Chương V QUỐC QUẢN VÀ NHÀ VUA
Sự nghi ngờ và nỗi khiếp hãi ghê gớm lơ lửng hồi lâu trên thành phố Gondor. Thời tiết đẹp và mặt trời trong sáng chỉ như càng chế nhạo những người mà ngày tháng không mang nhiều hy vọng, và mỗi sớm mai đều chờ đợi tin tức về định mệnh. Chúa họ đã qua đời và bị hỏa thiêu, Vua Rohan tử trận nằm lại trong hoàng thành của họ, và vị vua mới đến với họ trong đêm đã lại lên đường tiến vào cuộc chiến với những thế lực quá đen tối và kinh khủng chẳng mong đánh bại được bằng bất cứ sức mạnh hay lòng can đảm nào. Và không tin tức nào trở lại. Từ khi đạo quân rời khỏi Thung Lũng Morgul lên con đường về Bắc dưới bóng núi, không những không người truyền tin nào trở về mà bất kỳ lời đồn nào về chuyện đang diễn ra ở phương Đông âm u cũng chẳng có.
Khi các Thủ Lĩnh đã đi được hai ngày, Công Chúa Éowyn bảo những người đàn bà chăm sóc mình mang y phục tới cho nàng, không chấp nhận ai cự nự mà cứ rời khỏi giường; và khi họ giúp nàng mặc đồ xong, treo tay bằng vải lanh, nàng tới gặp Trưởng Quan của Y Viện.
“Thưa ông,” nàng nói, “tôi rất bồn chồn, và tôi không thể lười biếng nằm yên thêm được nữa.”
“Công chúa,” ông trả lời, “nàng vẫn chưa lành bệnh, và tôi được ra lệnh phải đặc biệt chăm sóc nàng. Nàng không nên rời khỏi giường trong vòng bảy ngày liền, tôi đã được lệnh như vậy đấy. Tôi mong công chúa hãy quay trở lại.”
“Tôi đã lành bệnh rồi,” nàng nói, “ít nhất là cơ thể đã được chữa lành, trừ tay trái thôi, và cả nó cũng đã dịu đi. Nhưng tôi sẽ lại ốm mất nếu không có gì để làm. Không có tin tức nào về cuộc chiến sao? Những người đàn bà chẳng thể cho tôi biết gì cả.”
“Không có tin tức gì,” quan Viện Trưởng nói, “trừ việc các đức Chúa đã đi tới Thung Lũng Morgul; và người ta nói người chỉ huy mới đến từ phương Bắc là người lãnh đạo. Một vị chúa vĩ đại, và một y sư tài ba; và tôi có phần thấy lạ rằng bàn tay chữa trị cũng là bàn tay cầm kiếm. Giờ ở Gondor không như thế, dù trước đây đã từng như vậy, nếu những truyền thuyết cổ xưa là sự thật. Nhưng trong nhiều năm trở lại, y sư chúng tôi chỉ tìm cách vá lành những vết thương do người cầm kiếm gây ra. Dù chúng tôi hẳn cũng đủ việc làm mà chẳng cần đến họ: thế giới đã có đủ đau khổ và bất hạnh rồi, chẳng cần chiến tranh nhân rộng chúng lên.”
“Chỉ một kẻ thù là đủ tạo ra một cuộc chiến tranh, không cần tới hai đâu, ngài Viện Trưởng,” Éowyn trả lời. “Và những người không cầm kiếm vẫn có thể chết dưới lưỡi kiếm. Chẳng lẽ ông chỉ muốn người dân Gondor đi tập hợp thảo dược cho mình trong khi Chúa Tể Hắc Ám tập hợp quân đội sao? Và không phải lúc nào thân thể được chữa lành cũng tốt. Cũng như không phải lúc nào chết trong trận mạc cũng là xấu, thậm chí dù trong đau đớn thống khổ. Nếu được cho phép, trong thời khắc đen tối này, tôi sẽ chọn cách sau.”
Viện Trưởng nhìn nàng. Nàng đứng đó cao ráo, đôi mắt sáng rực trên gương mặt trắng muốt, nắm tay siết lại khi nàng quay người nhìn ra ngoài ô cửa sổ phòng ông mở về Đông. Ông thở dài lắc đầu. Sau một lúc ngừng lời, nàng lại quay về phía ông.
“Không có việc gì cần làm ư?” nàng hỏi. “Ai cai quản Kinh Thành này?”
“Tôi không biết chắc,” ông trả lời. “Bổn phận của tôi không nằm ở những chuyện như thế. Có một vị thống chế chỉ huy các Kỵ Sĩ Rohan; và tôi nghe nói Chúa Húrin quản người Gondor. Nhưng theo đúng quyền hạn, Chúa Faramir vẫn là Quốc Quản của Kinh Thành.”
“Tôi có thể tìm ngài ở đâu?”
“Trong viện này, thưa công chúa. Người bị thương rất nặng, nhưng giờ đang hồi phục ổn định. Nhưng tôi không biết liệu…”
“Ông không đưa tôi đến chỗ ngài sao? Rồi thì ông sẽ biết.”
Chúa Faramir đang tản bộ một mình trong khu vườn Y Viện, ánh nắng sưởi ấm chàng, và chàng cảm thấy sức sống lại sôi trào trong mạch máu; nhưng trái tim chàng nặng nề, và chàng nhìn ra ngoài qua tường thành về phía Đông. Khi đến nơi, Viện Trưởng gọi tên chàng, và chàng quay lại thấy Công Chúa Éowyn đất Rohan; chàng động lòng thương cảm, vì thấy nàng đang đau khổ, vả chăng đôi mắt tinh tường của chàng thấy được sự buồn phiền và nỗi lo âu trong nàng.
“Thưa chúa công,” Viện Trưởng nói, “đây là Công Chúa Éowyn đất Rohan. Nàng đi cùng đội quân kỵ của nhà vua và đã bị thương nặng, giờ đang nghỉ lại trong viện của tôi. Nhưng nàng không hài lòng, và nàng muốn có lời với Quốc Quản của Kinh Thành.”
“Đừng hiểu nhầm ông ấy, thưa ngài,” Éowyn nói. “Tôi không buồn khổ vì không được chăm sóc đầy đủ. Không ngôi viện nào có thể đẹp đẽ hơn với những người mong được chữa lành. Nhưng tôi không thể lười biếng nằm không, uể oải, trong một cái lồng. Tôi đã tìm kiếm cái chết trong chiến trận. Nhưng tôi vẫn chưa chết, mà chiến trận vẫn đang tiếp diễn.”
Được Faramir ra hiệu, Viện Trưởng cúi đầu rời đi. “Nàng muốn ta làm gì, thưa công chúa?” Faramir nói. “Ta cũng là tù nhân của các y sư.” Chàng nhìn nàng, và với niềm thương cảm được khuấy động sâu sắc, chàng cảm thấy dáng vẻ yêu kiêu của nàng trong đau khổ như thể xuyên thấu trái tim mình. Còn nàng nhìn chàng, và tuy thấy nét hiền từ trang nghiêm trong đôi mắt chàng, nàng cũng biết, vì vốn được nuôi lớn giữa những người dạn dày trận mạc, đây là một người mà không Kỵ Sĩ đất Mark nào có cơ thắng được trong chiến trận.
“Nàng muốn điều gì?” chàng lại hỏi. “Nếu nằm trong khả năng của ta, ta sẽ làm điều đó.”
