PHỤ LỤC E CHỮ VÀ CHÍNH TẢ-I-CÁCH PHÁT ÂM CÁC TỪ VÀ TÊN RIÊNG
Tây ngữ, tức Ngôn Ngữ Chung, đã được dịch toàn bộ sang các từ tiếng Anh tương đương. Tên riêng và các từ đặc biệt của Hobbit cũng có dụng ý phát âm theo cách đó: ví dụ g trong Bolger đọc như trong bulge /bʌldʒ/, còn mathom hiệp vần với fathom /'fæðəm/.
Còn với các hệ chữ viết cổ, trong quá trình phiên âm tôi đã cố gắng dung hòa giữa thể hiện tương đối chính xác cách phát âm gốc (chừng nào có thể xác định được) và tạo ra những từ và tên riêng nhìn không đến nỗi quá thô lậu khi viết bằng chữ cái hiện đại. Tiếng Quenya tức Thượng Tiên dùng chính tả sát với tiếng La tinh hết mức cho phép. Cũng vì thế hai ngôn ngữ Eldar sử dụng c chứ không dùng k.
Những ai để ý các chi tiết loại này còn có thể nhận thấy vài điểm sau.
Phụ âmC luôn mang giá trị như k kể cả đi trước e và i: celeb “bạc” phải đọc như keleb.
CH chỉ dùng ký âm như trong bach /baχ/ (tiếng Đức hay Wales), không phải như trong church /t͡ʃɜːt͡ʃ/ tiếng Anh. Ngoài trường hợp đứng cuối từ hoặc đi trước t, âm này luôn bị nhược hóa thành h trong khẩu ngữ Gondor; hiện tượng này được phản ánh trong vài tên gọi như Rohan, Rohirrim. (Imrahil là tên bằng tiếng Númenor.)
DH ghi âm th hữu thanh (mềm) trong these clothes /ðiːz kləʊðz/ tiếng Anh. Âm này thường liên quan tới d, như trong S. galadh “cây”, so sánh Q. alda; nhưng đôi lúc lại phái sinh từ n+r, như trong Caradhras “Sừng Đỏ” là từ caran-rass.
F ghi âm f, nhưng đứng cuối từ là ghi âm v (như trong of /ɒv/ tiếng Anh): Nindalf, Fladrif.
G chỉ đọc như g trong give, get: âm tiết gil “sao” trong Gildor, Gilraen, Osgiltiath bắt đầu như gild /gɪld/ tiếng Anh.
H đứng riêng không ghép với phụ âm khác thì đọc như h trong house, behold. Tổ hợp ht tiếng Quenya đọc như cht, như trong echt, acht [ɛçt; aχt] tiếng Đức: VD là tên Telumehtar “chòm Thiên Lang”[1]. So sánh CH, DH, L, R, TH, W, Y.
I đứng đầu trước mọi nguyên âm khác chỉ đọc như phụ âm y trong you, yore, /juː; jɔː/ riêng trong tiếng Sindarin: như trong lorth, larwain. Xem Y.
K chỉ dùng trong tên thuộc ngôn ngữ khác ngoài tiếng Tiên, cũng mang giá trị như c; vì thế kh cũng ký âm giống như ch trong Grishmákh tiếng Orc, hay Adûnakhôr tiếng Adûnaic (Númenor). Về tiếng Người Lùn (Khuzdul), xem lưu ý dưới đây.
L ghi âm tương tự l đứng đầu trong tiếng Anh, như trong let. Tuy nhiên âm này bị ngạc hóa một phần khi đứng giữa e, i và phụ âm khác, hoặc đứng cuối sau e, i. (Các từ bell, fill /bɛl; fɪl/ tiếng Anh ắt sẽ được dân Eldar phiên âm là beol, fiol). Dạng vô thanh của âm này sẽ ghi bằng LH (thường phái sinh từ sl- đứng đầu). Trong tiếng Quenya (cổ) viết là hl, nhưng tới Kỷ Đệ Tam thường phát âm là l.
NG ký âm ng như trong finger /'fɪŋgə/ tiếng Anh, trừ khi đứng cuối thì đọc như sing /sɪŋ/. Âm cuối này xưa cũng từng phân bổ ở đầu từ trong tiếng Quenya, nhưng đã được phiên âm là n (như trong Noldo) theo cách phát âm Kỷ Đệ Tam.
PH ghi âm giống như f. Cách viết này dùng trong các trường hợp: (a) khi âm f đứng cuối từ, như trong alph “thiên nga”; (b) khi âm f liên quan tới hoặc phái sinh từ p, như trong i-Pheriannath “những người Tí Hon” (perian); (c) ở vị trí đứng giữa trong một số từ, ký âm ff dài (bắt nguồn từ pp) như trong Ephel “hàng rào ngoài”; (d) từ tiếng Adûnaic và Tây ngữ, như trong Ar-Pharazôn (pharaz “vàng”).
