Giờ cứ chốc chốc lại có tia chớp đỏ, và chầm chậm xuyên qua bầu không khí nặng nề, có thể nghe thấy những tiếng ầm ĩ đều đều.

“Chúng đã chiếm tường ngoài!” người ta kêu lên. “Chúng đang cho nổ thủng tường. Chúng đang tới!”

“Faramir ở đâu rồi?” Beregond kêu lên khổ não. “Đừng nói rằng ngài đã ngã xuống chứ!”

Chính Gandalf là người mang về tin tức đầu tiên. Chỉ với vài kỵ sĩ, ông trở về vào giữa buổi sáng, đi hộ tống một đoàn xe thồ. Đoàn xe chất đầy người bị thương, tất cả những người cứu được từ đống đổ nát của Đồn ở Đường Cao. Ông ngay lập tức tới gặp Denethor. Vị Chúa Thành giờ ngồi trong căn phòng cao tít trên Sảnh Đường Tháp Trắng với Pippin ở bên; và qua cửa sổ tối nhờ phía Bắc, Nam và Đông ông ta đưa đôi mắt sẫm màu, như thể muốn đâm xuyên qua bóng tối định mệnh đang thắt chặt lấy mình. Ông ta nhìn nhiều nhất về phương Bắc, và đôi lúc ngừng lại nghe ngóng, cứ như nhờ quyền năng cổ xưa nào đó, tai ông ta có thể nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập trên những cánh đồng xa xôi.

“Faramir có tới không?” ông ta hỏi.

“Không,” Gandalf trả lời. “Nhưng anh ấy vẫn sống khi ta từ giã anh. Anh quyết tâm ở lại với quân bọc hậu, để cuộc rút lui qua đồng Pelennor không trở thành tháo chạy hỗn loạn. Anh có lẽ có thể quản người của mình đủ lâu, nhưng ta ngờ là khó. Anh ấy phải đương đầu với một kẻ thù quá mạnh. Bởi một kẻ mà ta lo sợ đã tới.”

“Không phải là... Chúa Tể Hắc Ám chứ?” Pippin kêu lên, quên mất thân phận mình trong cơn hoảng sợ.

Denethor cười cay đắng. “Không, chưa đâu, cậu Peregrin! Hắn sẽ không tới trừ phi để nhạo báng ta khi đã thắng hoàn toàn. Hắn sử dụng kẻ khác làm vũ khí. Cũng như tất cả các vị chúa tể vĩ đại khác, nếu họ thông thái, cậu Tí Hon ạ. Nếu không thì tại sao ta cứ ngồi đây trong tòa tháp và ngẫm nghĩ, và chờ đợi, sử dụng ngay cả những người con của mình? Bởi ta vẫn có thể cầm kiếm đấy.”

Ông ta đứng dậy hất mớ áo choàng đen dài, và kia! dưới áo choàng ông ta mặc áo giáp, đeo thanh kiếm dài vỏ lớn màu đen và bạc. “Ta đã từng chinh chiến như thế đó, và nhiều năm nay đã ngủ như thế này,” ông ta nói, “để tuổi tác khỏi làm cho cơ thể trở nên mềm yếu và nhút nhát.”

“Nhưng giờ đây dưới trướng Chúa Tể Barad-dûr, kẻ ác liệt nhất trong những tên chỉ huy của hắn đã chiếm được vòng tường phòng ngự phía ngoài của ngài,” Gandalf nói. “Vua Angmar xa xưa, tên Pháp Sư, tên Ma Nhẫn, Thủ Lĩnh Nazgûl, ngọn giáo kinh hoàng trong tay Sauron, cái bóng tuyệt vọng.”

“Vậy thì, Mithrandir, ông đã có đối thủ xứng đáng rồi đấy,” Denethor nói. “Về phần ta, ta từ lâu đã biết ai là thủ lĩnh chính của những đoàn quân tòa Tháp Tối. Đây là tất cả những gì mà ông trở về báo tin sao? Hay ông đã rút lui bởi vì ông lâm vào thế yếu?”

Pippin run rẩy, sợ rằng Gandalf sẽ bị kích đột ngột nổi giận nhưng nỗi lo sợ ấy là vô ích. “Có lẽ vậy,” Gandalf nhẹ nhàng trả lời. “Nhưng đòn thử sức mạnh dành cho chúng ta còn chưa tới. Và nếu những lời truyền lại từ xưa là đúng, hắn sẽ không bị đánh bại dưới tay người đàn ông nào, và ngay cả Hội Đồng Thông Thái cũng mù mờ về định mệnh dành cho hắn. Dù sao, Thủ Lĩnh Tuyệt Vọng vẫn chưa dấn lên phía trước. Hắn có vẻ lãnh đạo theo châm ngôn như ngài vừa nói, từ phía sau, thúc giục lũ nô lệ của mình chạy đằng trước tới hóa điên.