“Tôi muốn ngài lệnh cho Viện Trưởng này cho phép tôi đi,” nàng nói; nhưng dù ngôn từ nàng vẫn kiêu hãnh, trái tim nàng bắt đầu dao động, và lần đầu tiên trong đời nàng thấy nghi ngờ chính mình. Nàng đoán rằng người đàn ông cao lớn vừa nghiêm nghị vừa dịu dàng này hẳn sẽ chỉ thấy nàng ương ngạnh, giống như đứa trẻ không đủ bền gan để đi theo đến cùng một nhiệm vụ tẻ nhạt.
“Chính ta cũng nằm trong sự chăm sóc của quan Viện Trưởng,” Faramir nói. “Và ta cũng chưa nắm lấy quyền điều hành Kinh Thành. Nhưng dù đã làm thế, ta cũng vẫn sẽ nghe theo lời khuyên của ông ấy, và không làm trái ý ông trong những vấn đề thuộc phạm vi hiểu biết của ông, trừ phi cực kỳ cấp thiết.”
“Nhưng tôi không muốn được chữa lành,” nàng nói. “Tôi muốn được phi ngựa vào chiến trận như anh trai Éomer của tôi, hoặc tốt hơn nữa, như đức vua Théoden, vì người đã tử trận và được hưởng cả vinh dự lẫn bình yên.”
“Đã quá muộn rồi, thưa công chúa, nếu muốn đi theo các Thủ Lĩnh, kể cả dù nàng có sức lực,” Faramir nói. “Nhưng cái chết trong chiến trận có thể vẫn sẽ đến với tất cả chúng ta, dù muốn hay không muốn. Nàng sẽ sẵn sàng hơn để đón nhận nó theo cách riêng của nàng, nếu trong lúc vẫn còn có thời gian, nàng làm theo lời Y Sư. Nàng và ta, chúng ta phải kiên nhẫn chịu đựng những giờ phút chờ đợi.”
Nàng không trả lời, nhưng khi nhìn nàng, chàng thấy dường như có điều gì đó trong nàng mềm lại, như thể sương giá rét buốt đang rút lui trước linh cảm mơ hồ đầu tiên về mùa xuân. Một giọt nước mắt ứa trên mi mắt nàng và rơi xuống má, giống như giọt mưa lấp lánh. Mái đầu kiêu hãnh hơi cúi xuống. Rồi khẽ khàng, như thể nói với chính mình hơn là nói với chàng: “Nhưng các y sư bắt tôi nằm trên giường tới bảy ngày nữa,” nàng nói. “Và cửa sổ phòng tôi không trông về hướng Đông.” Giọng nàng giờ chỉ là giọng một thiếu nữ trẻ buồn bã.
Faramir mỉm cười, dù trái tim chàng tràn ngập thương cảm. “Cửa sổ của nàng không trông về hướng Đông?” chàng hỏi. “Điều đó có thể thay đổi được, về điều này thì ta sẽ ra lệnh cho Viện Trưởng. Nếu nàng chịu ở lại viện này dưới sự chăm sóc của chúng ta, thưa công chúa, và nghỉ ngơi, thì nàng sẽ đi dạo trong vườn này dưới ánh mặt trời, nếu nàng muôn; và nàng sẽ nhìn về hướng Đông, nơi tất cả hy vọng của chúng ta đang dồn tới. Và ở đây nàng sẽ thấy ta, đang tản bộ và chờ đợi, và cũng nhìn về hướng Đông. Nỗi lo của ta sẽ dịu đi nếu có nàng nói chuyện cùng, hoặc đi dạo bên ta đôi lúc.”
Nàng ngẩng đầu lên và lại nhìn vào mắt chàng; sắc hồng ửng lên trên gương mặt nhợt nhạt của nàng. “Làm sao tôi có thể làm dịu nỗi lo của ngài đây, thưa ngài?” nàng hỏi. “Và tôi không muốn nghe những chuyện trò của người đang sống.”
“Nàng muốn biết câu trả lời thẳng thắn của ta?” chàng nói.
“Đúng vậy.”
“Vậy thì, hỡi Éowyn đất Rohan, ta sẽ nói với nàng rằng nàng rất đẹp. Trong những thung lũng giữa các đồi của chúng ta, hoa nở diễm lệ tươi sáng, các thiếu nữ còn xinh đẹp hơn; nhưng cho đến bây giờ, ta chưa từng thấy đóa hoa hay người thiếu nữ nào ở Gondor đáng yêu đến vậy, bi thương đến vậy. Có lẽ chỉ vài ngày còn lại trước khi bóng tối trùm lên thế giới của chúng ta, và khi nó đến, ta hy vọng có thể vững vàng đối diện nó; nhưng trái tim ta sẽ dịu đi, nếu chừng nào Mặt Trời còn sáng và ta còn có thể thấy nàng. Vì nàng và ta đều đã sống sót qua đôi cánh của Bóng Ma, và cùng được một bàn tay kéo trở về.”
“Ôi không, tôi thì không, thưa Quốc Quản!” nàng nói. “Bóng tối vẫn còn đè nặng lên tôi. Đừng tìm kiếm ở tôi nguồn hồi phục! Tôi là một nữ chiến binh và bàn tay tôi không dịu dàng đâu. Nhưng tôi cảm ơn ngài, ít nhất vì điều này, rằng tôi không bị giữ lại trong phòng mình. Tôi sẽ ra ngoài nhờ ân huệ mà Quốc Quản của Kinh Thành ban cho.” Và nàng lịch thiệp chào chàng rồi trở lại trong viện. Nhưng Faramir còn tản bộ một mình khá lâu trong vườn, và giờ đây ánh mắt chàng liếc về phía viện hơn là về tường thành phía Đông.
Khi trở lại phòng, chàng cho gọi Viện Trưởng và lắng nghe tất cả những gì ông kể được về Công Chúa Rohan.
“Nhưng tôi không nghi ngờ, thưa chúa công,” Viện Trưởng nói, “rằng ngài sẽ biết được nhiều hơn từ cậu người Tí Hon ở cùng chúng ta; vì họ bảo cậu ta cũng trong đoàn kỵ sĩ của nhà vua, và ở bên Công Chúa tới phút cuối cùng.”
Vậy là Merry được triệu tới chỗ Faramir, và suốt trong ngày hôm đó, họ nói chuyện rất lâu cùng nhau, và Faramir biết được nhiều, nhiều hơn những gì Merry có thể nói thành lời; chàng nghĩ giờ chàng hiểu được phần nào nỗi đau khổ và sự bất an trong lòng Éowyn đất Rohan. Và khi buổi chiều đẹp trời tới, Faramir cùng Merry tản bộ trong vườn, nhưng nàng không đến.
Tuy vậy vào buổi sáng, khi Faramir rời khỏi Y Viện, chàng thấy nàng đang đứng trên tường thành; nàng mặc trắng tuyền, ngời sáng dưới mặt trời. Chàng cất tiếng gọi nàng, và nàng đi xuống, rồi họ cùng đi trên cỏ hay ngồi dưới bóng cây xanh, lúc yên lặng, lúc nói chuyện. Và mỗi ngày sau đó họ đều làm như thế. Viện Trưởng vui mừng từ trong thâm tâm khi nhìn ra từ cửa sổ phòng mình, vì ông là một y sư, và phần việc của ông trở nên nhẹ nhõm hơn; và chắc chắn, dù nỗi khiếp đảm lẫn linh tính xấu của những ngày tháng ấy đè nặng lên trái tim con người, thì có hai người trong tay ông chăm sóc đang tươi tắn lên và càng ngày càng có thêm sức lực.