QU được dùng viết cw, tổ hợp rất thường thấy trong tiếng Quenya, dù không gặp trong Sindarin.
R ký âm rung r dù ở vị trí nào; không bị câm khi đi trước phụ âm (chẳng hạn như trong part /pɑːt/ tiếng Anh). Orc và một số Người Lùn nghe nói từng dùng âm r lùi, tức âm rung lưỡi con, bị dân Eldar coi là rất thô tục. RH ký âm r vô thanh (thường phái sinh từ sr- đứng đầu trong lịch sử). Tiếng Quenya viết là hr. Ss L.
S luôn là âm vô thanh như trong so, geese /səʊ, giːs/ tiếng Anh; âm z không tồn tại trong tiếng Quenya hay Sindarin đương đại. SH thấy trong Tây ngữ, tiếng Người Lùn và tiếng Orc ký âm tương tự sh /ʃ/ trong tiếng Anh.
TH ký âm th vô thanh tiếng Anh trong thin cloth /θɪn klɒθ/. Trong khẩu ngữ Quenya đã biến thành s, dù vẫn viết bằng chữ khác như trong Q. Isil - S. Ithil, “Mặt Trăng”.
TY ký âm có lẽ tương tự t trong tune /tju:n/ tiếng Anh. Âm này chủ yếu phái sinh từ c hoặc t+y. Âm ch /tʃ/ như trong tiếng Anh, vì rất thường gặp trong Tây ngữ, thường được người nói tiếng Tây ngữ dùng thay thế âm này. Ss. HY trong mục Y.
V đọc như âm v tiếng Anh, nhưng không phân bố cuối từ. Xem F.
W đọc như âm w /w/ tiếng Anh. HW là âm w vô thanh, như trong white tiếng Anh theo cách phát âm miền Bắc /ʍaɪt/. Âm này không hiếm gặp ở vị trí đứng đầu trong tiếng Quenya, dù có vẻ cuốn sách này không đưa ra ví dụ nào. Cả v và w đều được dùng khi phiên âm tiếng Quenya, bất kể chính tả Quenya đã đồng hóa vào tiếng La tinh, vì các âm đó đều gặp trong ngôn ngữ Quenya và có nguồn gốc khác nhau.
Y trong tiếng Quenya dùng cho phụ âm y, như trong you /juː/ tiếng Anh. Trong tiếng Sindarin y là nguyên âm (xem phần sau). HY đối với y cũng như HW với w, ký âm thường thấy trong hew, huge /hjuː; hjuːdʒ/ tiếng Anh; h trong eht, iht tiếng Quenya cũng là âm này. Âm sh /ʃ/ tiếng Anh thường gặp trong Tây ngữ, thường được người nói tiếng Tây ngữ dùng thay thế. Ss. TY đã nói trên. HY thường phái sinh từ sy- và khy-; trong cả hai trường hợp các từ Sindarin có liên quan thường bắt đầu bằng h, như trong Q. Hyarmen “phía Nam” - S. Harad.
Lưu ý rằng những phụ âm viết lặp như tt, ll, ss, nn thể hiện các phụ âm “kép” kéo dài. Cuối những từ nhiều hơn một âm tiết, phụ âm kép này thường viết giản lược: như Rohan rút gọn từ Rochann (dạng cổ Rochand).
Trong tiếng Sindarin các tổ hợp ng, nd, mb, vốn rất phổ biến trong các ngôn ngữ Eldar giai đoạn trước, phải trải qua nhiều biến đổi. mb trở thành m trong mọi trường hợp, nhưng vẫn đươc coi là phụ âm dài khi tính trọng âm (xem ở phần dưới), vì vậy được viết là mn nếu có khả năng gây ra lẫn lộn trọng âm khi viết gọn[2]. ng giữ nguyên, trừ ở vị trí đứng đầu hoặc đứng cuối thì trở thành âm mũi đơn giản (như trong sing /sɪŋ/ tiếng Anh). nd nói chung biến đổi thành nn, như trong Ennor “Trung Địa”, Q. Endóre; nhưng vẫn giữ nguyên là nd khi đứng cuối các từ đơn tiết mang trọng âm duy nhất như thond “rễ” (ss Morthond “Rễ Đen”) hoặc đi trước r, như Andros “bọt dài”. Tổ hợp nd còn thấy trong nhiều tên cổ còn lại từ xưa, như Nargothrond, Gondolin, Belerland. Sang tới Kỷ Đệ Tam, nd đứng cuối các từ đa tiết đã thành nn rút ngắn còn n, như trong Ithilien, Rohan, Anórien.
