← Quay lại trang sách

Quyển Sáu Chương I THÁP CIRITH UNGOL

Sam đau đớn nhấc mình khỏi mặt đất. Trong một thoáng chú tự hỏi mình đang ở đâu, rồi ngay sau đó cả đau đớn và tuyệt vọng cùng quay trở lại. Chú đang ở trong bóng tối dày đặc bên ngoài cổng ngầm của đồn lũy Orc; hai cánh cửa đồng thau đã khép chặt. Chú hẳn đã ngã xuống choáng váng khi lao đầu vào cửa; nhưng chú không biết mình đã nằm ở đây bao lâu. Lúc đó chú hừng hực bốc lửa, tuyệt vọng và tức giận; giờ đây chú run rẩy và lạnh buốt. Chú bò tới bên cửa, áp tai lên nghe ngóng.

Xa phía trong chú mơ hồ nghe thấy tiếng lũ Orc ồn ào, nhưng rất nhanh chúng ngưng bặt hoặc đi ra khỏi tầm nghe, và tất cả tĩnh lặng. Đầu chú đau nhức, mắt chú thấy những đốm sáng ma trơi trong bóng tối, nhưng chú cố gắng trấn tĩnh lại và suy ngẫm. Rõ ràng là kiểu gì chú cũng không có hy vọng vào được đồn lũy Orc qua cổng đó; có thể phải đợi ở đây hàng ngày trời nó mới được mở ra, mà chú thì không đợi được: thời gian lúc này quý giá đến tuyệt vọng. Không còn nghi ngờ gì nữa: bổn phận của chú là phải cứu cậu chủ của mình hoặc bỏ mạng trong khi cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.

“Bỏ mạng có lẽ khả dĩ hơn, và đằng nào cũng dễ hơn vô khối,” chú rầu rĩ tự nhủ, trong lúc tra thanh Mũi Đốt vào vỏ và rời khỏi những cánh cửa đồng. Chú chầm chậm mò mẫm quay lại dọc theo đường hầm trong bóng tối, không dám sử dụng nguồn ánh sáng tiên; trên đường, chú cố gắng chắp nối lại những sự kiện kể từ khi Frodo và chú rời Ngã Tư. Chú tự hỏi lúc này là mấy giờ. Đâu đó giữa hôm nay và hôm sau, chú đoán vậy; nhưng ngay cả ngày tháng chú cũng hoàn toàn mất dấu rồi. Chú đang ở một vùng đất tăm tối nơi ngày của thế gian có vẻ như đã bị quên lãng, và tất cả những kẻ tiến vào đây cũng bị quên lãng theo.

“Chẳng biết họ có nghĩ tí nào đến bọn mình không,” chú nói, “và điều gì đang xảy ra với họ ở tít tận đằng đó nhỉ.” Chú huơ tay áng chừng trong không trung trước mặt; nhưng thực ra lúc này chú đang quay về hướng Nam, trên đường quay trở lại đường hầm Bà Nhện, không phải phía Tây. Ở thế giới phía Tây ngoài kia, trời đang đổ về trưa ngày mười bốn tháng Ba theo lịch Quận, và ngay lúc này, Aragorn đang chỉ huy đội tàu đen đi từ cảng Pelargir, còn Merry đang cưỡi ngựa cùng người Rohirrim xuống Thung Xe Đá, trong khi ở Minas Tirith lửa đang bùng cháy và Pippin chứng kiến nỗi điên loạn dâng lên trong đôi mắt Denethor. Nhưng bất chấp những lo lắng và sợ hãi riêng, ý nghĩ của bạn bè họ luôn hướng về Frodo và Sam. Họ không bị lãng quên. Nhưng họ đã ở quá xa ngoài tầm trợ giúp, và không ý nghĩ bạn bè nào có thể giúp đỡ được gì cho Samwise, con trai Hamfast; chú hoàn toàn đơn độc.

Cuối cùng chú trở lại cánh cửa đá dẫn vào hành lang Orc và vẫn không tìm được then hay chốt cài cánh cửa, chú đành trèo qua mép trên như lúc trước và rơi nhẹ nhàng xuống đất. Rồi chú lén lút đi ra tới miệng đường hầm Bà Nhện, nơi cái mạng nhện lớn rách nát của mụ vẫn phần phật đu đưa trong khí lạnh. Sam cảm thấy trời dường như lạnh hơn sau khi chú vừa đi qua bóng tối hôi thối; nhưng hơi thở lạnh lẽo này lại khiến chú khỏe lại. Chú thận trọng trườn ra ngoài.

Tất cả đều chìm trong sự yên tĩnh như điềm gở. Ánh sáng không hơn gì ánh sáng của giờ khắc nhá nhem sau một ngày đen tối. Làn khói khổng lồ bốc lên ở Mordor đang trôi về phương Tây nay là là lướt qua trên đầu chú, một đám mây khói hỗn độn giờ ửng lên bên dưới vầng sáng đỏ ảm đạm.

Sam ngước về phía ngọn tháp Orc, và đột nhiên từ những ô cửa hẹp, ánh sáng lóe ra như những con mắt nhỏ màu đỏ. Chú tự hỏi liệu đấy có phải là tín hiệu gì đó không. Nỗi sợ lũ Orc, vốn tạm thời bị lãng quên trong cơn giận dữ và tuyệt vọng, giờ đã trở lại. Cứ như chú thấy, chỉ có một con đường có thể đi: chú phải đi tiếp, cố gắng tìm được cổng chính vào tòa tháp kinh khiếp kia; nhưng đầu gối chú bủn rủn, và chú nhận ra mình đang run rẩy. Cụp mắt xuống khỏi tòa tháp và những mỏm nhọn của Khe Nứt phía trước, chú buộc đôi chân bất tuân phải phục tùng, vừa chầm chậm, chăm chú lắng nghe, săm soi bóng những khối đá rậm rịt bên đường, chú vừa lần bước ngược lại, qua nền đá Frodo đã ngã, nơi mùi hôi thối của Bà Nhện vẫn còn lởn vởn, và rồi đi tiếp lên cao, cho tới khi đứng ở trong chính khe nứt nơi chú đã đeo Nhẫn lên nhìn đội quân của Shagrat đi qua.

Chú ngừng bước và ngồi xuống đó. Hiện thời chú không thể ép mình đi thêm được nữa. Chú cảm thấy một khi vượt qua đỉnh đèo và thực sự đặt một bước xuống vùng đất Mordor, bước chân đó sẽ không thể vãn hồi. Chú sẽ không bao giờ có thể quay trở lại. Không hẳn nhằm mục đích rõ ràng gì, chú lấy chiếc Nhẫn ra và lại đeo nó lên. Ngay lập tức chú cảm thấy sức nặng ghê gớm của nó, và lại cảm thấy y như trước, nhưng giờ mạnh mẽ và khẩn cấp hơn bao giờ hết, nó đang tìm kiếm, cố gắng nhìn xuyên qua màn bóng tối hắc ám vốn được nó tạo ra hòng phòng thủ nhưng giờ lại cản trở nó trong nỗi bồn chồn và nghi ngờ.

Và như lúc trước, Sam cảm thấy thính giác trở nên sắc bén hơn, nhưng thị giác lại cảm nhận thế giới vạn vật nhạt nhòa và mơ hồ. Vách đá hai bên lối mòn nhợt nhạt, như thể nhìn qua một màn sương, nhưng ở rất xa, chú vẫn nghe được tiếng Bà Nhện òng ọc đau đớn; và rõ ràng đến chói tai, dường như từ rất gần chú nghe tiếng la thét và tiếng kim loại chạm nhau. Chú bật dậy áp mình vào vách đá bên đường. Chú mừng vì có chiếc Nhẫn, vì trên đường lại thêm một đạo quân Orc nữa. Hoặc ban đầu chú cứ tưởng vậy. Rồi đột nhiên chú nhận ra không phải vậy, thính giác đã lừa gạt chú: tiếng kêu la của bầy Orc vọng đến từ tòa tháp nơi chiếc sừng nhọn trên cùng giờ ở ngay trên chú, bên trái Khe Nứt.

Sam run bắn người, cố ép mình di chuyển. Rõ ràng có trò quỷ thuật gì đó đang diễn ra. Có lẽ bất chấp tất cả mọi mệnh lệnh, thói độc ác của lũ Orc đã chi phối chúng, và chúng đang tra tấn Frodo, hoặc thậm chí tàn nhẫn xẻ cậu thành từng mảnh. Chú lắng nghe; và trong khi nghe, một tia hy vọng bừng lên trong chú. Không phải nghi ngờ nhiều nữa: có đánh lộn trong tòa tháp, lũ Orc hẳn đang chống đối lẫn nhau, Shagrat và Gorbag đã lao vào ẩu đả. Niềm hy vọng mang đến từ điều chú đoán thật mong manh, nhưng cũng đủ để kéo chú dậy. Có lẽ vẫn có một cơ may. Tình yêu dành cho Frodo vượt lên mọi ý nghĩ khác, và quên đi nguy hiểm của mình, chú kêu to: “Tôi tới đây cậu Frodo!”