Và rồi đã đến ngày thứ năm kể từ khi Công Chúa Éowyn tới gặp Faramir lần đầu tiên; giờ họ lại đứng cạnh nhau trên tường thành nhìn ra xa. Vẫn chưa có tin tức gì, và mọi trái tim đều ảm đạm. Thời tiết cũng không còn tươi sáng nữa. Trời đổ lạnh. Một đợt gió đã hình thành trong đêm, giờ thổi gắt từ phương Bắc và đang mạnh dần lên; và những miền đất xung quanh trông xám xịt và u ám.
Họ mặc áo ấm và áo khoác nặng nề, Công Chúa Éowyn khoác chiếc áo choàng xanh lớn màu đêm sâu mùa hạ, trang trí những ngôi sao bạc viền gấu áo và viền cổ. Faramir đã cho đi lấy chiếc áo này rồi tự tay choàng quanh người nàng; chàng nghĩ nàng quả thực trông đẹp đẽ như một bà hoàng lúc đứng đó bên chàng. Chiếc áo choàng từng được may cho mẹ chàng, Finduilas quê Amroth, người đã mất quá sớm và chỉ còn là một ký ức về tình yêu thương những ngày xưa và nỗi đau đầu tiên trong đời; chàng thấy áo của bà thật phù hợp với sắc đẹp và nỗi sầu muộn của Éowyn.
Nhưng giờ nàng run lên dưới tấm áo choàng trang trí hình sao, nhìn về phương Bắc, qua những miền đất xám nơi đây, vào mắt gió lạnh nơi bầu trời xa xôi trong như thép.
“Nàng đang tìm kiếm điều gì, hỡi Éowyn?” Faramir hỏi.
“Không phải Cổng Đen nằm ở nơi đó sao?” nàng nói. “Và hẳn ngài ấy phải đến nơi đó rồi chứ? Đã bảy ngày trôi qua kể từ khi ngài ra đi.”
“Bảy ngày,” Faramir nói. “Nhưng xin đừng nghĩ xấu về ta, nếu ta nói với nàng: họ đã mang đến cho ta cả niềm vui lẫn nỗi đau đớn mà ta chưa từng nghĩ sẽ trải qua. Niềm vui vì được biết nàng; nhưng đau đớn, vì giờ đây nỗi sợ hãi và nghi ngờ trong những ngày tháng ác nghiệt này quả thực đã trở nên mãnh liệt. Éowyn, ta không muốn thế giới kết thúc lúc này, hay đánh mất quá sớm thứ mà ta vừa tìm thấy.”
“Đánh mất điều ngài vừa tìm thấy ư, thưa Quốc Quản?” nàng đáp lời; nhưng nàng nhìn chàng nghiêm túc và ánh mắt nàng hiền từ. “Tôi không biết trong những ngày tháng này, ngài đã tìm thấy điều gì mà ngài không thể đánh mất. Nhưng thôi nào, bạn của tôi, chúng ta đừng nói về chuyện đó nữa! Chúng ta đừng nói gì cả! Tôi đang đứng bên bờ vực đáng sợ, dưới chân là vực thẳm tối mịt mùng, không biết liệu có ánh sáng sau lưng không. Vì tôi chưa thể quay đầu lại. Tôi chờ đợi định mệnh nào đó giáng xuống.”
“Phải, chúng ta chờ đợi định mệnh giáng xuống,” Faramir nói. Và họ không nói gì nữa, cảm thấy đương khi đứng trên tường thành dường như gió lặng, ánh sáng tàn lụi, mặt trời lu mờ, tất cả mọi âm thanh trong Kinh Thành hay trên khắp miền đất đều bặt đi: không thể nghe thấy dù là gió, dù là giọng nói, dù là tiếng chim kêu, dù là tiếng lá rì rầm, dù là hơi thở của chính họ; chính tiếng tim họ đập cũng lặng yên. Thời gian ngừng lại.
Và vừa đứng đó, tay họ vừa chạm vào nắm lấy nhau, dù họ không nhận ra. Họ vẫn đang chờ đợi điều chính họ cũng không biết là gì. Rồi ngay sau đó họ thấy dường như trên sống dãy núi xa xôi, một ngọn núi bóng tối khổng lồ khác vươn lên, ngất ngưởng như con sóng có thể nhấn chìm cả thế giới, quanh nó sét lập lòe; và rồi cơn chấn động lan qua mặt đất, khiến họ cảm thấy những bức tường Kinh Thành rung lên. Một thanh âm như tiếng thở dài dâng lên từ khắp miền đất xung quanh; và tim họ đột nhiên lại đập.
“Nó khiến ta nhớ tới Númenor,” Faramir nói, ngạc nhiên khi nghe thấy chính mình lên tiếng.
“Tới Númenor ư?” Éowyn hỏi.
“Đúng vậy,” Faramir nói, “tới vùng đất Tây Châu chìm đáy biển, và con sóng lớn tối tăm đang tràn qua miền đất xanh tươi, dâng lên trên những ngọn đồi, và cứ tiếp tục, bóng tối không thể trốn thoát. Ta thường mơ thấy nó.”
“Vậy ngài nghĩ rằng Bóng Tối đang tới?” Éowyn nói. “Bóng Tối Không Thể Trốn Thoát?” Đột nhiên nàng nép sát vào chàng.
“Không,” Faramir nói, nhìn vào gương mặt nàng. “Đó chỉ là một hình ảnh trong tâm tưởng mà thôi. Ta không biết chuyện gì đang xảy ra. Lý trí của cái đầu tỉnh táo nói với ta rằng cái ác ghê gớm đã kéo đến và chúng ta đang ở hồi kết của thời gian. Nhưng trái tim ta bảo không; và tứ chi thảy đều nhẹ bỗng, hy vọng và niềm vui đang đến với ta mà không lý lẽ nào có thể phủ nhận. Éowyn, Éowyn, Tiểu Thư Áo Trắng đất Rohan, trong thời khắc này ta không tin rằng có thứ bóng tối nào lại trường tồn. Và chàng cúi xuống hôn lên trán nàng.
Và như vậy họ đang đứng trên tường Kinh Thành Gondor khi một cơn gió mạnh dâng lên thổi tới, làm tóc họ, đen nhánh và vàng óng, phất phơ hòa quyện trong không gian. Và rồi Bóng Đen tan đi cho Mặt Trời lại ló ra, ánh sáng tràn trề ập tới; những cuộn nước dòng Anduin lấp lánh như bạc, và trong những ngôi nhà khắp Kinh Thành, người ta cất vang tiếng hát thổ lộ nỗi vui mừng dâng lên trong tim bắt nguồn từ đâu họ cũng không biết rõ.
Rồi trước khi Mặt Trời rời xa khỏi đỉnh ban trưa, từ phía Đông một cánh Đại Bàng lớn bay tới, mang đến những tin vượt qua cả hy vọng từ các Chúa tể phương Tây, kêu lớn:
Ca vang lên, dân Tháp Anor hỡi,
bởi Sauron Vương Quốc diệt vong rồi,
tòa Tháp Tối đã lật nhào mãi mãi.