Nguyên âmCác chữ cái ghi nguyên âm là i, e, a, o, u, và y (riêng trong tiếng Sindarin). Theo những thông tin đã có, âm thể hiện bằng các chữ này (trừ y) cũng giống như các âm thường gặp, dù tất nhiên sẽ lọt mất nhiều dị thể địa phương không được phát hiện hết[3]. Nghĩa là những âm đó cũng khá tương tự các âm thể hiện bằng i, e, a, o, u trong machine, were, father, for, brute /mə'ʃɪːn; wɜː; 'fɑːðə; fɔː; bɹuːt/ tiếng Anh, không kể đến trường độ.
Trong tiếng Sindarin, e, a, o dài cũng cùng tính chất như e, a, o ngắn, vì là sản phẩm phái sinh của chúng vào thời tương đối gần đây (các âm dài cổ é, á, ó đều đã thay đổi). Trong tiếng Quenya, âm é và ó dài, nếu phát âm chính xác[3] như dân Eldar nói, thì căng hơn và “hẹp” hơn thể ngắn tương ứng.
Trong các ngôn ngữ đương thời, chỉ mình tiếng Sindarin là có âm u “biến đổi” kéo lên trước, gần tương tự như u trong lune /lyn/ tiếng Pháp. Âm này phần là biến âm từ o và u, phần phái sinh từ các nguyên âm đôi eu, iu xưa kia. Giải pháp là dùng y thể hiện âm này (như tiếng Anh cổ): như trong lŷg “rắn”, Q. leuca, hoặc emyn số nhiều của amon “đồi”. Ở Gondor thường phát âm chữ y này như i.
Nguyên âm dài thường mang dấu sắc (´) như trong vài dị thể của hệ văn tự Fëanor. Trong tiếng Sindarin, nguyên âm dài trong các từ đơn tiết mang trọng âm thường có dấu mũ (ˆ), vì những trường hợp đó thường đọc dài hơn cả thông thường[4]; chẳng hạn như dûn dài hơn Dúnadan. Dấu mũ trong các ngôn ngữ khác như Adûnaic hay tiếng Người Lùn không biểu đạt gì đặc biệt, chỉ dùng nhấn mạnh là các ngôn ngữ lạ (cũng như dùng k).
Chữ e đứng cuối không bao giờ câm hoặc chỉ dùng báo hiệu trường độ như trong tiếng Anh. Vì thế e đứng cuối thường viết là ë (tuy không nhất quán).
Các cụm er, ir, ur (cuối từ hoặc đi trước phụ âm) không đọc như fern, fir, fur /fɜːn, fɜː(ɹ), fɜː(ɹ)/ tiếng Anh, mà như air, eer, oor /ɛɹ, ɪɹ, uɹ/.
Trong tiếng Quenya, ui, oi, ai, iu, eu, au đều là nguyên âm đôi (tức phát âm thành một âm tiết). Mọi tổ hợp nguyên âm khác đều đọc thành hai âm tiết; thường được ghi nhận bằng cách viết ëa (viết hoa Eä), ëo, oë.
Trong tiếng Sindarin các nguyên âm đôi viết là ae, ai, ei, oe, ui, au. Ngoài ra không còn nguyên âm đôi nào khác. au đứng cuối viết thành aw là mô phỏng thói quen trong tiếng Anh, nhưng thực tế cũng không hiếm gặp trong chính tả Fëanor.
Tất cả đều là nguyên âm đôi “đi xuống”, nghĩa là đỉnh âm tiết ở yếu tố thứ nhất[5], và bao gồm hai cấu tố đọc nhập vào nhau. Vì thế ai, ei, oi, ui cần đọc giống các nguyên âm tiếng Anh trong rye /ɹaɪ/ (không phải ray /ɹeɪ/), grey /gɹeɪ/, boy /bɔɪ/, ruin /ˈɹuːɪn/; và au (aw) như trong loud, how /laʊd; haʊ/ chứ không phải trong laud, haw /lɔːd; hɔ/.
Trong tiếng Anh không có âm nào gần với ae, oe, eu; ae và oe có thể đọc như ai, oi.
Trọng âmVị trí của trọng âm không được đánh dấu, vì trong các thứ tiếng Eldar bàn tới ở đây, trọng âm luôn phụ thuộc vào hình dạng từ. Những từ song tiết hầu như toàn bộ đều có trọng âm rơi vào âm tiết thứ nhất. Ở những từ dài hơn, trọng âm rơi vào âm tiết thứ hai tính từ cuối, nếu đó là nguyên âm dài, nguyên âm đôi, hay nguyên âm đứng trước hai phụ âm (trở lên). Nếu âm tiết thứ hai tính từ cuối có nguyên âm ngắn đứng truớc một phụ âm hoặc không có phụ âm nào (hiện tượng thường thấy hơn) thì trọng âm rơi vào âm tiết trước nữa, thứ ba tính từ cuối. Mô hình thứ ba này là dạng phổ biến nhất trong các ngôn ngữ Eldar, đặc biệt là Quenya.