Chú chạy về phía trước trên lối mòn dẫn lên cao và băng qua khe nứt. Ngay lập tức đường rẽ trái và đâm dốc xuống. Sam đã tiến vào Mordor.

* * *

Chú tháo Nhẫn ra, có lẽ bị xúi giục bởi linh cảm từ tận đáy lòng về nguy hiểm, dù với chú, chú chỉ nghĩ rằng mình muốn nhìn rõ ràng hơn. “Tốt hơn hết, hãy nhìn vào điều tồi tệ nhất “ chú lẩm bẩm. “Cứ mò mẫm trong màn sương cũng chẳng ích gì!”

Mảnh đất đập vào mắt chú thô cứng, tàn nhẫn và ác liệt. Ngay trước chân chú, dải cao nhất của dãy Ephel Dúath đổ dốc thăm thẳm thành những vách dựng lớn hút xuống một lòng máng tối tăm, bên kia lòng máng mọc lên một dải núi khác, thấp hơn nhiều, sống núi răng cưa lởm chởm những mỏm đá như răng nanh sừng sững, in tối đen trên nền sáng đỏ phía sau: đó là rặng Morgai gớm guốc, hàng rào phía trong che chắn cho vùng đất. Xa xa, sau rặng núi, nhưng gần như thẳng trước mặt, ở bờ bên kia vùng bóng tối mênh mang lốm đốm những chấm lửa nhỏ xíu, có một quầng sáng lớn đang rừng rực; và chính từ nơi đó một đám khói lớn cuồn cuộn bốc lên thành nhiều cột, đỏ thẫm dưới gốc đen kịt trên ngọn, nơi nó nhập vào vòm khói cuồn cuộn trùm bóng khắp miền đất bị nguyền rủa.

Sam đang nhìn vào Orodruin, Ngọn Núi Lửa. Cứ thỉnh thoảng những lò lửa nằm tít trong lòng chóp nhọn màu tro lại nóng lên và xung động dữ dội, phun trào những dòng sông nham thạch từ các kẽ nứt sâu thẳm quanh sườn núi. Một vài dòng rừng rực chảy về phía Barad-dûr theo những rãnh lớn; một vài dòng ngoằn ngoèo đổ vào cánh đồng đá, tới khi nguội đi nằm lại đó như những hình rồng vặn vẹo mửa lên từ mặt đất chịu giày vò. Chính vào một thời khắc vật vã như thế Sam nhìn thấy Đỉnh Định Mệnh, và ánh sáng của nó, bị dãy Ephel Dúath cao vời vợi chặn khỏi mắt kẻ leo lên lối mòn từ phía Tây, giờ đang hắt lên những bề mặt đá trơ trụi, khiến chúng nhìn như loang lổ máu.

Trong làn ánh sáng khủng khiếp đó, Sam kinh hoàng đứng sững, vì lúc này, nhìn về bên trái, chú đã thấy Tháp Cirith Ungol với toàn bộ sức mạnh của nó. Sừng nhọn mà chú thấy ở bên kia chỉ là tháp tròn trên nóc. Mặt phía Đông tháp dựng lên thành ba lớp cao trên mặt thềm đá của đỉnh vách núi sâu hút; lưng xoay vào vách đá khổng lồ phía sau, từ đó nhô ra những mũi pháo đài nhọn, tầng tầng lớp lớp, nhỏ dần khi lên cao, các mặt bên là các công trình đá tinh xảo thẳng đứng hướng về phía Đông Bắc và Đông Nam. Quanh lớp tháp dưới cùng, hai trăm bộ phía dưới nơi Sam đang đứng, một bức thành có tường răng cưa bao lấy cái sân hẹp. Cổng tường thành, nằm mặt Đông Nam gần chú hơn, mở ra một con đường rộng, tường phòng hộ ngoài chạy sát gờ một vách đứng, cho tới khi quành về phía Nam rồi ngoằn ngoèo dẫn xuống bóng tối để hội ngộ con đường đi qua Đèo Morgul. Rồi tiếp tục, nó đi qua một khe núi lởm chởm giữa rặng Morgai đổ vào thung lũng Gorgoroth, rồi đi xa mãi tới Barad-dûr. Con đường hẹp bên trên nơi Sam đứng đổ xuống qua những cầu thang và lối đi dốc rồi nối vào đường chính dưới những bức tường cau có gần cổng Tháp.

Trong lúc chăm chú nhìn, đột nhiên Sam chợt hiểu, gần như với sự bất ngờ choáng váng, rằng thành lũy này được xây nên không phải để ngăn kẻ thù lại bên ngoài Mordor, mà là để giam chúng ở bên trong. Đây thực tế là một trong những công trình của Gondor từ xa xưa, một tiền đồn phía Đông nhằm phòng thủ Ithilien, được xây sau Liên Minh Cuối Cùng khi những Con Người Tây Châu canh chừng miền đất ác quỷ của Sauron, nơi những sinh vật của hắn vẫn lẩn khuất. Nhưng cũng như Narchost và Carchost, hai tòa Tháp Nanh, ở đây sự cảnh giác dần lơi là, và lòng phản trắc đã giao nộp Tháp cho Thủ Lĩnh các Ma Nhẫn, và từ nhiều năm nay nó đã bị những loài ác độc chiếm giữ. Kể từ khi trở về Mordor, Sauron thấy tháp này hữu dụng; vì hắn có ít bề tôi nhưng lại có nhiều nô lệ bị cầm tù do nỗi sợ, và mục đích chính của nó vẫn như xưa, ngăn chặn nỗ lực bỏ trốn khỏi Mordor. Tuy nhiên, nếu vẫn có kẻ thù liều mạng tìm cách lẻn vào miền đất này, thì đây cũng chính là tên lính canh không ngủ cuối cùng chống lại bất cứ kẻ nào vượt qua được sự cảnh giác của Morgul và Bà Nhện.

Sam thấy quá rõ ràng là sẽ tuyệt nhiên không có khả năng cho chú lẻn xuống dưới trước những bức tường với vô số con mắt rồi đi qua cái cổng canh chừng cẩn mật. Và thậm chí nếu như làm được vậy, chú cũng không thể đi xa trên con đường được canh gác bên kia cổng: ngay cả bóng tối nằm sâu ngoài vầng sáng đỏ cũng sẽ không bảo vệ chú được lâu khỏi lũ Orc nhìn được trong đêm. Nhưng dù con đường đó tuyệt vọng như thế nào, nhiệm vụ của chú giờ còn tuyệt vọng hơn: không phải tránh khỏi cổng và trốn thoát, mà là tiến vào đó, một mình.

* * *

Chú lại nghĩ về chiếc Nhẫn, nhưng không tìm được chút an ủi nào, chỉ có kinh hoàng và nguy hiểm. Ngay khi vào tới nơi, nhìn thấy Đỉnh Định Mệnh cháy rực đằng xa, chú đã nhận thức được gánh nặng trên cổ mình thay đổi. Càng tới gần những lò lửa lớn, nơi trong những vực thẳm thời gian chiếc Nhẫn đã được tạo hình và rèn giũa, quyền năng của chiếc Nhẫn càng mạnh lên và nó càng trở nên dữ dội, không thể chế ngự trừ phi có ý chí phi thường. Khi Sam đứng đó, dù không đeo chiếc Nhẫn trên tay mà xỏ nó vào sợi xích quanh cổ, chú cảm thấy mình trương phồng lên, như thể đang khoác lên người cái bóng khổng lồ méo mó của chính mình, một mối nguy hại to lớn và đáng ngại hắt trên những bức tường Mordor. Chú cảm thấy từ giờ mình chỉ có hai lựa chọn: kháng cự lại chiếc Nhẫn, dù nó sẽ hành hạ chú; hoặc chiếm lấy nó, và thách thức Thế Lực ngự trong thành trì hắc ám bên kia thung lũng bóng tối. Ngay lúc này chiếc Nhẫn đã cám dỗ gọi chú, gặm nhấm quyết tâm và lý trí chú. Những mộng tưởng điên cuồng hình thành trong đầu; và chú thấy Samwise Siêu Việt, Người Hùng của Kỷ Nguyên, sải bước với thanh kiếm rực lửa qua miền đất tối tăm, và những đạo quân đổ đến theo lời hiệu triệu trên đường chú hành quân tới lật đổ Barad-dûr. Và rồi mọi mây mù bị cuốn đi và mặt trời trắng lóa rực sáng, và theo lệnh chú, thung lũng Gorgoroth trở thành một vườn hoa lẫn cây ăn quả đậu đầy trái ngọt. Chú chỉ cần đeo Nhẫn lên chiếm làm của mình, và tất cả những điều này có thể xảy ra.