Ca lên cùng mừng rỡ, Tháp Canh ôi,
bởi công sức canh phòng không uổng phí,
cánh Cổng Đen đã sụp tan tành,
và Chúa thượng các người qua cổng ấy
đã gặt về thắng lợi quang vinh.
Ca lên cùng hoan hỉ, miền Tây hỡi,
bởi Đức Vua các người lại về đây;
ngài sẽ sống giữa con dân miền đất
tới trọn đời trọn kiếp từ nay.
Và Cây héo sẽ tươi trở lại,
đỉnh tối cao ngài chọn nơi trồng,
cho phúc ấm Kinh Thành nhuần tưới.
Ca lên nào hỡi muôn dân!
Và người trong Kinh Thành cất tiếng hát trên mọi con đường.
Những ngày sau đó thật huy hoàng, Mùa Xuân cùng Mùa Hạ quấn quýt nhau mừng rỡ trên những cánh đồng Gondor. Giờ tin tức được những kỵ sĩ mau lẹ đưa tới từ Cair Andros kể về tất cả những chuyện đã xảy ra, và Kinh Thành chuẩn bị sẵn sàng đón Nhà Vua đang tới. Merry được triệu tập và ra đi cùng những xe thồ chở hàng hóa tới Osgiliath để từ đó chất lên tàu đưa đến Cair Andros; nhưng Faramir không đi, vì giờ đã hồi phục, chàng nắm lấy quyền cai trị và vai trò Quốc Quản, mặc dù chỉ còn trong một thời gian ngắn, và nghĩa vụ của chàng là chuẩn bị cho người sẽ thay thế mình.
Éowyn cũng không đi, dù anh trai nàng gửi lời khẩn khoản giục nàng đến đồng Cormallen. Faramir ngạc nhiên vì thế, nhưng chàng hiếm khi gặp nàng, bởi còn luôn bận rộn với nhiều công việc; còn nàng vẫn ở trong Y Viện tản bộ một mình trong vườn, gương mặt lại tái nhợt đi, dường như trong toàn Kinh Thành chỉ một mình nàng còn ốm yếu và buồn rầu. Trưởng Quan Y Viện phiền muộn, ông tới nói chuyện với Faramir.
Rồi Faramir tới tìm nàng, lại một lần nữa họ cùng đứng trên tường thành; chàng nói với nàng: “Éowyn, tại sao nàng lại lần lữa ở đây, không tới cuộc ăn mừng tại Cormallen bên kia Cair Andros, nơi anh trai nàng đang đợi?”
Và nàng nói: “Ngài không biết sao?”
Chàng bèn trả lời: “Có thể có hai lý do, nhưng lý do nào đúng, ta không biết.”
Và nàng nói: “Tôi không muốn chơi trò giải đố. Hãy nói đơn giản hon!”
“Vậy nếu nàng muốn, hỡi công chúa,” chàng nói: “nàng không đi, vì chỉ mình anh trai nàng gửi lời gọi, và ngắm nhìn Vương tử Aragorn, người kế vị Elendil, trong thời khắc khải hoàn sẽ không đem đến cho nàng chút vui mừng nào. Hoặc bởi vì ta không đi và nàng vẫn muốn ở gần ta. Và có lẽ vì cả hai lý do đó, mà chính nàng cũng không chọn lựa được điều nào. Éowyn, nàng không yêu ta ư, hay không muốn?”
“Tôi từng muốn có được tình yêu của một người khác,” nàng trả lời. “Nhưng tôi không cần sự thương hại của ai.”
“Ta biết điều đó,” chàng nói. “Nàng mong có được tình yêu của Vương tử Aragorn. Bởi vì ngài cao quý và hùng mạnh, và nàng muốn có danh tiếng cùng vinh quang, được nâng lên cao khỏi những thứ tầm thường bò trên mặt đất. Và cũng như một người lính trẻ nhìn người chỉ huy vĩ đại, nàng thấy ngài đáng ngưỡng mộ. Nhưng khi ngài chỉ dành cho nàng sự thông cảm và lòng thương, nàng quyết định không còn khao khát điều gì trừ cái chết can trường trong chiến trận. Hãy nhìn ta, Éowyn!”
Và Éowyn nhìn Faramir thật lâu không chớp mắt; Faramir nói: “Đừng khinh miệt lòng thương cảm vốn là món quà của một trái tim dịu dàng, Éowyn! Nhưng ta không dâng lên nàng lòng thương cảm. Bởi nàng là một quý nương cao sang và dũng cảm đã tự giành được danh tiếng không bao giờ bị lãng quên; và nàng là một quý nương kiều diễm, ta cho rằng thậm chí ngay cả ngôn từ tiên cũng không tả xiết. Và ta yêu nàng. Lúc trước ta đã thương cảm cho nỗi buồn của nàng. Nhưng giờ, giả như nàng có hết buồn, giả như nàng không còn sợ hãi hay thiếu thốn điều gì, giả như nàng là vị Hoàng Hậu hạnh phúc của Gondor, ta vẫn sẽ yêu nàng. Éowyn, nàng không yêu ta sao?”
Rồi trái tim Éowyn thay đổi, hoặc có lẽ cuối cùng nàng cũng hiểu được nó. Và đột nhiên mùa đông của nàng trôi qua, mặt trời bừng sáng chiếu rọi nàng.
“Em đứng ở Minas Anor, tòa Tháp Mặt Trời,” nàng nói; “và kia! Bóng Đen đã tan đi! Em sẽ không còn làm nữ chiến binh, hay ganh đua với những Kỵ Sĩ mạnh mẽ, hay chỉ tìm vui trong những bài ca chém giết. Em sẽ học cách chữa lành, yêu tất cả mọi thứ sinh trưởng và không cằn cỗi.” Rồi nàng lại nhìn Faramir. “Em không còn muốn làm hoàng hậu nữa,” nàng nói.
Vậy là Faramir cười to vui vẻ. “Thế thì tốt,” chàng nói; “vì ta không phải là vua. Nhưng ta sẽ kết hôn cùng Tiểu Thư Áo Trắng đất Rohan, nếu tiểu thư đồng ý. Và nếu tiểu thư đồng ý, chúng ta hãy vượt qua Sông Cả rồi sống những ngày tháng hạnh phúc hơn ở Ithilien tươi đẹp và trồng một khu vườn ở đó. Vạn vật sẽ hân hoan sinh trưởng ở nơi ấy, nếu Tiểu Thư Áo Trắng đến cùng.”
“Vậy thì em sẽ phải rời bỏ người dân của mình sao, hỡi người đất Gondor?” nàng nói. “Và chẳng lẽ ngài muốn những đồng bào kiêu hãnh của mình nói về mình rằng: ‘Đây là vị chúa đã thuần hóa một nữ chiến binh phương Bắc hoang dại! Chẳng lẽ không còn người phụ nữ giống nòi Númenor nào để chọn sao?’ ”
“Ta muốn,” Faramir nói. Và chàng kéo nàng vào vòng tay, hôn nàng dưới bầu trời chan hòa ánh nắng, chẳng bận tâm rằng họ đang đứng cao trên tường thành, trong tầm mắt nhiều người. Và đúng là nhiều người đã thấy họ, thấy ánh sáng rực rỡ chiếu quanh khi họ bước xuống từ tường thành, tay trong tay đi về Y Viện.