Trong các ví dụ sau đây, trọng âm nằm ở các nguyên âm được viết hoa: isIldur, Orome, erEssëa, fËanor, ancAlima, elentÁri, dEnethor, periAnnath, ecthElion, pelArgir, silIvren. Các từ có mô hình elentÁri “nữ hoàng sao” dùng nguyên âm é, á, ó ít khi gặp trong tiếng Quenya, trừ khi (như trường hợp này) là từ ghép; thường gặp hơn là nguyên âm í, ú như trong andÚne “hoàng hôn, phía Tây”. Mô hình này không tồn tại trong tiếng Sindarin trừ từ ghép. Lưu ý là dh, th, ch trong tiếng Sindarin là các phụ âm đơn, thay các chữ cái đơn trong bảng chữ gốc.
Lưu ýTrong các tên riêng thuộc ngôn ngữ khác ngoài tiếng Eldar, các chữ cái cũng mang giá trị như vậy nếu không ghi chú gì đặc biệt ở trên, trừ trường hợp tiếng Người Lùn. Trong thứ tiếng này không tồn tại các âm ghi bằng th và ch (kh) như trên, nên th và kh là các âm bật hơi, nghĩa là t và k có h đi theo, tương tự như trong backhand, outhouse /ˈbækhænd, ˈaʊtˌhaʊs/.
z khi xuất hiện dùng ký âm giống nhu z /z/ tiếng Anh. gh trong Ngôn Ngữ Đen và tiếng Orc thể hiện “âm xát lùi” (gh đối với g cũng như dh với d), như trong ghâsh và agh.
Các “ngoại danh” hay tên bằng tiếng Người của Người Lùn đã được để dạng miền Bắc, nhưng âm đọc của các chữ cái vẫn như trên. Tương tự với các tên nhân danh và địa danh Rohan (trừ các trường hợp đã hiện đại hóa), chỉ trừ ở đây éa và éo là nguyên âm đôi, có thể coi như ea trong bear /bɛə/ tiếng Anh, và eo trong Theobald /ˈθiːəbɔːˈd/; y là âm u biến đổi. Các dạng hiện đại hóa có thể dễ dàng nhận ra được, phát âm như tiếng Anh. Chủ yếu là địa danh như Dunharrow (từ Dúnharg), trừ các tên Shadowfax và Wormtongue.
______________
[1] Thường gọi là Menelvagor trong tiếng Sindarin, Menelmacar tiếng Quenya.
[2] Như trong galadhremmin ennorath, “mảnh đất Trung Địa dày đặc cây”. Remmirath có chứa rem “lưới”, Q. rembe + mîr “ngọc”.
[3] Thói quen tương đối phổ biến phát âm é và ó dài là ei và ou, tương tự như say no /seɪ nəʊ/ tiếng Anh, xuất hiện cả trong Tây ngữ và trong cách đọc tiếng Quenya của những người nói Tây ngữ, được thể hiện trong các cách viết như ei, ou (hoặc chính tả tương đương trong các hệ chữ đương thời). Nhưng cách phát âm này vẫn bị coi là thiếu chính xác hoặc quê kệch. Tất nhiên đấy là cách đọc thông thường ở Quận. Vì thế những ai đọc yéni únótime “các năm dài vô số kể” như cách đọc tự nhiên trong tiếng Anh (nghĩa là đại khái như yainy oonoatimy /jeɪnɪ uːnəʊtɪmɪ/) thì cũng không sai nhiều hơn Bilbo, Meriadoc hay Peregrin. Frodo vẫn được coi là “rất có tài nói các âm ngoại quốc”.
[4] Tương tự Annûn “hoàng hôn”, Amrûn “bình minh”, chịu ảnh hưởng các từ liên quan là dûn “Tây” và rhûn “Đông”.
[5] Đó là vào nguyên thuỷ. Nhưng sang đến Kỷ Đệ Tam iu tiếng Quenya thường được đọc đi lên, như yu trong yule [ɪ̯ul] tiếng Anh.
II CHỮ VIẾTCác hệ văn tự và chữ cái sử dụng vào Kỷ Đệ Tam nguyên thủy đều có nguồn gốc Eldar, cho tới thời này đã được coi là rất cổ. Cho tới lúc này chúng đều đã phát triển bảng chữ hoàn thiện, nhưng vẫn còn thấy sử dụng các phương pháp viết cổ, chỉ có phụ âm được viết trọn vẹn bằng chữ cái.