Trong thời khắc thử thách ấy, chính tình yêu đối với cậu chủ mình là điều quan trọng nhất giúp chú kiên cường; cũng còn bởi sâu bên trong chú vẫn ẩn chứa trí khôn chất phác của người Hobbit, không gì làm sa ngã được: từ trong thâm tâm chú biết mình không đủ lớn lao để mang gánh nặng ấy, kể cả nếu những viễn cảnh đó không phải chỉ là trò dối trá để lừa gạt chú. Một khu vườn nhỏ của người làm vườn tự do là tất cả những gì chú cần và đáng hưởng, không phải một khu vườn phình lên thành vương quốc; cũng như quyền sử dụng bàn tay của chính mình, không phải quyền chi phối bàn tay những người khác.

“Và dù sao những ý tưởng ấy cũng chỉ là trò lừa,” chú bụng bảo dạ. “Hắn sẽ ngó thấy mình và hù mình mất vía, trước khi mình kịp hét lên nữa kìa. Hắn sẽ ngó thấy mình, rất nhanh, nếu giờ mình đeo Nhẫn lên, tại Mordor. Chà, mình chỉ có thể nói một điều: mọi chuyện có vẻ vô vọng như sương giá giữa mùa Xuân. Đúng cái lúc chuyện biến thành vô hình sẽ có ích cực kỳ thì mình lại không thể dùng cái Nhẫn! Và nếu mình có đi xa hơn được tí tẹo nào thì nó sẽ chẳng giúp ích được gì mà chỉ là gánh nặng và trở ngại mỗi bước mình đi. Vậy thì làm gì bây giờ?”

Nói thế không hẳn là vì chú đang băn khoăn. Chú biết mình phải đi xuống cổng và không trì hoãn nữa. Nhún vai một cái, như thể để rũ đi bóng tối và gạt bỏ những bóng ma, chú bắt đầu chầm chậm đi xuống. Mỗi bước đi chú lại cảm thấy dường như mình nhỏ bé hơn. Chưa đi được bao lâu thì chú đã co rút trở lại thành một cậu Hobbit nhỏ xíu và hoảng sợ. Giờ chú đi ngay dưới tường Tháp, và những tiếng kêu la cùng âm thanh đánh nhau ập vào tai chú mà không cần gì trợ giúp. Lúc này, tiếng động hình như đến từ cái sân đằng sau tường ngoài.

Sam đang đi được nửa đường xuống lối mòn thì từ cổng vào tối tăm dẫn đến quầng sáng đỏ có hai tên Orc chạy ra. Chúng không quay về phía chú. Chúng đang hướng ra đường chính; nhưng giữa lúc chạy, chúng loạng choạng ngã xuống đất và nằm im. Sam không thấy mũi tên nào, nhưng chú đoán là hai tên Orc đó đã bị những tên trên tường răng cưa hoặc đang ẩn náu trong bóng tối dưới cổng bắn hạ. Chú đi tiếp, bám lấy tường bên trái. Chỉ ngước nhìn lên một lần, chú đã biết không hy vọng trèo lên được. Công trình đá cao ba mươi bộ, không có khe nứt hay gờ bám, vươn lên đến những hàng đá chìa ra như những bậc thang lật ngược. Cổng là đường vào duy nhất.

Chú tiếp tục lần đi; và vừa đi tiếp, chú vừa tự hỏi trong Tháp có bao nhiêu Orc ở phía Shagrat, và Gorbag có bao nhiêu, và chúng đang tranh cãi điều gì, nếu quả thực tranh cãi đang xảy ra. Đội quân của Shagrat lúc nãy ước chừng bốn mươi tên, Gorbag thì nhiều gấp đôi; nhưng dĩ nhiên đội tuần tra của Shagrat chỉ là một phần quân đồn trú. Gần như chắc chắn là chúng đang tranh cãi về Frodo, và chiến lợi phẩm. Trong một thoáng, Sam bất chợt ngừng bước, vì đột nhiên mọi thứ trở nên rõ ràng gần như chú nhìn thấy bằng chính mắt mình. Chiếc áo giáp mithril! Dĩ nhiên, Frodo đang mặc nó, và chúng sẽ tìm thấy. Và theo những gì Sam nghe được, Gorbag sẽ thèm muốn nó. Nhưng lúc này, mệnh lệnh của tòa Tháp Tối là sự bảo hộ duy nhất của Frodo, và nếu lệnh ấy bị gạt sang bên, Frodo có thể bị lỡ tay giết chết bất cứ lúc nào.

“Thôi nào, thằng lười nhác khốn khổ này!” Sam kêu lên với chính mình. “Giờ đi thôi!” Chú rút thanh Mũi Đốt ra và chạy về phía cổng vào đang để mở. Nhưng ngay khi sắp vượt qua vòm cổng lớn, chú cảm thấy một cú sốc: như thể chú vừa lao vào cái mạng nhện của Bà Nhện, chỉ là giờ nó vô hình. Chú không thấy vật cản nào, nhưng có thứ gì đó cản đường, quá mạnh để ý chí chú có thể vượt qua. Chú nhìn quanh, rồi bên trong bóng tối dưới vòm cổng, chú nhìn thấy Hai Tên Gác.

Chúng giống như những hình nhân lớn ngồi trên ngai. Mỗi tên được tạo nên từ ba thân mình nhập lại, và ba cái đầu nhìn ra ngoài, vào trong, và ngang qua cổng. Đầu chúng mang gương mặt kền kền, những bàn tay giống như móng vuốt đặt trên các đầu gối lớn. Dường như chúng được tạc ra từ những khối đá lớn, bất động, nhưng lại có nhận thức: những linh hồn hiểm độc cảnh giác tồn tại trong chúng. Chúng nhận ra kẻ địch. Hữu hình hay vô hình, không ai có thể đi qua mà không bị chú ý. Chúng sẽ cấm chú đi vào, hay trốn thoát.

Vực dậy ý chí của mình, Sam lại lao lên lần nữa, và bị chặn khựng lại, lảo đảo như thể vừa bị đánh lên đầu và ngực. Rồi cực kỳ liều lĩnh, bởi không nghĩ ra được điều gì đáng làm nữa, đáp lại một ý nghĩ bất chợt đến với mình, chú chầm chậm rút ra lọ nước của Galadriel và giơ lên cao. Ánh sáng trắng trong lọ nhanh chóng mạnh lên, và những mảng bóng bên dưới mái vòm tối tăm tháo chạy. Hai tên Gác gớm guốc ngồi đó lạnh lẽo và lặng yên, phơi trần tất cả hình thù xấu xí của chúng. Trong thoáng chốc Sam thấy có ánh lấp lánh trong những con mắt đá đen, nguyên ác tâm ấy cũng đủ khiến chú run sợ; nhưng dần dà, chú cảm thấy ý chí chúng nao núng và tan vỡ thành sợ hãi.

Chú chạy vọt qua chúng; nhưng đương khi làm vậy, vừa đút lại cái lọ vào ngực áo, chú ý thức được rõ rệt rằng sự canh chừng của chúng đã trở lại như một thanh sắt vừa sập vào chỗ cũ sau lưng. Và từ những cái đầu ma quái, một tiếng rít cao chói lói cất lên, vang vọng trên những bức tường sừng sững trước mặt chú. Tít trên cao, như tín hiệu trả lời, một tiếng chuông chói tai duy nhất đánh lên.

* * *

“Xong rồi!” Sam nói. “Giờ thì mình đã rung chuông cửa chính rồi! Chà, đến đây đi ai đó ơi!” chú kêu lên. “Nói với Chỉ Huy Shagrat rằng chiến binh Tiên vĩ đại đã gọi cửa, cùng với thanh kiếm tiên của hắn nữa!”

Không có ai trả lời. Sam đi về phía trước. Thanh Mũi Đốt lấp lánh xanh trong tay chú. Cái sân chìm trong bóng tối dày đặc, nhưng chú có thể thấy trên đá lát rải đầy xác chết. Ngay bên chân chú là hai cung thủ Orc bị dao đâm vào lưng. Phía trước còn nhiều hình thù khác: một số đơn độc như thể đã bị chém gục hoặc bắn chết; một số khác theo đôi, vẫn còn túm lấy nhau, chết ngay giữa chừng đang đâm chém, bóp cổ, cắn xé. Mặt đá trơn trượt vì máu đen sẫm.

Sam để ý thấy có hai kiểu chế phục, một có biểu tượng Con Mắt Đỏ, kiểu còn lại có Mặt Trăng bị bóp méo mang gương mặt chết chóc ma quái; nhưng chú không dừng lại nhìn kỹ hơn. Bên kia sân, một cánh cửa lớn ở chân Tháp hé mở, ánh sáng đỏ từ đó hắt ra ngoài; một tên Orc to xác nằm chết trên bậc cửa. Sam nhảy qua thi thể đi vào; rồi chú bối rối săm soi xung quanh.