Tới gặp Trưởng Quan Y Viện, Faramir nói: “Đây là Công Chúa Éowyn đất Rohan, và giờ nàng đã lành bệnh.”
Viện Trưởng bèn đáp: “Vậy thì tôi sẽ để nàng rời khỏi sự trông nom của mình và tạm biệt nàng, cầu mong nàng không bao giờ phải chịu đựng thương tích hay bệnh tật nữa. Tôi giao phó nàng cho Quốc Quản của Kinh Thành trông nom, cho tới khi anh trai nàng trở về.”
Nhưng Éowyn nói: “Nhưng bây giờ khi đã được phép rời đi, tôi muốn ở lại đây. Bởi ngôi Viện này đã trở thành nơi đáng quý nhất đối với tôi.” Và nàng ở lại đó cho tới khi Vua Éomer tới.
Giờ tất cả đều đã sẵn sàng trong Kinh Thành; người đổ về tụ tập đông nghìn nghịt, vì tin tức đã tràn tới mọi ngóc ngách Gondor, từ Min-Rimmon tới tận Pinnath Gelin và những bờ biển xa xôi; tất cả những người có thể đến Kinh Thành thì đều vội vã đến. Và Kinh Thành lại đông nghịt phụ nữ cùng trẻ nhỏ, trở về nhà mang theo đầy hoa; và từ Dol Amroth tới những nhạc công chơi đàn hạc tài tình nhất cả vương quốc; có cả những người chơi đại hồ cầm, sáo, tù và bạc, những ca sĩ với giọng ca trong trẻo đến từ những thung lũng Lebennin.
Cuối cùng đã đến buổi tối khi từ những vòng tường thành trông ra có thể thấy rất nhiều nhà lều dựng trên đồng, và suốt đêm, đèn đuốc cháy rực khi người ta chờ đợi bình minh. Khi mặt trời lên trong buổi ban mai tinh khiết trên dãy núi phía Đông nơi bóng tối không còn bao phủ, tất cả chuông đều ngân vang, tất cả cờ hiệu đều tháo ra tung bay trong gió; và trên Tháp Trắng giữa Hoàng Thành, cờ hiệu của Quốc Quản, màu bạc sáng như tuyết dưới ánh mặt trời, không mang theo đồ hình hay biểu trưng gì, được kéo lên trên đất Gondor lần cuối.
Giờ những Thủ Lĩnh miền Tây đang dẫn quân về Kinh Thành, và người dân thấy họ đi tới hàng nối hàng, sáng choang và lấp lánh trong buổi bình minh và nhấp nhô như sóng bạc. Rồi họ đến trước Đại Môn và ngừng lại khoảng một sải cách tường thành. Hiện thời người ta chưa kịp làm lại cánh cổng, nhưng một thanh chắn được dựng ngang lối vào Kinh Thành, đặt những người lính vũ trang mặc chế phục đen và bạc cầm kiếm dài tuốt trần. Đứng trước thanh chắn là Faramir Quốc Quản, và Húrin Quan Giữ Khóa, cùng những chỉ huy khác của Gondor, Công Chúa Éowyn đất Rohan cùng Thống Chế Elfhelm và nhiều kỵ sĩ đất Mark; hai bên cổng là đám đông đẹp đẽ với quần áo đủ màu sắc và nhiều vòng hoa.
Lúc này có một khoảng không rộng trước tường thành Minas Tirith, viền khắp xung quanh là những kỵ sĩ và quân lính của Gondor và Rohan, dân Kinh Thành và người từ mọi miền vương quốc. Tất cả đều im lặng khi từ trong đoàn quân, những người Dúnedain mặc y phục xám và bạc bước lên; tiến chầm chậm ở đầu đoàn chính là Vương tử Aragorn. Chàng mặc áo giáp đen thắt đai bạc, khoác tấm áo choàng dài trắng tuyền, ghim cổ bằng một viên ngọc quý lớn màu xanh tỏa sáng từ xa, nhưng đầu chàng để trần nếu không kể ngôi sao trên trán đính vào bằng vải bạc mảnh. Đi cùng chàng là Éomer đất Rohan, Hoàng thân Imrahil, và Gandalf mặc trắng tuyền, cùng bốn nhân vật thấp bé khiến nhiều người kinh ngạc.
“Không, bà ạ! Họ không phải trẻ con đâu,” Ioreth nói với người bà con từ Imloth Melui đến, đang đứng cạnh bà. “Họ là những Periain, đến từ đất nước người Tí Hon xa xôi đấy, ở đó họ là những vị hoàng tử nổi danh, người ta bảo vậy. Tôi biết chứ, bởi chính tôi đã chăm sóc một vị ở Y Viện cơ đấy. Họ nhỏ bé thật, nhưng cực kỳ can trường. Bà biết không, một người trong số họ chỉ mang đúng có anh hầu cận của mình mà đi vào Đất Nước Đen một mình chiến đấu với Chúa Tể Hắc Ám, rồi đốt cháy tòa Tháp của hắn, nếu bà tin chuyện đó. Ít nhất thì đó là chuyện người ta kể trong Kinh Thành. Đó chính là vị đi cùng với Ngọc Tiên của chúng ta. Tôi nghe nói họ là bạn thân đấy nhé. Còn Người thì đúng là kỳ diệu, ngài Ngọc Tiên đó: ăn nói không mềm mỏng lắm, bà hiểu không, nhưng Người có trái tim vàng, như người ta vẫn nói; và Người có bàn tay y sư. Tôi đã nói rằng ‘Bàn tay nhà vua là bàn tay y sư’, và chính vì thế mà mọi việc mới được phát hiện ra đấy. Và Mithrandir, ông ấy nói với tôi: ‘Ioreth, người ta sẽ ghi nhớ lời bà dài lâu’, và...”
Nhưng Ioreth không được tiếp tục chỉ bảo người bà con từ quê lên, vì một tiếng kèn đồng duy nhất đã vang lên, và sự im lặng hoàn toàn nối tiếp. Rồi từ Đại Môn, Faramir cùng Húrin Giữ Khóa tiến đến, không có ai theo sau, chỉ trừ bốn người đội mũ trụ cao và mang giáp phục Hoàng Thành, nâng chiếc hộp lớn làm từ gỗ lebethron đen bịt bạc.
Faramir gặp Aragorn giữa vòng người đang tập hợp, và chàng quỳ xuống nói: “Quốc Quản cuối cùng của Gondor xin phép được trả lại chức trách của mình.” Và chàng dâng lên một cây roi trắng; nhưng Aragorn cầm lấy cây roi và trả lại, nói: “Chức trách đó không chấm dứt, và nó sẽ thuộc về ngươi và người kế vị ngươi, chừng nào dòng dõi của ta vẫn còn tồn tại. Giờ hãy làm chức trách của ngươi đi!”
Faramir đứng dậy nói bằng giọng rõ ràng: “Hỡi những người dân Gondor, giờ hãy lắng nghe Quốc Quản của Vương Quốc này! Hãy chiêm ngưỡng! Cuối cùng một người đã đến nhận lại vương vị. Đây là Aragorn con trai Arathorn, thủ lĩnh người Dúnedain tại Arnor, Thủ Lĩnh của Đội Quân Miền Tây, người mang Ngôi Sao Phương Bắc, người sử dụng Thanh Kiếm Rèn Lại, người chiến thắng trong chiến trận, có đôi tay chữa lành bệnh tật, Ngọc Tiên, Elessar mang dòng máu Valandil con trai Isildur con trai Elendil từ Númenor. Người có xứng đáng trở thành vua và bước vào Kinh Thành trị vì nơi đây không?”