Có hai bảng chữ cái chính được sử dụng, nguồn gốc độc lập với nhau: chữ Tengwar hoặc Tîw, trong đây dịch là “chữ cái”; và chữ Certar hoặc Cirth, dịch là “chữ rune”. Chữ Tengwar được tạo ra để viết bằng bút lông hoặc bút mực; dạng chữ vuông góc dùng khi chạm khắc thực tế là biến đổi từ dạng viết tay. Chữ Certar được tạo ra và sử dụng chủ yếu khi khắc vạch lên bề mặt cứng.
Trong hai loại này Tengwar cổ hơn, được chính người Noldor, bậc thầy trong các kỹ năng loại này, sáng tạo ra từ rất lâu trước cuộc tha hương. Hệ văn tự Eldar cổ nhất, chữ Tengwar của Rúmil, không thấy dùng ở Trung Địa. Hệ chữ về sau, chữ Tengwar của Fëanor, hầu như toàn bộ là phát minh mới, dù có vay mượn phần nào của Rúmil. Người Noldor tha hương mang bảng chữ cái này tới Trung Địa, sau đó người Edain và Númenor học theo. Tới Kỷ Đệ Tam, nó đã được sử dụng ở phần lớn những vùng có dân cư dùng Ngôn Ngữ Chung.
Chữ Cirth ban đầu do tộc Sindar ở Beleriand đặt ra, suốt một thời gian dài chỉ dùng khắc tên hoặc những ghi nhớ ngắn gọn trên gỗ hay đá. Nguồn gốc đó tạo nên tự dạng nhiều góc nhọn, rất giống chữ rune của thời đại chúng ta, dù khác nhiều về chi tiết và khác hẳn về thứ tự. Chữ Cirth dạng đơn giản ban đầu đã truyền sang phía Đông vào Kỷ Đệ Nhị, được rất nhiều giống dân chọn dùng, cả Con Người lẫn Người Lùn, thậm chí cả Orc tất cả đều ít nhiều biến đổi sao cho hợp với mục đích sử dụng và với tài năng, hoặc sự bất tài của mình. Một trong những dạng đơn giản lúc này vẫn được Con Người thành bang Thung Lũng sử dụng, một dạng khác tương tự ở Rohan.
Nhưng ở Beleriand trước khi kết thúc Kỷ Đệ Nhất, chữ Cirth, một phần do ảnh hưởng chữ Tengwar của tộc Noldor, đã thay đổi thứ tự và phát triển thêm. Dạng phong phú nhất và trật tự nhất được gọi là Bảng Chữ Cái Daeron, vì truyền thuyết Tiên kể rằng người sáng tạo ra chính là Daeron ca công và thầy tích truyện trong triều Vua Thingol vương quốc Doriath. Trong dân Eldar Bảng Chữ Cái Daeron không phát triển kiểu chữ viết tay thực sự, vì khi viết người Tiên chọn dùng chữ cải Fëanor. Thực tế là người Tiên miền Tây phần lớn đã bỏ hẳn chữ rune. Riêng có nước Eregion là nơi Bảng Chữ Cái Daeron vẫn tiếp tục được sử dụng, từ đó lan sang Moria trở thành bảng chữ được Người Lùn ưa thích nhất. Bảng chữ này được họ dùng mãi về sau, đưa cả lên miền Bắc. Tới đây sau này nó thường được gọi là Angerthas Moria, hay Chữ Rune Hàng Dài Moria. Cũng như ngôn ngữ nói, Người Lùn tận dụng mọi hệ chữ thông dụng đương thời và nhiều người viết chữ Fëanor rất đẹp; nhưng viết tiếng mẹ đẻ thì họ chỉ dùng Cirth, và phát triển thêm nhiều kiểu chữ viết bằng bút mực.
(i) Chữ cái FëanorBảng sau đây liệt kê mọi chữ cái thường dùng ở miền Tây vào Kỷ Đệ Tam bằng kiểu chữ thư tịch chuẩn, theo thứ tự thường dùng nhất, và cũng là thứ tự thường liệt kê các chữ cái theo tên nhất.
Nguyên thủy hệ văn tự này không phải là một “bảng chữ”, theo nghĩa là một chuỗi ngẫu nhiên các chữ cái, mỗi chữ mang một giá trị độc lập, liệt kê theo một trật tự quy ước không phụ thuộc gì vào hình dạng cũng như chức năng của chúng[1]. Đúng hơn đây là một hệ thống các ký hiệu phụ âm, hình dạng và kiểu dáng tương tự nhau, có thể thay đổi tùy theo chủ ý hoặc tiện lợi để thể hiện các phụ âm của ngôn ngữ nào được dân Eldar sử dụng (hay sáng tạo). Mỗi chữ cái đều không mang giá trị tự thân nào, nhưng giữa chúng có các tương quan được xác lập từng bước.