Một hành lang rộng âm vang dẫn từ cửa về mé núi. Bên trong lờ mờ sáng nhờ những ngọn đuốc bập bùng trong giá đỡ trên tường, nhưng đoạn cuối hành lang chìm trong bóng tối. Có thể thấy nhiều cánh cửa và ngã rẽ khác bên phía này hay phía kia; nhưng hành lang vắng vẻ, chỉ trừ hai hoặc ba cái xác nữa nằm xoài trên sàn. Từ những gì nghe thấy trong câu chuyện của hai tên chỉ huy, Sam biết khả năng lớn nhất là Frodo, dù đã chết hay còn sống, đang ở trong căn phòng nào đó ở tít tận tháp tròn trên cùng; nhưng chú có thể phải mất cả ngày mới tìm được đường lên.

“Mình đoán nó sẽ ở gần phía sau,” Sam lẩm bẩm. “Cả tòa Tháp dường như mọc giật lùi. Dù sao tốt nhất mình cứ đi theo ánh đuốc.”

Chú đi theo hành lang, nhưng giờ từ từ, mỗi bước càng thêm nao núng. Nỗi kinh hoàng lại bắt đầu choán lấy chú. Không có âm thanh nào ngoài bước chân lép bép của chú, tiếng động dường như to dần thành tiếng vọng, như tiếng những bàn tay lớn vỗ trên đá. Những xác chết; cảnh trống rỗng; các bức tường đen ẩm ướt dường như nhỏ ròng ròng máu dưới ánh đuốc; nỗi sợ trước cái chết bất thình lình đang ẩn náu trong ô cửa hoặc nơi bóng tối; và sâu trong tâm trí chú là suy nghĩ về ác tâm cảnh giác đang chờ sẵn ở cổng: tất cả gần như vượt quá những gì chú có thể buộc mình đối diện. Chú thà phải đối mặt với một trận đánh nhau - miễn đừng nhiều kẻ thù cùng lúc quá - còn hơn là sự bất trắc tiềm tàng nguy hiểm đến khó chịu này. Chú buộc mình phải nghĩ tới Frodo, đang nằm bị trói hoặc đau đớn hoặc đã chết đâu đó tại cái nơi đáng sợ này. Chú tiến lên.

Lúc chú vừa đi hết khoảng sáng nhờ ánh đuốc, sắp tới cánh cửa vòm lớn ở cuối hành lang, mặt trong cổng ngầm, đúng như chú đoán, thì từ rất cao bên trên vang xuống một tiếng thét tắc nghẹn kinh khiếp. Chú chững người. Rồi chú nghe thấy tiếng bước chân tới gần. Có kẻ đang cực kỳ vội vã chạy xuống cái cầu thang âm vang trên đầu.

Ý chí của chú quá yếu ớt và chậm chạp không kiểm soát nổi tay mình. Nó giật sợi xích và siết chặt quanh chiếc Nhẫn. Nhưng Sam không đeo nó lên; vì ngay khi chú nắm chặt nó áp vào ngực, một tên Orc đã ồn ào chạy xuống. Nhảy ra từ một ngã rẽ tối bên phải nó chạy về phía chú. Còn cách chưa đầy sáu bước thì nó ngẩng đầu lên thấy chú; và Sam có thể thấy nó thở hắt ra, cặp mắt đỏ máu trừng trừng nhìn. Nó kinh hoảng dừng lại. Vì trước mắt nó không phải là một tên Hobbit nhỏ bé sợ hãi đang cố nắm chắc kiếm: nó thấy một bóng hình lớn câm lặng, che phủ trong bóng tối xám xịt, lù lù trên nền ánh sáng lập lòe phía sau; một tay cái bóng cầm kiếm, nội ánh sáng từ đó đã đủ gây nhức nhối, tay kia nắm chặt trên ngực, như che giấu thứ quyền năng và sự hủy diệt ghê gớm không tên nào đó.

Trong một thoáng tên Orc co rúm lại, và rồi với một tiếng sủa kinh tởm đầy sợ hãi, nó quay đầu tháo chạy trở lại hướng vừa tới. Nỗi phấn khích của bất kỳ chú chó nào khi kẻ thù cụp đuôi co cẳng chạy cũng không thể lớn bằng nỗi phấn khích của Sam trước sự bỏ trốn bất ngờ này. Chú hét lên một tiếng đuổi theo.

“Đứng đó! Chiến binh Tiên xổng chuồng đây!” chú kêu lên. “Ta tới đây. Hãy chỉ cho ta đường lên, không ta lột xác ngươi!”

Nhưng tên Orc đang cậy gần chuồng, lại lanh lẹ và no bụng. Sam là kẻ lạ mặt, đói và kiệt sức. Cầu thang thì cao, dốc và ngoằn ngoèo. Hơi thở Sam bắt đầu đứt quãng. Tên Orc nhanh chóng biến mất khỏi tầm nhìn, và giờ chỉ mơ hồ vẳng lại tiếng bước chân nó tiếp tục lên cao. Cứ chốc chốc nó lại sủa ré lên và tiếng vọng dội xuống dọc theo tường. Nhưng dần dần, mọi âm thanh đều tắt lặng.

Sam nặng nề đi tiếp. Chú cảm thấy mình đang đi đúng hướng, và tinh thần đã phấn chấn hơn nhiều. Chú cất chiếc Nhẫn đi và siết chặt thắt lưng. “Chà, chà!” chú nói. “Giá như tất cả bọn chúng đều không khoái mình với Mũi Đốt như vậy, thì chuyện này có thể tốt đẹp hơn mình nghĩ. Và dù sao có vẻ như Shagrat, Gorbag, và đám quân đã làm thay hầu hết việc của mình rồi. Trừ con chuột nhỏ hoảng sợ kia, mình tin không ai còn sống ở đây hết!”

Vừa nghĩ vậy xong chú chợt ngừng bước, sững người, như thể vừa đập đầu vào tường đá. Ý nghĩa trọn vẹn của điều vừa nói ra ập đến chú như một cú đánh. Không ai còn sống! Vậy tiếng thét bỏ mạng kinh khủng đó là của ai chứ? “Frodo, Frodo! Cậu chủ!” chú kêu lên gần như nức nở. “Nếu bọn chúng giết cậu rồi tôi phải làm gì? Ôi, cuối cùng tôi cũng đang đến đây, lên tận đỉnh, để thấy điều tôi phải thấy.”

Lên mãi, lên mãi, chú tiếp tục đi. Đường tối sầm chỉ trừ vài ngọn đuốc lập lòe đây đó ở chỗ ngoặt, hoặc cạnh miệng hành lang nào đó dẫn lên những lớp tháp cao hơn. Sam cố gắng đếm số bậc thang, nhưng sau khoảng hai trăm bước chú bị mất dấu. Giờ chú di chuyển yên lặng, vì chú nghĩ mình nghe thấy những giọng nói đang trò chuyện, ở trên cao. Có lẽ không chỉ một con chuột còn sống.

Đúng lúc chú cảm thấy không thể ép thêm hơi thở nào ra khỏi phổi, hay buộc đầu gối tiếp tục nâng lên, cầu thang đột ngột kết thúc. Chú đứng yên. Các giọng nói giờ to và gần. Sam ngó quanh. Chú đã trèo lên tận mái phẳng lớp tháp thứ ba, lớp trên cùng: một khoảng sân lộ thiên, bề ngang khoảng hai mươi thước, bao quanh có tường phòng hộ thấp. Tới đó đầu cầu thang được che bởi một căn phòng đỉnh vòm nằm chính giữa mái, có hai cửa thấp mở về hướng Đông và Tây. Qua cửa phía Đông, Sam nhìn thấy đồng bằng Mordor bao la tối tăm phía dưới, và ngọn núi rực cháy đằng xa. Những hố sâu đáy núi lại bắt đầu sục sôi hỗn loạn, và những dòng sông lửa rừng rực mãnh liệt đến mức cách xa nhiều dặm thế này, chúng vẫn hắt sáng đỏ gắt lên nóc tháp. Phía Tây, tầm nhìn bị chắn bởi chân ngọn tháp tròn lớn nằm cuối sân mái này, vươn chiếc sừng cao vượt hẳn bên trên đỉnh những ngọn đồi bao quanh. Ánh sáng ló ra qua khe cửa sổ. Cửa ra vào tháp tròn cách nơi Sam đứng không đầy mười thước. Cửa này mở nhưng tối sầm, và trong vùng bóng tối ngay trong cửa, những giọng nói vọng tới.