“Không, đúng hơn là ta đi theo bảo vệ những người đã bị thương và vẫn có thể chữa trị; vì tường Rammas đã bị chọc thủng khắp nơi, và không bao lâu nữa đoàn quân Morgul sẽ xâm nhập qua nhiều điểm. Và ta chỉ ghé qua đây để nói điều này. Trận chiến sắp nổ ra trên những cánh đồng. Quân xuất kích cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Tốt nhất hãy là quân kỵ. Họ nắm giữ hy vọng mong manh của chúng ta, bởi chỉ có đúng một thứ mà kẻ địch vẫn không có đủ: hắn không có nhiều kỵ sĩ.”

“Và chúng ta cũng có rất ít. Giờ giá mà người Rohan đến kịp thời,” Denethor nói.

“Chúng ta có lẽ sẽ thấy những người mới tới khác đến trước bọn họ,” Gandalf nói. “Dân lánh nạn từ Cair Andros đã tới chỗ chúng ta. Cồn đảo thất thủ rồi. Một đạo quân nữa đang tới từ Cổng Đen, qua sông phía Đông Bắc.”

“Hẳn kẻ khác thì sẽ kết tội ông, Mithrandir ạ, rằng ông thích thú đem tới tin xấu,” Denethor nói, “nhưng với ta thì đó không còn là tin mới nữa: ta đã biết điều đó trước khi đêm buông xuống vào hôm qua. Còn về quân đột kích, ta đã nghĩ tới chuyện đó rồi. Chúng ta hãy đi xuống thôi.”

Thời gian trôi đi. Cuối cùng đến lúc lính canh trên tường thành nhìn thấy cuộc rút lui của quân từ các tiền đồn. Những nhóm quân nhỏ mệt mỏi và hầu hết đều đầy thương tích trở về đầu tiên gần như không còn hàng ngũ; một vài nhóm khác vội vã chạy như đang bị truy đuổi. Xa về phía Đông nhiều ánh lửa lóe lên, và giờ dường như chúng trườn qua cánh đồng khắp đây đó. Nhà cửa và kho thóc bốc cháy. Và rồi từ nhiều điểm, những dòng sông lửa đỏ nhỏ bé lướt nhanh, ngoằn ngoèo trong bóng tối, tụ lại trên con đường lớn chạy từ Đại Môn tới Osgiliath.

“Kẻ địch,” người ta thì thầm. “Hào đã mất rồi. Kìa chúng tới đây, tràn qua những lỗ thủng! Và có vẻ như chúng mang đuốc theo. Còn người của chúng ta đâu?”

Chỉ còn một tiếng nữa là đến tối, và ánh sáng tù mù tới mức thậm chí ngay cả những người tinh mắt trên Hoàng Thành cũng khó mà nhìn rõ được khung cảnh trên đồng, chỉ trừ các đám cháy càng lúc càng nhiều hơn, và những đường lửa mỗi lúc một dài và nhanh lẹ. Cuối cùng, chưa đầy một dặm cách Kinh Thành, một đám người trật tự hơn xuất hiện trong tầm nhìn, hành quân chứ không phải là chạy trốn, và vẫn trụ lại với nhau.

Những lính canh nín thở. “Faramir hẳn ở đó,” họ nói. “Ngài có thể chế ngự cả người lẫn thú. Ngài sẽ về kịp.”

Lúc này, đạo quân chính đang rút lui chỉ cách thành khoảng hai sải. Từ trong bóng tối phía sau, một đội kỵ sĩ nhỏ phi nước đại xông lên, tất cả những gì còn lại của đạo quân bọc hậu. Một lần nữa họ quay lại, đối đầu với những dòng lửa đang lao tới. Rồi đột ngột vang lên một tràng tiếng la hét hỗn loạn. Kỵ sĩ bên phía địch tràn lên. Những đường lửa trở thành những dòng chảy xiết, từng hàng, từng hàng Orc mang theo lửa, và những người miền Nam hoang dã giương cờ hiệu đỏ, la hét bằng lối nói thô lỗ, tràn tới bắt kịp đội quân tháo chạy. Và nghe một tiếng kêu chói tai, từ trên bầu trời tù mù ập tới những cái bóng có cánh, bọn Nazgûl bổ nhào xuống để giết chóc.