Hệ thống có tất cả hai mươi tư chữ cái chính, 1-24, xếp vào bốn témar (chuỗi), mỗi chuỗi có sáu tyeller (bậc). Còn có thêm các “chữ phụ”, một số ví dụ là từ 25-36. Trong số này chỉ có 27 và 29 là chữ mới độc lập tuyệt đối; số còn lại đều là biến dạng từ các chữ khác. Ngoài ra còn một số lượng nhất định các tehtar (dấu) mang nhiều chức năng khác nhau. Những dấu này không được liệt kê trong bảng[2].
Bộ chữ chính đều cấu tạo từ một telco (thân) kèm một lúva (cung). Các ký tự ở vị trí 1-4 được coi là tiêu chuẩn. Thân chữ có thể nhô lên cao như 9-16, hoặc rút ngắn như 17-24. Cung chữ có thể mở như Chuỗi I và III, hoặc đóng như II và IV, và mở hay đóng đều có thể lặp kép, ví dụ như 5-8.
Theo lý thuyết ban đầu mỗi ký tự có thể gán cho giá trị tùy ý, nhưng đến Kỷ Đệ Tam đã được tập quán cố định, tới mức thông thường Chuỗi I được dùng ghi âm răng, gọi là chuỗi t (tincotéma), còn Chuỗi II ghi âm môi, tức chuỗi p (parmatéma). Chuỗi III và IV được gán các giá trị tùy theo nhu cầu từng ngôn ngữ.
Trong các thứ tiếng như Tây ngữ rất thường xuất hiện các phụ âm kiểu ch, j, sh trong tiếng Anh[3], Chuỗi III thường được dùng ghi loại phụ âm này; khi đó Chuỗi IV trở thành chuỗi k thông thường (calmatéma). Trong tiếng Quenya, vốn ngoài calmatéma còn có cả chuỗi vòm miệng (tyelpetéma) và chuỗi môi hóa (quessetéma), các âm vòm miệng được thể hiện bằng dấu mô tả “y theo sau” trong hệ Fëanor (thường là hai dấu chấm đặt dưới chữ), còn Chuỗi IV trở thành chuỗi kw.
Bên cạnh các nguyên tắc tổng quát đó còn thường thấy áp dụng các quy tắc sau: Các ký tự tiêu chuẩn Bậc 1 dùng ghi các “âm tắc vô thanh”: t, p, k v.v. Cung kép có nghĩa là chuyển sang “hữu thanh”: tức là nếu 1, 2, 3, 4 = t, p, ch, k (hoặc t, p, k, kw) thì 5, 6,7, 8 = d, b, j, g (hoặc d, b, g, gw). Thân nhô lên nghĩa là phụ âm mở thêm thành “âm xát”: như vậy cung bậc 1 như trên sẽ có Bậc 3 (9-12) = th, f, sh, ch (hoặc th, f, kh, khw/hw) và Bậc 4 (13-16) = dh, v, zh, gh (hoặc dh, v, gh, ghw/w).
Hệ thống Fëanor ban đầu còn thêm một bậc có thân nhô ra cả trên và dưới dòng kẻ. Bậc này thường được gán cho phụ âm bật hơi (ví dụ t+h, p+h, k+h), nhưng cùng có thể dùng ghi các biến đổi phụ âm khác nếu cần. Bậc này không cần đến cho các ngôn ngữ Kỷ Đệ Tam sử dụng hệ này; nhưng dạng chữ thân dài rất thường được dùng làm cách viết khác cho Bậc 3 và 4 (khu biệt rõ nét hơn với Bậc 1).
Bậc 5 (17-20) thường dùng ghi âm mũi: vì thế 17 và 18 là những ký hiệu phổ biến nhất ghi n và m. Cũng theo quy tắc trình bày trên kia, Bậc 6 đáng lẽ thể hiện âm mũi vô thanh, nhưng vì những âm loại đó (chẳng hạn như nh trong tiếng Wales hay hn trong tiếng Anh cổ) cực kỳ hiếm khi xuất hiện trong các ngôn ngữ nói tới ở đây, Bậc 6 (21-24) phố biến dùng cho các phụ âm yếu nhất hay “bán nguyên âm” trong mỗi chuỗi. Các chữ bậc này có tự dạng nhỏ và đơn giản nhất trong bộ chữ chính. Như thế, 21 thường dùng ghi âm r yếu (không rung), nguyên thủy có trong tiếng Quenya và vẫn được coi là phụ âm yếu nhất chuỗi tincotéma; 22 thường xuyên dùng ghi w; và trong tiếng nào Chuỗi III là chuỗi vòm miệng thì 23 khá thường gặp ghi phụ âm y[4].