Ban đầu Sam không lắng nghe; chú bước một bước ra khỏi cửa phía Đông và nhìn quanh. Ngay lập tức chú thấy cuộc đánh lộn dữ dội nhất chính là ở trên này. Khắp sân chất nghẹt xác Orc, hoặc những cái đầu và chân tay bị chém đứt rải rác. Nơi này bốc mùi chết chóc. Một tiếng gầm gừ kéo theo tiếng đánh và tiếng hét khiến chú vọt ngược trở lại chỗ nấp. Có giọng Orc vang lên tức giận, và chú nhận ra nó ngay, thô ráp, cục súc và lạnh lẽo. Kẻ đang nói là Shagrat, tên Chỉ Huy tòa Tháp.

“Mày không đi nữa, mày nói thế hả? Mẹ mày, Snaga, con giòi chết tiệt này! Nếu mày nghĩ tao bị thương đến mức mày có thể bất tuân lệnh tao thì mày nhầm rồi. Tới đây xem tao moi mắt mày ra, như tao vừa làm với thằng Radbug. Và khi quân mới tới, tao sẽ xử lý mày: tao sẽ vứt mày cho Bà Nhện.”

“Chúng sẽ không đến, đằng nào thì trước khi mày chết cũng không,” Snaga làu nhàu trả lời. “Tao đã bảo mày hai lần rằng lũ lợn của Gorbag tới cổng trước, và người của ta không ai ra được. Lagduf và Muzgash chạy qua, nhưng chúng nó bị bắn chết. Cho mày biết là tao thấy từ cửa sổ đấy. Và đấy là hai đứa cuối cùng.”

“Vậy thì mày phải đi. Dù sao tao cũng phải ở đây. Mà tao bị thương. Cầu cho Hố Đen nuốt chửng thằng nổi loạn Gorbag bẩn thỉu!” Giọng Shagrat kéo dài thành một chuỗi biệt hiệu và lời chửi rủa tục tĩu. “Tao đãi nó còn sướng hơn tao, nhưng nó dám đâm tao, thằng rác rưởi, trước khi tao bóp cổ nó. Mày phải đi, không tao sẽ ăn thịt mày. Phải đem tin tới Lugbúrz, không chúng ta đều sẽ bị quẳng xuống Hố Đen tuốt. Phải, cả mày nữa. Mày sẽ không thoát được nhờ ẩn náu ở đây đâu.”

“Tao sẽ không xuống cầu thang đó nữa,” Snaga hầm hè, “dù mày có là chỉ huy hay không. Khồng! Bỏ tay ra khỏi dao không thì tao sẽ mời mày xơi tên. Mày chẳng còn là chỉ huy lâu nữa đâu khi nào Họ nghe được tất cả những chuyện này. Tao đã chiến đấu bảo vệ Tháp trước lũ chuột Morgul hôi hám, trong khi hai tên chỉ huy quý báu chúng mày đã gây ra mớ lộn xộn hay gớm, gấu ó vì của đi hôi.”

“Mày nói đủ rồi đó!” Shagrat gầm gừ. “Tao phải nghe theo lệnh. Chính Gorbag đã gây sự, tìm cách ăn cắp cái áo đẹp đó.”

“Hừ, mày đã chọc hắn xù lông lên, tỏ ra cao ngạo như thế. Và đằng nào hắn cũng khôn ngoan hơn mày. Hắn đã nói với mày không chỉ một lần rằng tên gián điệp nguy hiểm nhất vẫn còn xổng chuồng, mà mày không chịu nghe. Giờ mày cũng không chịu nghe. Tao nói cho mày biết, Gorbag nói đúng. Có một tên lính mạnh quanh đây, một trong bọn Tiên hiếu sát, hoặc một trong lũ tark[1] bẩn thỉu. Tao nói cho mày biết hắn đang tới đây. Mày nghe chuông rồi đó. Hắn đã qua được bọn Gác, và đó là mánh của lũ tark. Hắn đang lên cầu thang. Và chừng nào hắn chưa rời khỏi đó, tao sẽ không xuống đâu. Cho dù mày là một tên Nazgûl, tao cũng không xuống.”

“Ra là thế, hả?” Shagrat hét lên. “Mày sẽ làm cái này, mày sẽ không làm cái kia? Rồi khi hắn đến thật, mày sẽ bỏ chạy vứt lại tao? Không, không có chuyện đó đâu! Tao sẽ đục những lỗ giòi đỏ máu vào bụng mày trước.”

Tên Orc nhỏ con hơn chạy bắn ra khỏi cửa tháp tròn. Đằng sau nó là Shagrat, một tên Orc lớn xác tay dài chạm tới đất khi hắn khom mình chạy. Nhưng một cánh tay lòng thòng vô lực và hình như đang chảy máu; tay kia ôm một bọc lớn màu đen. Trong ánh đỏ gắt, đang thu mình đằng sau cửa cầu thang, Sam thoáng thấy gương mặt ác độc khi hắn chạy qua: nó như thể bị móng vuốt cào nát và nhầy nhụa máu; nước dãi nhỏ giọt từ những răng nanh chìa ra; miệng gầm gừ như thú vật.

Như Sam thấy được, Shagrat săn đuổi Snaga quanh mái tháp, cho tới khi tên Orc nhỏ con vừa cúi xuống tránh hắn vừa kêu lên một tiếng, vụt chạy ngược vào tháp tròn và biến mất. Rồi Shagrat ngừng lại. Nhìn ra ngoài cửa phía Đông, Sam có thể thấy hắn giờ đang đứng cạnh tường bao, thở dốc, vuốt bên trái hết siết lại mở yếu ớt. Hắn đặt cái bọc xuống đất và dùng vuốt phải rút ra một con dao đỏ dài, nhổ nước bọt lên nó. Đi tới bờ tường, hắn nhoài người ra, nhìn xuống sân ngoài tít xa phía dưới. Hắn thét lên hai lần nhưng không có ai trả lời.

Đột nhiên, khi Shagrat đang khom người qua tường phòng hộ, lưng quay lại mái tháp, Sam ngạc nhiên thấy một trong những cái xác nằm sóng sượt đang di chuyển. Nó trườn tới. Nó giơ một móng vuốt ra vồ lấy cái bọc. Nó loạng choạng dậy. Trong tay kia nó cầm một ngọn giáo mũi rộng thân gãy còn một mẩu. Nó lên tư thế định đâm tới. Nhưng đúng lúc đó, một tiếng rít thoát ra giữa kẽ răng, một tiếng thở hắt không rõ đau đớn hay căm hận. Nhanh như con rắn, Shagrat trượt sang bên, vặn người lại và đâm dao vào cổ họng kẻ địch.

“Chết nhé, Gorbag!” hắn kêu lên. “Vẫn chưa chết hẳn, hả? Hừ, giờ tao sẽ kết thúc việc của tao.” Hắn nhảy tới thân thể vừa ngã xuống, giẫm nghiến nó trong cơn thịnh nộ, thỉnh thoảng lại cúi xuống đâm chém bằng con dao dài. Cuối cùng cũng hài lòng, hắn ngửa đầu ra sau hét lên một tiếng hét chiến thắng ùng ục kinh tởm. Rồi hắn liếm lưỡi dao, cắn nó giữa hai hàm răng, bắt lấy cái bọc và chạy về hướng cửa ra cầu thang gần hơn.

Sam không có thời gian nghĩ ngợi. Chú cũng có thể chuồn ra qua cánh cửa thứ hai, nhưng khó mà không bị phát hiện; và chú không thể chơi trò trốn tìm với tên Orc kinh tởm này lâu. Chú làm điều có lẽ là lựa chọn tốt nhất trong tình cảnh đó. Chú nhảy bật ra đối đầu Shagrat, thét vang một tiếng. Chú không còn cầm chiếc Nhẫn, nhưng nó vẫn ở đó, một quyền năng bị che giấu, mối đe dọa đáng sợ cho những tên nô lệ Mordor; và trong tay chú là thanh Mũi Đốt, tỏa ánh sáng giáng vào cặp mắt tên Orc như ánh lấp lánh của những vì sao dữ tợn tại những vương quốc Tiên kinh khủng, giấc mơ về chúng là nỗi sợ hãi lạnh người với tất cả giống loài này. Và Shagrat không thể vừa chiến đấu vừa giữ lấy báu vật của mình. Hắn dừng lại, gầm gừ, răng nanh nhe ra. Rồi lại một lần nữa, theo kiểu Orc, hắn nhảy sang ngang, và khi Sam lao vào hắn, hắn dùng cái bọc nặng vừa làm khiên vừa làm vũ khí, thúc mạnh vào mặt kẻ địch. Sam loạng choạng, và trước khi chú kịp đứng vững được, Shagrat đã vụt qua chạy xuống dưới những bậc thang.