Cuộc rút lui trở thành tháo chạy. Nhiều người phá vỡ đội ngũ, hoảng sợ và chạy tán loạn khắp nơi, ném đi vũ khí, kêu lên sợ hãi, ngã xuống mặt đất.

Và rồi một tiếng kèn vang lên từ Hoàng Thành, và cuối cùng thì Denethor cũng tung ra quân đột kích. Tập hợp trong bóng tối Đại Môn và dưới những bức tường sừng sững bên ngoài, đã hồi lâu họ đợi dấu hiệu của ông: tất cả những kỵ sĩ còn ở trong Kinh Thành. Giờ họ lao về phía trước, hàng ngũ chỉnh tề, tăng tốc thành nước đại và tấn công với một tiếng thét to. Và từ phía tường một tiếng thét vang lên trả lời; bởi lao ở hàng đầu tiên trên cánh đồng là những kỵ sĩ thiên nga từ Dol Amroth, với Hoàng thân và ngọn cờ xanh biển phi hàng đầu.

“Amroth vì Gondor!” họ thét lớn. “Amroth tới bên Faramir!”

Như sấm sét, họ xông tới kẻ thù từ hai bên cánh đội quân rút lui; nhưng một người kỵ sĩ vượt lên trước hết, nhanh như ngọn gió trên đồng cỏ: Scadufax chở ông, chói sáng, đã lại lần nữa cởi áo choàng, một luồng sáng bùng lên từ bàn tay ông đưa lên cao.

Bọn Nazgûl ré lên và bay đi, bởi Thủ Lĩnh chúng còn chưa tới để đối đầu ngọn lửa trắng của kẻ địch. Những đạo quân Morgul đang chăm chăm vào con mồi, bị đánh bất ngờ khi đang lao nhanh, vỡ hàng ngũ, tan tác như những tia lửa trong cơn cuồng phong. Đội quân tiền đồn quay lại với tiếng reo hò vang dội và phản công những kẻ truy đuổi mình. Thợ săn trở thành kẻ bị săn. Đợt tháo chạy trở thành cuộc công kích. Trên khắp cánh đồng rải xác Orc và con người trúng đòn, và một lớp khói dày đặc bốc lên từ những ngọn đuốc bị ném đi, xèo xèo tắt trong những cuộn khói lượn vòng. Đội kỵ binh tiếp tục nện vó ngựa.

Nhưng Denethor không cho phép họ đi xa. Dù kẻ thù đã bị chặn lại, tạm thời đã bị đẩy lùi, những đạo quân lớn vẫn đang tràn tới từ phía Đông. Tiếng kèn đồng lại vang lên, báo hiệu lệnh rút lui. Đội kỵ binh Gondor ngừng lại. Được họ che chắn, đội quân trở về thiết lập lại đội hình. Giờ họ vững vàng hành quân quay lại. Họ tới Đại Môn và đi vào với những bước chân kiêu hãnh; và kiêu hãnh những người dân Kinh Thành nhìn họ và tung hô ca ngợi, nhưng dù vậy, trái tim họ bất an. Bởi quân số họ đã giảm đi trầm trọng. Faramir đã mất một phần ba quân của mình. Và chàng đâu rồi?

Chàng đi cuối cùng. Người của chàng vào hết. Những kỵ sĩ trở lại và phía sau họ là ngọn cờ của Dol Amroth, cùng chính Hoàng thân. Và trong cánh tay ông, trên lưng ngựa trước mặt ông, ông ôm thân thể người bà con, Faramir con trai Denethor, được tìm thấy trên cánh đồng ác liệt.

“Faramir! Faramir!” người ta kêu lên, khóc than trên những con phố. Nhưng chàng không trả lời, và họ đưa chàng đi lên con đường uốn khúc tới Hoàng Thành và tới bên cha chàng. Ngay giữa lúc bọn Nazgûl đã lượn đi trước sự tấn công của Kỵ Sĩ Trắng, một mũi tên chết chóc bay tới, và Faramir đã ngã xuống khi đang cầm cự với một chiến binh Harad trên lưng ngựa. Chỉ đợt tấn công của Dol Amroth mới cứu được chàng không bị những thanh kiếm đỏ miền Nam bổ xuống khi chàng đã ngã.