Vì một số phụ âm Bậc 4 thường bị yếu đi khi phát âm, và kéo lại hoặc hợp nhất với các âm Bậc 6 (như đã mô tả ở trên), rất nhiều ký tự Bậc 6 không còn đảm nhiệm chức năng rõ ràng nào trong các thứ tiếng Eldar nữa; và các chữ cái thể hiện nguyên âm chủ yếu phái sinh từ bậc này.
Lưu ýChính tả Quenya thông dụng không tuân thủ các quy tắc gán giá trị cho chữ cái mô tả trên đây. Bậc 2 được dùng viết nd, mb, ng, ngw, đều là những âm thường gặp, vì b, g, gw chỉ xuất hiện trong các tổ hợp này, còn rd, ld được ghi bằng các chữ đặc biệt 26 và 28. (Rất nhiều người dùng tiếng Quenya, đặc biệt là Tiên, viết lb thay cho lv, tuy không thay lw: lb viết là 27+6, vì lmb không tồn tại.) Tương tự, Bậc 4 dùng cho các tổ hợp hết sức phổ biến nt, mp, nk, nqu, vì tiếng Quenya không có dh, gh, ghw, còn v đươc gán cho chữ cái 22. Xem danh sách tên chữ cái Quenya ở dưới.
Bộ chữ phụ. Số 27 được dùng phổ quát ghi âm l. Số 25 (vốn là biến dạng của 21) dùng ghi âm rung r “mạnh”. Số 26, 28 là biến dạng của hai chữ này, thường dùng ghi các âm r (rh) và l (lh) vô thanh. Riêng tiếng Quenya dùng ghi rd và ld. 29 ghi s, 31 (râu kép) ghi z trong những tiếng có âm đó. Các dạng đảo ngược 30 và 32 dù vẫn có thể gán cho giá trị riêng, nhưng chủ yếu chỉ dùng làm cách viết khác của 29 và 31 cho thuận tiện, ví dụ khi mang dấu tehtar trên đầu.
Số 33 nguyên thủy là biến dạng của 11, ghi một biến âm yếu hơn; trong Kỷ Đệ Tam thường gặp nhất là h. 34 chủ yếu (nếu có dùng đến) dùng ghi w vô thanh (hw). 35 và 36, nếu dùng ghi phụ âm, chủ yếu là y và w.
Nguyên âm trong rất nhiều phương pháp viết đều biểu thị bằng tehtar, thường đặt trên đầu chữ cái ghi phụ âm. Trong những thứ tiếng chủ yếu kết thúc bằng nguyên âm như Quenya, dấu tehta viết trên phụ âm đi trước; những thứ tiếng chủ yếu kết thúc bằng phụ âm như Sindarin lại viết trên phụ âm đi sau. Nếu ở vị trí cần thiết không có phụ âm, tehta sẽ đặt trên “dấu chở ngắn”, thường có hình như chữ i không có chấm. Số lượng dấu tehta ký hiệu nguyên âm dùng thực tế trong các ngôn ngữ khác nhau có rất nhiều. Các dấu thường gặp nhất, chủ yếu dùng ghi e, i, a, o, u (cùng các biến âm) đều đã gặp trong các ví dụ. Ba dấu chấm, ký hiệu a phổ biến nhất trong cách viết quy phạm, có rất nhiều dạng trong các lối viết tháu, thường thấy là hình dấu mũ[5]. Một chấm và dấu sắc thường dùng biểu thị i và e (nhưng trong nhiều phương pháp viết lại chỉ e và i). Dấu râu ( ̉ ) dùng cho o và u. Trong dòng khắc trên Nhẫn, dấu râu hở về bên phải dùng chỉ u; nhưng trên trang bìa râu hở phải lại là o, còn râu hở trái mới là u. Râu hở phải được ưa chuộng hơn, vả lại cách dùng tùy thuộc vào từng thứ tiếng: trong Ngôn Ngữ Đen, âm o rất ít xuất hiện.
Nguyên âm dài thường thể hiện bằng cách viết tehta trên đầu “dấu chở dài”, thường có hình chữ j không chấm. Còn một cách khác là viết kép dấu tehta. Tuy nhiên cách này thường chỉ dùng cho dấu râu, và đôi khi cho dấu sắc. Hai dấu chấm thường được hiểu là ký hiệu có y theo sau.