Sam chạy theo hắn, miệng chửi thề, nhưng chú không đi xa. Rất nhanh ý nghĩ về Frodo quay trở lại, và chú nhớ rằng tên Orc còn lại đã quay vào tháp tròn. Đây lại là một lựa chọn kinh khủng nữa, và chú không còn thời gian mà cân nhắc. Nếu Shagrat trốn được, hắn sẽ sớm tìm được trợ giúp và quay lại. Nhưng nếu Sam đuổi theo hắn, tên Orc còn lại có thể gây ra những chuyện khủng khiếp ở trên kia. Và dù sao đi nữa, có thể Sam sẽ đánh hụt Shagrat hoặc bị hắn giết. Chú nhanh chóng quay đầu chạy ngược lên cầu thang. “Lại sai rồi, mình nghĩ vậy,” chú thở dài. “Nhưng việc của mình là đi lên tầng trên cùng trước, cho dù sau đó xảy ra chuyện gì đi nữa.”

Xa phía dưới, Shagrat nhảy xuống cầu thang ra sân rồi qua cửa, mang theo cái bọc quý giá. Nếu Sam có thể thấy hắn và biết nỗi đau đớn mà sự trốn thoát của hắn sẽ mang lại, chú hẳn sẽ run sợ. Nhưng lúc này, tâm trí chú tập trung vào chặng cuối cùng cuộc tìm kiếm của mình. Chú thận trọng đi đến cửa tháp tròn và bước vào trong. Cửa mở vào bóng tối. Nhưng rất nhanh sau khi chăm chú nhìn, đôi mắt chú phát hiện ra luồng sáng yếu bên phía tay phải. Nó đến từ ngã rẽ dẫn vào một cầu thang khác, tối và hẹp: cầu thang dường như đi hình xoắn ốc lên tháp pháo theo mặt trong tường ngoài hình tròn. Một cây đuốc le lói từ đâu đó phía trên.

Sam bắt đầu nhẹ nhàng trèo lên. Chú đến chỗ cây đuốc lập lòe, gắn trên tường phía trên cánh cửa bên tay trái, đối diện một khe cửa sổ trông ra phía Tây: một trong những con mắt đỏ mà chú và Frodo đã thấy khi đứng dưới miệng đường hầm. Sam nhanh chóng đi ngang cửa và vội vàng lên tiếp tầng hai, sợ rằng bất cứ lúc nào chú cũng có thể bị tấn công và cảm thấy những ngón tay siết chặt cổ mình từ phía sau. Tiếp theo chú tới một cửa sổ trông ra phía Đông, và lại có một cây đuốc nữa trên cửa dẫn vào hành lang chạy qua giữa tháp tròn. Cửa để mở, và hành lang tối sẫm, chỉ có ánh đuốc chập chờn và ánh sáng đỏ gắt từ bên ngoài lọt vào qua khe cửa sổ. Nhưng tới đây cầu thang ngừng lại không dẫn lên trên nữa. Sam rón rén vào hành lang. Ở mỗi bên có một cánh cửa thấp; cả hai đều đóng và khóa. Không hề có tiếng động.

“Ngõ cụt rồi,” Sam lẩm bẩm; “sau khi mình đã trèo nhiều như vậy chứ! Đây không thể là trên cùng tháp được. Nhưng giờ mình làm được gì đây?”

Chú chạy ngược trở xuống tầng dưới thử mở cánh cửa. Nó không dịch chuyển. Chú lại chạy lên, mồ hôi bắt đầu chảy xuống mặt. Chú cảm thấy thậm chí mỗi phút đều quý giá, nhưng cứ từng phút từng phút mất đi, mà chú chẳng thể làm được gì. Chú không còn quan tâm tới Shagrat hay Snaga hay bất cứ tên Orc nào từng nảy nòi ra nữa. Chú chỉ muốn cậu chủ của mình, chỉ cần được nhìn thấy mặt hoặc chạm vào tay cậu.

Cuối cùng, mệt mỏi và cảm thấy rốt cuộc đã thất bại, chú ngồi xuống một bậc thang thấp hơn hành lang rồi gục đầu vào tay. Yên lặng, yên lặng kinh khủng. Cây đuốc ngay từ lúc chú đến đã cháy yếu ớt, giờ xèo xèo rồi tắt phụt; và chú cảm thấy bóng tối trùm lên mình như con sóng. Và rồi khe khẽ, khiến chính bản thân kinh ngạc, ngay tại đó ở kết thúc vô vọng cho cuộc hành trình dài và nỗi đau khổ, xúc động bởi ý niệm nào đó trong tim mà chú cũng không hiểu rõ, Sam cất tiếng hát.

Giọng chú nghe yếu ớt và run rẩy trong ngọn tháp tối tăm và lạnh lẽo: giọng một người Hobbit tuyệt vọng và kiệt quệ mà nếu nghe được, không tên Orc nào lại có thể nhầm với bài hát trong trẻo của một vị chúa Tiên. Chú thì thầm những giai điệu ngây ngô xa xưa của Quận, cùng những mẩu thơ của ông Bilbo hiện lên trong tâm trí như những hình ảnh vụt thoáng của quê nhà. Và rồi đột nhiên nguồn sức mạnh mới trào lên trong chú, giọng chú vang lên dõng dạc, trong khi những lời tự chú nghĩ ra không mời mà tuôn trào tới hợp vào giai điệu giản đơn.

Ở đất miền Tây dưới nắng

có khi đang độ hoa Xuân,

chồi nhú, sông tràn nước mới,

sẻ đồng lích chích xa gần.

Hay là đang đêm trong vắt

đu đưa những thân cây sồi,

cài giữa mái đầu chẽ nhánh,

sao Tiên như ngọc trắng ngời.

Dù cuối đường ta nằm lịm

nơi đây chôn vùi bóng đêm,

dưới núi lừng lừng vách dựng,

dưới tháp trùng trùng chất thêm,

trên hết Mặt Trời vẫn tỏ,

Ngàn Sao muôn năm không mờ:

Chớ nghĩ rằng Ngày sẽ tắt,

hay cùng Muôn Sao giã từ.

“Dưới núi lừng lừng vách dựng,” chú lại hát, và rồi đột ngột ngừng lời. Chú ngỡ như vừa nghe thấy một giọng yếu ớt đáp lại. Nhưng giờ lại không nghe thấy gì nữa. Đúng, chú nghe thấy gì đó, nhưng không phải giọng nói. Có tiếng chân đang đi tới. Giờ một cánh cửa mở khẽ tại hành lang phía trên; những bản lề kẽo kẹt. Sam hụp mình lắng nghe. Cánh cửa đóng lại với tiếng thịch đùng đục; và rồi tiếng Orc gầm gừ vang lên.

“Hô là! Thằng trên kia, con chuột thối! Đừng có rít lên nữa, không thì tao sẽ lên xử lý mày đó. Nghe thấy không?”

Không có tiếng trả lời.

“Được rồi,” Snaga càu nhàu. “Nhưng tao vẫn sẽ lên nhìn một cái, xem mày định làm gì.”

Những bản lề lại kẽo kẹt, và Sam, giờ ló ra nhìn từ góc đầu hành lang, thấy một khe sáng lập lòe ở khung cửa để mở, và bóng dáng lờ mờ một tên Orc bước ra. Dường như hắn vác theo một cái thang. Đột nhiên Sam bừng hiểu ra câu trả lời: có thể lên được phòng trên cùng qua cánh cửa sập trên trần hành lang. Snaga dựng thang lên, đặt cho vững, và rồi trèo lên mất hút. Sam nghe tiếng chốt cửa tháo ra. Và rồi chú lại nghe thấy giọng nói gớm guốc cất lên.

“Nằm im, không thì mày sẽ trả giá! Tao đoán mày không sống yên được lâu nữa đâu; nhưng nếu mày không muốn trò vui bắt đầu ngay bây giờ thì câm miệng lại, hiểu chứ? Lời cảnh cáo cho mày đây!” Có âm thanh như tiếng vung roi.

Thế là sự giận dữ bùng lên trong trái tim Sam thành cơn thịnh nộ đột ngột. Chú nhảy bật dậy, chạy đến và leo lên thang nhẹ như mèo. Chú ló đầu lên giữa sàn một căn phòng lớn hình tròn. Một chiếc đèn đỏ treo trên trần; khe cửa sổ phía Tây cao và tối. Có thứ gì đó đang nằm trên sàn cạnh tường ngay dưới cửa sổ, nhưng phía trên, cái bóng Orc tối thẫm đang giạng chân đứng. Nó lại giơ roi lên lần nữa, nhưng cú quất không bao giờ rơi xuống.

Sam hét lên, nhảy qua sàn, thanh Mũi Đốt trong tay. Tên Orc quay lại, nhưng trước khi nó kịp trở tay, Sam đã chém đứt bàn tay cầm roi. Tên Orc rú lên đau đớn và sợ hãi, nhưng nó liều lĩnh lao tới húc thẳng vào chú. Cú đánh tiếp theo của Sam bị hụt, chú mất thăng bằng ngã ngửa, bám lấy tên Orc đương vấp qua chú. Trước khi kịp nhỏm dậy, chú nghe thấy một tiếng hét và tiếng thịch. Trong khi cuống quýt, tên Orc đã vấp vào đầu cái thang và ngã xuống qua cửa sập đang để mở. Sam không nghĩ đến nó nữa. Chú chạy tới bóng người đang thu mình trên sàn. Đó là Frodo.