Tất cả đoàn quân và người dân đều đồng thanh hô có.
Và Ioreth nói với người bà con của mình: “Đây chỉ là một nghi thức ở Kinh Thành chúng tôi thôi, bà ạ; vì Người đã vào thành rồi, như tôi kể cho bà nghe đó; và Người còn bảo tôi...” Và rồi bà lại buộc phải im lặng, vì Faramir lại cất tiếng.
“Hỡi những người dân Gondor, các bậc thầy tích truyện bảo rằng theo truyền thống cổ, nhà vua sẽ nhận vương miện từ phụ hoàng trước khi ngài qua đời; hay nếu như không thể được, nhà vua cần phải đơn độc đi nhận từ tay phụ hoàng trong lăng mộ nơi ngài an nghỉ. Nhưng vì giờ đây mọi thứ phải làm khác đi, sử dụng quyền Quốc Quản, hôm nay ta đưa từ Rath Dínen tới đây vương miện của Eärnur, vì vua cuối cùng, người đã qua đời trong thời đại của ông cha chúng ta xưa kia.”
Những người cận vệ bước tới, và Faramir mở hộp, nâng lên một vương miện cổ xưa. Nó có hình dáng giống như mũ trụ của Túc Vệ Hoàng Thành, ngoại trừ cao hơn, màu trắng tuyền, và đôi cánh hai bên được làm từ ngọc trai và bạc theo hình cánh loài chim biển, vì đó là biểu tượng của các vua đã vượt Đại Dương đến đây; bảy viên kim cương khảm vào vành vương miện, và trên chóp đỉnh gắn một viên ngọc duy nhất, ánh sáng rực lên như lửa.
Aragorn đỡ lấy vương miện, nâng lên cao và nói:
Et Eärello Endorenna utúlien. Sinome maruvan ar Hildinyar tenn’ Ambar-metta!
Đó là những lời Elendil đã nói khi ngài đến từ Đại Dương trên đôi cánh gió: “Ta đã đến Trung Địa từ Đại Dương vĩ đại. Tại nơi này ta sẽ ở lại, cả những người nối dõi ta, cho tới khi thế giới kết thúc.”
Và rồi trước sự ngạc nhiên của nhiều người, Aragorn không đội vương miện lên mà trao lại cho Faramir, chàng nói: “Ta đã trở về nhận quyền thừa kế của mình nhờ công sức và sự anh dũng của nhiều người. Để tưởng nhớ điều này, ta mong được Người Mang Nhẫn đưa vương miện đến cho ta, và được Mithrandir đặt nó lên đầu ta, nếu ông đồng ý; vì ông đã là người điều hành tất cả những gì chúng ta đạt được, và đây là chiến thắng của ông.”
Vậy là Frodo tiến lên trước nhận lấy vương miện từ Faramir và trao lại cho Gandalf; rồi Aragorn quỳ gối, và Gandalf đặt Vương Miện Trắng lên đầu chàng mà nói:
“Giờ đã đến những ngày của Đức Vua, cầu cho phước lành đến với ngài chừng nào những ngai cao của Valar còn tồn tại!”
Khi Aragorn đứng dậy, tất cả những người thấy chàng đều yên lặng ngắm nhìn, vì tưởng như chàng mới hiển lộ trước mắt mình lần đầu tiên. Cao như những vì vua từ biển đến thuở xa xưa, chàng vượt lên trên tất cả những người đứng gần; chàng dường như đã sống qua vô vàn năm tháng, nhưng vẫn đang độ tuổi trưởng thành sung sức; sự thông thái nằm trên vầng trán chàng, sức mạnh cùng với tài chữa trị nằm trong bàn tay chàng, và ánh sáng tỏa ra quanh chàng. Faramir hô to:
“Hãy chiêm ngưỡng Đức Vua!”
Và trong khoảng khắc ấy, tất cả kèn đồng thổi vang, Vua Elessar bước lên tới trước thanh chắn, Húrin Giữ Khóa bèn đẩy thanh mở ra; và giữa tiếng đàn hạc, tiếng đại hồ cầm, tiếng sáo và những tiếng hát trong trẻo, Nhà Vua đi qua các con phố đầy hoa lên tới Hoàng Thành và bước vào bên trong; cờ hiệu Cây và Sao được kéo lên đỉnh tháp cao nhất, đánh dấu sự bắt đầu triều đại của Vua Elessar, vương triều được ngợi ca trong nhiều bài ca.
Trong những năm chàng trị vì, Kinh Thành hưng thịnh hơn bất cứ khi nào trước kia, thậm chí kể cả những ngày huy hoàng đầu tiên của nó; ngôi thành tràn ngập cây cối và đài phun nước, những cánh cổng được rèn từ mithril và sắt, và những con phố lát đá cẩm thạch trắng; những Cư Dân Núi lao động ở đây, những Cư Dân Rừng vui mừng tới đây; tất cả đều được chữa lành và trở nên tốt đẹp, những ngôi nhà đầy đàn ông, phụ nữ và tiếng cười trẻ thơ, và không ô cửa sổ nào khép kín hay sân vườn nào bỏ trống; và sau Kỷ Đệ Tam kết thúc bước vào kỷ nguyên mới, nó còn lưu giữ nguyên vẹn ký ức và ánh hào quang từ những năm tháng đã trôi qua.
Trong những ngày sau lễ đăng quang, Nhà Vua ngồi trên ngai ở Sảnh Các Vua tuyên bố các phán quyết. Các đoàn sứ thần đến từ nhiều miền đất và dân tộc, từ Đông tới Nam, cả từ biên rừng Âm U, từ Dunland ở phía Tây. Nhà Vua tha tội cho những người phương Đông đã đầu hàng, cho họ ra đi tự do; chàng giảng hòa với người Harad; giải phóng nô lệ của Mordor, và trao cho họ tất cả những miền đất quanh Hồ Núrnen làm nơi tự trị. Nhiều người được đưa tới trước ngai chàng nhận lời ngợi khen cùng phần thưởng cho lòng can đảm; và cuối cùng, chỉ huy đội Túc Vệ đưa Beregond tới nghe phán xử.
Nhà Vua nói với Beregond: “Beregond, dưới lưỡi kiếm của ngươi, máu đã đổ tại Linh Thất, một điều bị cấm. Ngươi cũng đã rời bỏ vị trí mà không được phép của Chúa Thành hay Chỉ Huy. Những điều này xưa kia sẽ bị phán tử hình. Do đó giờ đây ta phải kết tội ngươi.
“Tất cả mọi hình phạt đều được miễn xá vì lòng dũng cảm của ngươi trong chiến đấu, và cũng bởi những gì ngươi đã làm đều xuất phát từ lòng yêu Chúa Faramir. Dù sao ngươi cũng bị bãi nhiệm khỏi đội Túc Vệ Hoàng Thành, và ngươi phải rời khỏi Kinh Thành Minas Tirith.”
Mặt Beregond mất hết huyết sắc, và anh cúi đầu, khổ sở tận đáy trái tim. Nhưng Nhà Vua nói tiếp:
“Và sẽ phải như vậy, bởi ngươi được cử vào Đội Quân Trắng, Cận Vệ Quan của Faramir, Hoàng thân đất Ithilien. Ngươi sẽ là chỉ huy đội quân và sống tại Emyn Amen trong danh dự và bình an, phụng sự người mà ngươi đã mạo hiểm tất cả để cứu về từ cái chết.”