Hoàng thân Imrahil đưa Faramir tới Tháp Trắng, và ông nói: “Con trai ngài đã trở về, thưa Quốc Quản, sau những chiến tích lớn lao,” và ông kể lại tất cả những gì mình thấy. Nhưng Denethor đứng dậy nhìn gương mặt con trai và im lặng. Rồi ông ta bảo họ chuẩn bị giường trong phòng riêng và đặt Faramir lên đó rồi rời đi. Nhưng chính ông ta lại đi một mình lên căn phòng bí mật dưới đỉnh Tháp; và nhiều người ngước lên nhìn ngọn tháp vào thời điểm đó thấy ánh sáng nhợt nhạt rọi ra lập lòe một lúc trong những ô cửa sổ hẹp, rồi lóe lên và tắt. Và khi Denethor lại trở xuống, ông ta tới bên Faramir và ngồi cạnh chàng mà không nói gì, nhưng gương mặt vị Chúa Thành xám xịt, tái nhợt còn hơn con trai mình.

Và giờ đây Kinh Thành rốt cuộc đã bị vây hãm, siết chặt trong vòng vây quân địch. Tường Rammas đã vỡ, tất cả đồng Pelennor đều phó mặc vào tay Kẻ Thù. Những lời cuối cùng đến từ bên ngoài tường thành là của những người lao xuống con đường Bắc tiến trước khi Đại Môn đóng lại. Họ là tàn quân đội lính gác đóng ở nơi con đường từ Anórien và Rohan đổ vào các trang trại. Dẫn đầu họ chính là Ingold, người đã cho Gandalf và Pippin vào chưa đầy năm ngày trước, khi mặt trời vẫn còn mọc và vẫn còn hy vọng vào buổi sáng.

“Không có tin của người Rohirrim,” anh nói. “Giờ đây Rohan sẽ không tới. Hoặc nếu có tới, thì cũng sẽ không có ích gì cho chúng ta. Đạo quân mới mà chúng ta nghe nhắc đến đã tới trước, qua sông bằng đường qua Andros. Chúng rất mạnh: hàng binh đoàn Orc mang Con Mắt, và vô số đội Con Người, loại người mà chúng ta chưa gặp trước đây. Không cao, nhưng to bè và dữ tợn, râu ria như người lùn, vác những cây rìu lớn. Chúng đến từ mảnh đất dã man nào đó ở xa phía Đông, chúng tôi cho là vậy. Chúng đã chiếm giữ con đường Bắc tiến; và nhiều tên đã đổ vào Anórien. Người Rohirrim không thể tới.”

Đại Môn đóng lại. Cả đêm, lính canh trên các tường thành nghe thấy âm thanh vẳng đến từ kẻ thù đi càn bên ngoài, đốt trụi đồng và cây cối, chém nát bất cứ người nào chúng gặp bên ngoài, dù sống hay chết. Không thể đoán được số quân đã qua sông trong bóng tối, nhưng khi buổi sáng, hoặc cái bóng tù mù của nó vắt qua đồng bằng, có thể thấy rằng ngay cả nỗi sợ hãi mà ban đêm đem đến cũng không hề khiến người ta đếm quá đà. Cánh đồng tối sầm vì những đội quân tiến đến, và chừng nào mắt còn nhìn được trong cảnh âm u, còn thấy khắp xung quanh thành phố bị vây hãm, những khu lều trại đen hoặc đỏ thẫm trôi lên như một thứ nấm mốc bẩn thỉu.

Bận rộn như kiến, bọn Orc vội vã đào bới, khoét những đường hào sâu thành một vòng lớn, chỉ ngay ngoài tầm tên bắn từ các tường thành, và mỗi con hào đào xong lại được lấp đầy lửa, dù làm thế nào chúng nhóm và giữ lửa cháy, bằng kỹ thuật hay bằng quỷ thuật, thì không ai thấy được. Cả ngày hôm đó công việc của chúng tiếp tục, trong khi những người ở Minas Tirith chứng kiến mà không cách nào ngăn cản. Và khi mỗi khúc hào hoàn thành, họ lại thấy những xe thồ lớn tiến tới, và không lâu sau lại thêm những đạo quân kẻ thù nhanh chóng lắp đặt những cỗ máy lớn để bắn phá, mỗi cỗ máy ở đằng sau sự bảo hộ của một con hào. Không có máy móc nào trên tường thành đủ lớn để bắn tới nơi hay để ngăn cản công việc đó.

Ban đầu, người ta cười và không mấy sợ hãi những thiết bị kia. Bởi bức thành chính của Kinh Thành cao và cực kỳ dày, xây dựng từ trước khi sức mạnh và kỹ năng người Númenor phai nhạt trong cảnh lưu vong; và mặt ngoài thành giống như Tháp Orthanc, cứng, tối sẫm và phẳng lì, không thể đánh bại bằng sắt thép hay bằng lửa, không