Cậu ở trần, nằm đó như đang mê man trên một đống giẻ bẩn thỉu: tay vung lên bảo vệ đầu, dọc bên sườn có một làn roi xấu xí.

“Frodo! Cậu Frodo thân yêu!” Sam kêu lên, nước mắt gần như khiến chú không nhìn rõ được. “Là Sam đây, tôi tới rồi!” Chú hơi nâng cậu chủ lên ôm chặt vào ngực. Frodo mở mắt.

“Mình vẫn đang mơ sao?” cậu lẩm bẩm. “Nhưng những giấc mơ kia thật khủng khiếp.”

“Cậu không mơ đâu, cậu chủ,” Sam nói. “Là thật đấy. Là tôi đây. Tôi tới rồi.”

“Tôi không tin nổi nữa,” Frodo nói, bám chặt lấy chú. “Có một tên Orc cầm roi, và rồi nó biến thành Sam! Vậy là rốt cuộc tôi không hề nằm mơ sao, khi nghe thấy tiếng hát bên dưới, và cố gắng trả lời? Là cậu đấy à?”

“Đúng thế, cậu Frodo. Lúc đó tôi đã từ bỏ hy vọng rồi, gần như thế. Tôi không thể tìm thấy cậu.”

“Chà, giờ thì cậu tìm thấy rồi đấy, Sam, Sam yêu quý,” Frodo nói, và cậu lại ngã người vào vòng tay gượng nhẹ của Sam, rồi nhắm mắt, như đứa bé ngủ yên khi những nỗi sợ trong đêm đã bị xua đi nhờ giọng nói hay bàn tay thân yêu nào đó.

Sam cảm thấy mình có thể mãi ngồi đây trong niềm hạnh phúc bất tận; nhưng điều đó không được phép. Chỉ tìm thấy cậu chủ của mình là chưa đủ, chú vẫn còn phải cố gắng cứu cậu ra nữa. Chú hôn lên trán Frodo. “Nào! Dậy đi, cậu Frodo!” chú nói, cố gắng tỏ ra hớn hở như khi kéo mở rèm ở Đáy Bao trong buổi sáng mùa hè.

Frodo thở dài và ngồi dậy. “Chúng ta đang ở đâu? Làm sao tôi lại ở đây?” cậu hỏi.

“Không có thời gian mà kể chuyện khi chưa đến được nơi khác đâu, cậu Frodo,” Sam nói. “Nhưng cậu đang ở trên đỉnh tòa tháp mà cậu và tôi đã thấy từ xa dưới chỗ đường hầm trước khi lũ Orc bắt được cậu. Tôi không biết từ đó tới nay đã bao lâu. Tôi đoán là hơn một ngày.”

“Thế thôi ư?” Frodo nói. “Cứ như cả tuần rồi. Cậu phải kể hết với tôi mọi chuyện khi chúng ta có cơ hội đấy. Có thứ gì đó đánh tôi, đúng không? Rồi tôi rơi vào bóng tối và những giấc mơ ghê rợn, rồi thức dậy và phát hiện thức dậy còn tồi tệ hơn. Orc ở khắp quanh tôi. Tôi nghĩ lúc đó chúng vừa đổ thứ nước kinh tởm gì đó vào cổ họng tôi. Đầu tôi trở nên sáng sủa hơn, nhưng người đau nhức và mệt mỏi. Chúng lột trần tôi ra; và rồi hai tên cục súc to lớn tới tra hỏi tôi, tra hỏi cho tới khi tôi tưởng mình phát điên, chúng đứng trên tôi, hả hê, mó máy những con dao. Tôi sẽ không bao giờ quên được móng vuốt và ánh mắt chúng.”

“Cậu sẽ không quên được nếu cứ nói về chúng, cậu Frodo à,” Sam bảo. “Và nếu không muốn thấy chúng nữa, thì chúng ta lên đường càng sớm càng tốt. Cậu đi được không?”

“Được, tôi đi được,” Frodo nói, chầm chậm đứng dậy. “Tôi không bị thương, Sam ạ. Chỉ là tôi thấy rất mệt, và tôi bị đau ở đây.” Cậu chạm tay lên phía sau gáy bên trên vai trái. Cậu đứng dậy, và Sam thấy dường như cậu đang khoác lửa trên người: làn da trần đỏ rực dưới ánh đèn từ trên. Cậu đi hai vòng trên sàn.

“Khá hơn rồi!” cậu nói, tinh thần phấn chấn hơn một chút. “Tôi không dám cử động khi bị bỏ lại một mình, nếu không một tên lính canh sẽ tới. Cho đến khi những tiếng la hét và đánh nhau bắt đầu. Hai tên cục súc đó: tôi nghĩ là chúng tranh cãi. Về tôi và đồ của tôi. Tôi nằm đây sợ bạt vía. Và rồi tất cả trở nên yên lặng chết chóc, và điều đó còn tồi tệ hơn.”

“Phải, có vẻ là chúng cãi nhau,” Sam nói. “Ở đây hẳn từng có khoảng hai trăm sinh vật bẩn thỉu đó. Cậu có thể nói là một nhiệm vụ hơi quá sức Sam Gamgee. Nhưng chúng tự hoàn tất công việc giết lẫn nhau rồi. Thật may mắn, nhưng quá dài để đưa vào một bài ca, cho tới khi chúng ta ra khỏi đây. Giờ thì phải làm gì nhỉ? Cậu không thể trần nhồng nhộng đi trong Vùng Đất Đen được, cậu Frodo à.”

“Chúng đã lấy đi tất cả, Sam ạ,” Frodo nói. “Tất cả những gì tôi có. Cậu hiểu không? Tất cả!” Cậu lại co rúm trên sàn, cúi gục đầu, như thể những lời cậu vừa nói đã khiến cậu nhận thức được toàn bộ tai ương đó, và nỗi tuyệt vọng bao trùm lấy cậu. “Nhiệm vụ đã thất bại rồi, Sam ơi. Thậm chí dù có ra khỏi đây, chúng ta cũng không trốn thoát được. Chỉ có người Tiên trốn thoát được mà thôi. Rời xa, rời xa Trung Địa, rời xa về bên kia Đại Dương. Đấy là nếu Đại Dương còn đủ rộng để ngăn Bóng Tối.”

“Không, không phải tất cả, cậu Frodo à. Và nhiệm vụ chưa thất bại, chưa đâu. Tôi đã lấy nó, cậu Frodo à, xin cậu bỏ lỗi. Và tôi đã giữ nó an toàn. Giờ nó đang đeo trên cổ tôi, và cũng là một gánh nặng kinh khủng.” Sam sờ soạng tìm cái Nhẫn và sợi xích. “Nhưng tôi nghĩ cậu phải cầm lại nó.” Giờ khi đến lúc, Sam cảm thấy miễn cưỡng phải giao cái Nhẫn ra để nó lại trở thành gánh nặng cho cậu chủ mình.

“Cậu cầm nó?” Frodo thở gấp. “Cậu cầm nó ở đây ư? Sam, cậu thật tuyệt vời!” Rồi thật chóng vánh và lạ lùng, ngữ điệu cậu thay đổi. “Đưa nó cho tôi!” cậu kêu lên, đứng dậy, chìa bàn tay run rẩy ra. “Đưa nó cho tôi ngay lập tức! Cậu không được cầm nó!”

“Được rồi, cậu Frodo,” Sam nói, hơi giật mình. “Nó đây!” Chú chầm chậm rút chiếc Nhẫn ra và tháo sợi xích qua đầu. “Nhưng giờ cậu đang ở trong miền đất Mordor, thưa cậu; và khi nào ra ngoài, cậu sẽ thấy Núi Lửa và mọi thứ. Cậu sẽ thấy chiếc Nhẫn giờ đây rất nguy hiểm, và khó mang. Nếu việc đó quá khó khăn, tôi có thể chia sẻ với cậu, có lẽ?”

“Không không!” Frodo kêu lên, giật lấy chiếc Nhẫn và sợi xích từ tay Sam. “Không, không được, đồ ăn cắp!” Cậu thở dốc và trân trối nhìn Sam, mắt mở to sợ hãi, thù địch. Rồi đột nhiên, siết lấy chiếc Nhẫn trong bàn tay nắm chặt, cậu đứng đó chết điếng. Dường như có màn sương mù vừa tan đi trước mắt, và cậu vuốt tay qua cái trán nhức nhối. Cái hình ảnh khủng khiếp vừa rồi mới thật làm sao, khi cậu vẫn còn phần nào choáng váng vì thương tích và sợ hãi. Sam vừa biến đổi ngay trước mắt cậu thành một tên Orc, đang liếc mắt đểu cáng và mó máy báu vật của cậu, một sinh vật ghê tởm nhỏ bé với cặp mắt tham lam và cái miệng rỏ dãi. Nhưng lúc này hình ảnh đó đã tan đi. Sam đang quỳ trước mặt cậu, mặt méo xệch đau khổ, như thể chú vừa bị đâm trúng tim; nước mắt dâng lên trong mắt chú.