Hiểu được lòng khoan dung và công bình của Nhà Vua, Beregond vui mừng quỳ xuống hôn tay ngài, rồi ra đi hài lòng vui sướng. Aragorn trao cho Faramir đất Ithilien làm lãnh địa, lệnh cho chàng cư trú trên vùng đồi Emyn Amen trong tầm nhìn của Kinh Thành.
“Vì,” chàng nói, “Minas Ithil trong Thung Lũng Morgul sẽ bị phá hủy triệt để, và dù sẽ đến lúc nó được dọn sạch, con người sẽ không sống được ở đó trong nhiều năm.”
Và cuối cùng, Aragorn gặp Éomer đất Rohan; họ ôm chầm lấy nhau, Aragorn nói: “Giữa chúng ta không thể nói chuyện cho hay nhận, hay phần thưởng; bởi chúng ta là anh em. Quả là quý báu cái ngày Eorl tới đây từ phương Bắc, và chưa mối liên minh các dân tộc nào lại may mắn hơn, bởi không bên nào từng làm đối phương thất vọng, hay sẽ làm đối phương thất vọng. Giờ như anh đã biết, chúng tôi đã đặt Théoden Lừng Danh tại một bàn mộ trong Linh Thất, và ở đó ngài sẽ nằm giữa những vì Vua Gondor mãi mãi, nếu anh chấp nhận. Hoặc nếu anh muốn, chúng ta sẽ tới Rohan và đưa ngài trở về yên nghỉ giữa dân tộc mình.”
Và Éomer trả lời: “Từ cái ngày anh đứng lên trước tôi từ mặt cỏ xanh miền đồi thấp, tôi đã yêu quý anh, và tình yêu mến đó sẽ không giảm sút. Nhưng giờ tôi phải khởi hành về vương quốc mình một thời gian, nơi đó còn nhiều điều cần hồi phục và thiết lập trật tự. Còn về Người Tử Trận, khi tất cả sẵn sàng, chúng tôi sẽ quay lại đón người; hãy để người nghỉ lại đây một thời gian.”
Và Éowyn nói với Faramir: “Giờ em phải trở về quê hương trông coi nó một lần nữa, hỗ trợ anh trai em trong những việc anh ấy cần làm; bao giờ người mà em từ lâu đã yêu như cha mình được yên nghỉ, em sẽ trở lại.”
Vậy là những ngày hạnh phúc trôi đi; và vào ngày mười tám tháng Năm, những Kỵ Sĩ Rohan chuẩn bị sẵn sàng, lên đường về Bắc, các con trai Elrond cũng đi cùng họ. Suốt dọc đường đều chen chúc đầy người đến tôn vinh và ca ngợi họ, từ Đại Môn tới tận vòng tường bao quanh Pelennor. Rồi tất cả những người sống ở xa đều hoan hỉ trở về nhà; nhưng ở Kinh Thanh, nhiều bàn tay tự nguyện lao động để tái thiết và xóa bỏ tất cả những vết thương chiến tranh cũng như ký ức về bóng tối.
Những người Hobbit vẫn ở lại Minas Tirith, cùng với Legolas và Gimli; vì Aragorn miễn cưỡng chưa muốn giải tán đoàn hộ Nhẫn. “Cuối cùng thì những chuyện như vậy cũng sẽ phải kết thúc,” chàng nói, “nhưng tôi mong các bạn chờ thêm một thời gian: vì hồi kết của những chiến công mà các bạn cùng chung sức vẫn còn chưa đến. Sắp tới một ngày tôi đã chờ đợi trong suốt những năm tháng trưởng thành, và khi ngày đó tới, tôi muốn bạn bè ở bên mình.” Nhưng chàng không nói thêm gì về ngày đó nữa.
Trong những ngày này, Hội Đồng Hành bảo vệ Nhẫn ở cùng nhau trong một ngôi nhà đẹp đẽ, cùng với Gandalf, và họ đi bất cứ nơi nào họ muốn. Frodo hỏi Gandalf: “Ông có biết gì về cái ngày mà Aragorn nhắc tới không? Vì chúng cháu được hạnh phúc ở đây, và cháu không muốn ra đi; nhưng ngày tháng đang trôi qua, bác Bilbo đang đợi; và Quận là nhà của cháu.”
“Về Bilbo,” Gandalf nói, “chú ấy cũng đang đợi ngày này, và chú ấy biết điều gì giữ chân cháu lại. Còn về chuyện ngày tháng trôi qua, giờ mới là tháng Năm và thời điểm giữa mùa hè còn chưa tới; và dù dường như mọi điều đều đã thay đổi, như thể một kỷ nguyên của thế giới đã qua đi, với cây cối cỏ cây thì mới chưa đầy một năm kể từ ngày cháu lên đường.”
“Pippin,” Frodo nói, “không phải em đã bảo là Gandalf ít kín miệng hơn trước sao? Chắc ông ấy lao lực quá nên mệt mỏi đó thôi. Giờ ông ấy đang hồi phục rồi.”
Gandalf nói: “Nhiều người thích được biết trước món gì sắp đặt lên bàn; nhưng những người đã vất vả chuẩn bị cho bữa tiệc thì lại thích giữ bí mật; vì sự kinh ngạc khiến câu trầm trồ nghe nức tai hơn. Và chính Aragorn cũng đang đợi một dấu hiệu.”
Rồi đến một ngày không thể tìm thấy Gandalf ở đâu, các bạn trong Hội Đồng Hành tự hỏi chuyện gì đang diễn ra. Nhưng Gandalf đã đưa Aragorn rời khỏi Kinh Thành vào ban đêm, dẫn chàng tới chân núi phía Nam Đỉnh Mindolluin; và ở đó, họ tìm thấy một đường mòn đã làm từ rất lâu về trước, giờ không còn mấy người dám đi. Bởi nó đi lên núi tới một linh địa trên cao, nơi chỉ các vì vua quen tới. Họ đi lên lối đi dốc, cho tới khi đến một bãi phẳng bên dưới ngọn tuyết phủ của các đỉnh núi cao, từ đó trông thẳng xuống vách núi phía sau Kinh Thành. Đứng đó, họ nhìn khắp miền đất, vì buổi sớm đã đến; và họ thấy những ngọn tháp Kinh Thành ở xa phía dưới như những cây bút chì trắng được ánh mặt trời ve vuốt, cả vùng Đồng Bằng sông Anduin giống như một khu vườn, và Dãy Núi Bóng Đêm nấp sau màn sương mù ửng vàng. Ở một bên, tầm mắt họ phóng tới tận khu đồi Emyl Muil mờ xám, cùng ánh lung linh trên thác Rauros như ngôi sao lấp lánh phương trời xa; còn ở bên kia, họ thấy Sông Cả như dải lụa uốn mình xuống tới cảng Pelargir, xa hơn nữa là dải sáng viền mép bầu trời, báo hiệu Đại Dương.
Gandalf nói: “Đây là vương quốc của anh, trái tim của vương quốc vĩ đại hơn sẽ tới. Kỷ Đệ Tam của thế giới đã kết thúc, vì kỷ nguyên mới đang bắt đầu; nhiệm vụ của anh là giám sát sự bắt đầu của nó và bảo tồn những gì có thể bảo tồn. Bởi dù nhiều điều đã được cứu giữ, giờ nhiều điều sẽ phải trôi qua; và quyền năng của Ba Nhẫn cũng đã chấm dứt. Nên tất cả miền đất mà anh thấy, cùng những miền đất bao quanh, sẽ là nơi sinh sống của Con Người. Vì đã đến thời đại Con Người Thống Trị, Cựu Tộc sẽ lụi tàn hoặc ra đi.”
“Tôi biết rõ điều đó, bạn của tôi,” Aragorn nói; “nhưng tôi vẫn muốn nghe lời khuyên của ông.”
“Không còn lâu nữa đâu,” Gandalf nói. “Kỷ Đệ Tam là kỷ nguyên của tôi. Tôi là Kẻ Thù của Sauron; công việc của tôi đã hoàn thành. Tôi sẽ sớm ra đi. Gánh nặng giờ nằm lại nơi anh và dòng giống của anh.”
“Nhưng tôi sẽ chết,” Aragorn nói. “Vì tôi là người trần tục, và dù tôi thuộc về nòi giống phương Tây không trộn lẫn, và là người như thế này, nhưng tôi cũng chỉ sống lâu hơn chút xíu so với những người khác mà thôi; và khi nào những đứa trẻ giờ đang trong bụng mẹ được sinh ra và già đi, tôi cũng đến tuổi già. Rồi ai sẽ trị vì Gondor và những người trông cậy vào Kinh Thành này như vào bà hoàng của họ, nếu khao khát của tôi không được đáp lại? Cây trong Sân Đài Nước vẫn còn héo tàn cằn cỗi. Khi nào thì tôi sẽ thấy dấu hiệu rằng điều đó có thể khác đi?”
“Hãy quay lưng lại thế giới xanh tươi, và nhìn về nơi dường như chỉ có lạnh lẽo và cằn cỗi!” Gandalf nói.
Rồi Aragorn quay đầu, và thấy đằng sau một dốc đá chạy xuống từ mép tuyết; và nhìn lên chàng nhận thấy một vật sống đang mọc đơn độc giữa hoang vu. Chàng trèo lên đó, và thấy ở ngay mép tuyết một cây non không cao hơn ba bộ trồi lên. Nó đã kịp trổ những chiếc lá non dài đẹp, mặt trên màu tối, mặt dưới màu bạc, trên ngọn cây thanh mảnh là một chùm hoa nhỏ, những cánh hoa trắng sáng như tuyết dưới nắng.
Aragorn kêu lên: “Yé! utúvienyes! Tôi tìm thấy rồi! Kìa! đây là một hậu duệ của Cây Tối Cổ! Nhưng vì sao nó đến được đây? Bởi chính nó cũng chưa đầy bảy tuổi.”
Gandalf tới nhìn nó rồi nói: “Đây đúng là mầm non thuộc dòng dõi Nimloth xanh tươi; cây đó nảy từ hạt giống của Galathilion, đến lượt mình lại sinh từ quả của Telperion mang nhiều cái tên, tức Cây Tối Cổ. Ai có thể nói được vì sao nó ở đây trong thời khắc ấn định này? Vả chăng đây là chốn linh địa cổ xưa, hẳn từ trước khi dòng vua đứt đoạn hay Cây Trắng héo tàn trong sân cung điện, trái của nó đã được vùi ở đây. Vì người ta nói rằng dù trái Cây Trắng ít khi chín, mầm sống bên trong có thể ngủ yên qua nhiều năm trời, không ai đoán trước được khi nào thức giấc. Hãy nhớ điều này. Vì nếu có bao giờ trái chín, nó phải được trồng xuống, không để dòng giống nó tàn lụi khỏi thế giới. Nó đã nằm ẩn mình nơi đây trên ngọn núi, cũng như con cháu Elendil ẩn mình trên những vùng hoang vu phương Bắc. Nhưng giống cây Nimloth còn lâu đời hơn dòng dõi của anh nhiều, Vua Elessar.”
Aragorn nhẹ nhàng đặt tay lên cây non, và kìa! dường như nó chỉ bám nhẹ vào đất, và chịu để nhấc lên không tổn hại; vậy là Aragorn đưa nó trở lại Hoàng Thành. Tại đây, thân cây héo khô được nhổ lên, nhưng với lòng thành kính, và người ta không đốt mà đặt nó nằm yên nghỉ trong bầu tĩnh lặng ở Rath Dínen, Aragorn trồng cây mới trong sân lâu đài cạnh đài phun nước, nó bắt đầu mọc lên nhanh chóng và hân hoan; và khi tháng Sáu tới, cây nở đầy hoa.
“Dấu hiệu đã được chỉ cho tôi,” Aragorn nói, “ngày đó không còn xa nữa.” Rồi chàng cắt cử lính canh trên những tường thành.
Một ngày trước hôm Trung Hạ, những người đưa tin từ Amon Dîn tới Kinh Thành, nói rằng có một đoàn dân mỹ tộc đang đi ngựa tới từ phương Bắc, giờ họ đã tới gần vòng tường bao quanh Pelennor. Nhà Vua nói: “Cuối cùng thì họ cũng tới. Toàn Kinh Thành hãy chuẩn bị sẵn sàng!”
Vào ngay đêm trước Trung Hạ, khi bầu trời xanh như ngọc bích và sao trắng hé nở phía Đông, song phía Tây còn vàng thắm và bầu không mát lạnh ngát hương, đoàn người ngựa đi xuống đường Bắc tới cổng vào Minas Tirith. Đi đầu là Elrohir và Elladan giương cờ hiệu bạc, rồi tới Glorfindel và Erestor và tất cả gia tộc Thung Đáy Khe, đi sau họ là Phu Nhân Galadriel và Celeborn, Lãnh Chúa Lothlórien cưỡi trên bạch mã, theo sau là nhiều người dân đẹp đẽ từ miền đất của họ, mặc áo choàng xám với ngọc trắng cài trên mái tóc; và cuối cùng là Chủ Nhân Elrond, hùng mạnh giữa Tiên và Người, mang theo vương trượng thành Annúminas, và bên cạnh ông, cưỡi con ngựa thanh nhã màu xám, là con gái ông Arwen, vì Sao Hôm của dân tộc nàng.
Thấy nàng tới lấp lánh trong đêm, ngôi sao trên trán và hương thơm ngát quấn quanh thân, Frodo cực kỳ kinh ngạc, chú nói với Gandalf: “Cuối cùng thì cháu cũng hiểu vì sao chúng ta chờ đợi rồi! Đây là hồi kết. Giờ không chỉ ngày được trân quý mà cả đêm cũng sẽ tươi đẹp và hạnh phúc, tất cả những nỗi sợ mà đêm mang tới đều sẽ trôi qua!”
Thế rồi Nhà Vua đón chào những vị khách của mình, và họ xuống ngựa; Elrond trao vương trượng và đặt tay con gái vào bàn tay Nhà Vua, rồi họ cùng nhau đi lên Thành Cao, khi tất cả những vì tinh tú nở rộ trên bầu trời. Và Aragorn, Vua Elessar kết hôn cùng Arwen Undómiel trong Kinh Thành của Các Vua vào ngày Trung Hạ, câu chuyện về sự chờ đợi dài lâu cùng những nỗ lực của họ đã đến hồi viên mãn.