“Ôi Sam!” Frodo kêu lên. “Tôi đã nói gì thế này? Tôi đã làm gì thế này? Hãy tha thứ cho tôi! Sau tất cả những gì cậu đã làm như thế. Đó là do quyền năng kinh khủng của chiếc Nhẫn. Tôi đã ước gì nó chưa bao giờ, chưa bao giờ được tìm thấy. Nhưng đừng lo cho tôi, Sam ạ. Tôi phải mang gánh nặng này tới khi kết thúc. Điều đó không thể thay đổi được. Cậu không thể xen vào giữa tôi và định mệnh này.”

“Không sao đâu, cậu Frodo,” Sam nói, chùi ống tay áo qua mắt. “Tôi hiểu mà. Nhưng tôi vẫn có thể giúp cậu, đúng không? Tôi phải đưa cậu ra khỏi đây. Ngay lập tức, thế đấy! Nhưng đầu tiên cậu cần một ít quần áo và đồ dùng, rồi chút thức ăn nữa. Quần áo sẽ là phần dễ nhất. Vì chúng ta đang ở Mordor, chúng ta tốt nhất nên mặc theo mốt Mordor; và dù sao thì cũng không có lựa chọn khác. Tôi sợ là ta đành phải lấy đồ của lũ Orc cho cậu thôi, cậu Frodo ạ. Và cho tôi nữa. Nếu chúng ta đi cùng nhau, tốt nhất chúng ta nên mặc giống nhau. Giờ khoác cái này lên!”

Sam tháo ghim cài áo choàng xám của mình khoác lên vai Frodo. Rồi tháo túi đeo, chú đặt nó lên sàn nhà. Chú rút thanh Mũi Đốt ra khỏi vỏ. Chẳng có lấy tia sáng nào trên lưỡi kiếm. “Tôi quên mất cả nó nữa, cậu Frodo,” chú nói. “Không, chúng không lấy mất tất cả đâu! Cậu đã cho tôi mượn thanh Mũi Đốt, cậu nhớ không, và lọ thủy tinh của Phu Nhân nữa. Tôi vẫn giữ cả hai thứ đó. Nhưng hãy cho tôi mượn thêm ít lâu nữa, cậu Frodo ạ. Tôi phải đi xem liệu tìm được gì. Cậu ở lại đây. Đi lại một chút cho chân thoải mái. Tôi không đi lâu đâu. Tôi không phải đi xa.”

“Cẩn thận, Sam!” Frodo nói. “Và nhanh lên nhé! Vẫn có thể có Orc còn sống, ẩn náu chờ đợi.”

“Tôi sẽ phải liều thôi,” Sam nói. Chú bước đến cánh cửa sập và tuột xuống thang. Một phút sau, đầu chú lại nhô lên. Chú ném một con dao dài lên sàn.

“Có lẽ thứ này sẽ hữu dụng,” chú nói. “Nó chết rồi: tên đã quất cậu ấy. Hình như gãy cổ trong lúc vội vã. Giờ cậu hãy kéo thang lên, nếu đủ sức, cậu Frodo ạ; và đừng thả xuống cho tới khi nghe thấy tôi nói mật hiệu. Tôi sẽ hô Elbereth. Chữ người Tiên vẫn nói. Không tên Orc nào chịu nói từ ấy.”

Frodo ngồi yên một lúc và run rẩy, những nỗi sợ kinh hoàng rượt đuổi nhau trong tâm trí cậu. Rồi cậu đứng dậy, kéo áo choàng tiên xám quanh mình, rồi để tâm trí được bận rộn, cậu bắt đầu đi lại, tò mò săm soi từng ngóc ngách trong nhà ngục

Không bao lâu sau đó, dù nỗi sợ hãi khiến cậu cảm thấy ít nhất cũng phải một giờ, cậu nghe thấy tiếng Sam khẽ gọi với lên; Elbereth, Elbereth. Frodo thả cái thang nhẹ xuống. Sam leo lên, thở dốc, đội một bọc lớn trên đầu. Chú thả nó rơi xuống đánh thịch.

“Phải nhanh lên thôi, cậu Frodo!” chú nói. “Tôi hơi mất công mới kiếm được thứ nhỏ vừa cỡ người chúng ta. Chúng ta phải dùng tạm thôi. Nhưng phải nhanh lên. Tôi không gặp thứ gì còn sống, cũng không thấy gì cả, nhưng tôi không yên lòng. Tôi nghĩ nơi này đang bị theo dõi. Tôi không giải thích được nhưng mà thế đấy: tôi cảm thấy như có một tên Kỵ Sĩ Bay kinh khiếp đang ở trên không, bay trong màn bóng tối nơi hắn không bị ai nhìn thấy.”

Chú mở cái bọc ra. Frodo nhìn những thứ trong bọc vẻ kinh tởm, nhưng chẳng còn cách nào khác: cậu phải mặc nó lên hoặc ra ngoài trần nhồng nhộng. Có một cái quần dài lông lá làm từ da sống lột từ con thú gớm guốc nào đó, và một áo da bẩn thỉu thắt ngang lưng. Cậu mặc chúng vào. Bên ngoài áo da là áo giáp xích tròn vững chắc, ngắn đối với một tên Orc tầm vóc bình thường nhưng lại quá dài và nặng với Frodo. Cậu đóng thắt lưng quanh áo, thắt lưng đeo vỏ kiếm ngắn đựng thanh kiếm ngắn lưỡi rộng bản. Sam đã mang tới một vài mũ trụ Orc. Một trong số đó khá vừa với Frodo, mũ đen vành sắt, đóng đai sắt bọc da vẽ Con Mắt Ác sơn đỏ bên trên phần bảo vệ mũi nhô ra như mỏ chim.

“Đồ của Morgul, trang bị của Gorbag, vừa hơn và được làm tốt hơn,” Sam nói; “nhưng tôi nghĩ không nên mang biểu tượng của hắn đi vào Mordor, nhất là sau chuyện lộn xộn ở đây. Chà, nhìn cậu kìa, cậu Frodo. Một tên Orc nhỏ hoàn hảo, nếu tôi dám bạo miệng - ít nhất cậu sẽ trông giống hệt, nếu chúng ta có thể che mặt cậu bằng mặt nạ, kéo tay cậu dài hơn, và làm chân cậu khuỳnh đi. Như thế sẽ che giấu được một số điểm dễ lộ.” Chú phủ một tấm áo choàng đen lớn qua vai Frodo. “Giờ cậu sẵn sàng rồi đó! Cậu có thể lấy thêm cái khiên trên đường đi.”

“Còn cậu thì sao, Sam?” Frodo hỏi. “Không phải chúng ta sẽ mặc giống nhau sao?

“Chậc, cậu Frodo ạ, tôi đang nghĩ thế này,” Sam nói. “Tốt nhất tôi không nên bỏ đống đồ của mình lại, mà chúng ta lại không thể hủy đi. Và tôi không thể mặc áo giáp Orc ra ngoài tất cả mớ quần áo của tôi, đúng không? Tôi chỉ cần che đậy thôi.”

Chú quỳ xuống và gấp áo choàng tiên lại cẩn thận. Nó cuộn lại nhỏ đến ngạc nhiên. Chú cho nó vào túi đang để trên sàn. Đứng dậy, chú lẳng túi ra sau lưng, đội mũ Orc lên đầu, và khoác một tấm áo choàng đen nữa qua vai. “Đó!” chú nói. “Giờ thì chúng ta giống nhau rồi, gần giống. Và giờ chúng ta phải đi thôi!”

“Tôi không thể chạy cả quãng đường, Sam!” Frodo nói và nhếch miệng cười. “Tôi hy vọng cậu đã tìm hiểu các nhà trọ dọc đường rồi chứ? Hay cậu quên mất chuyện thức ăn đồ uống rồi?”

“Thứ lỗi cho tôi, nhưng đúng là tôi quên khuấy đấy!” Sam nói. Chú huýt sáo rầu rĩ. “Ôi trời, cậu Frodo, cậu lại làm tôi đói khát mốc meo rồi! Tôi không biết lần cuối cùng nước và đồ ăn chạy qua miệng tôi là vào lúc nào. Tôi quên mất tiêu, chỉ cố gắng đi tìm cậu. Nhưng để nghĩ xem nào! Lần