Dòng chữ trên cổng Tây minh họa một phương pháp “viết đủ”, các nguyên âm thể hiện bằng chữ cái độc lập. Mọi chữ cái thể hiện nguyên âm trong tiếng Sindarin đều có mặt. Có thể để ý thấy số 30 được dùng ghi nguyên âm y; hơn nữa nguyên âm đôi được biểu thị bằng cách viết dấu tehta chỉ “y theo sau” trên chữ cái ghi nguyên âm. Ký hiệu chỉ w theo sau (dùng khi viết au, aw) trong lối viết này là râu u hoặc biến dạng ~. Nhưng các nguyên âm đôi vẫn thường được viết đầy đủ, như trong phần phiên âm ở dưới. Phương pháp viết này biểu thị nguyên âm dài bằng dấu sắc, khi đó gọi là andaith “dấu dài”.
Ngoài các tehlar vừa kể đến còn có vài dấu khác, chủ yếu dùng viết tắt, nhất là khi gặp các tổ hợp phụ âm thường dùng. Trong đó, dấu gạch ngang ( ˉ ) (hoặc một ký hiệu tương tự dấu tilde ( ˜ ) tiếng Tây Ban Nha) trên đầu phụ âm thường biểu thị đi trước có phụ âm mũi cùng chuỗi (như trong nt, mp, nk); cũng dấu đó viết dưới chữ cái lại thường chỉ phụ âm dài (kép). Dấu móc dưới ( ̡ ) thêm vào cung chữ (như trong hobbits, chữ cuối cùng trên trang bìa) nhằm biểu thị s theo sau, đặc biệt trong các tổ hợp ts, ps, ks (x) thông dụng trong tiếng Quenya.
Dĩ nhiên không có “phương pháp” nào đế viết tiếng Anh. Có thể thiết kế từ hệ Fëanor một phương pháp viết đạt yêu cầu về mặt ngữ âm học. Ví dụ nhỏ trên trang bìa tuy nhiên không nhằm mục đích cung cấp lối viết này. Đúng hơn đấy chỉ là giả định cách viết của một người Gondor do dự giữa giá trị của các chữ quen thuộc trong “phương pháp” gốc, và chính tả truyền thống của tiếng Anh. Cần lưu ý là ở đây, dấu chấm đặt dưới chữ (một trong các công dụng chính là thể hiện các nguyên âm yếu bị nuốt đi) vừa được dùng ghi chữ and không nhấn mạnh, nhưng cũng vừa dùng trong here ghi chữ e câm cuối từ; the, of và of the đều viết tắt (dh nhô ra, v nhô ra, chữ còn lại có gạch dưới).
Tên các chữ cái. Trong mỗi phương pháp viết, mọi chữ cái và ký hiệu đều có tên riêng, đặt ra dựa theo hoặc nhằm mô tả chức năng ngữ âm trong phương pháp đó. Tuy nhiên người ta cũng nhận thấy nhu cầu đặt tên cho từng chữ cái gắn với hình dạng chúng, đặc biệt khi miêu tả chức năng trong các phương pháp khác nhau. Để đáp ứng nhu cầu này, các chữ cái được gọi bằng “tên đủ” tiếng Quenya, kể cả khi tên đó nói về chức năng chỉ tồn tại riêng trong tiếng Quenya. Mỗi “tên đủ” là một từ Quenya chứa chữ cái đó. Thường nó nằm trong âm tiết đầu từ; nhưng nếu không, âm hay tổ hợp âm cần gọi tên sẽ theo ngay sau nguyên âm đầu. Tên các chữ trong bảng lần lượt là: (1) tinco - kim loại, parma - sách, calma - đèn, quesse - lông vũ (2) ando - cổng, umbar - số phận, anga - sắt, ungwe - mạng nhện; (3) thúle (súle) - tinh thần, formen - Bắc, harma - kho báu (hoặc aha điên giận), hwesta - gió nhẹ; (4) anto - miệng, ampa - móc, anca – hàm, unque - lũng; (5) númen - Tây, malta - vàng, noldo (xưa là ngoldo) - người Noldor, nwalme (xưa là ngwalme) - tra tấn; (6) óre - tim (nội tâm), vala - quyền năng thiên sứ, anna - quà tặng, vilya - không khí, bầu trời (xua là wilya); rómen - Đông, arda - xứ sở, lambe - lưỡi, alda - cây; silme - ánh sao, silme nuquerna (s đảo ngược), áre - ánh mặt trời (hoặc esse tên), áre nuquerna; hyarmen - Nam, hwesta sindarinwa, yanta - cầu, úre - sức nóng. Những trường hợp có hai tên là do đặt tên trước khi có biến đổi ngữ âm trong cách nói tiếng Quenya của lớp Tha Hương. Vì thế số 11 có tên harma khi dùng ghi âm xát ch ở mọi vị trí, nhưng khi âm đầu ch biến đổi thành h[6] (dù vẫn là ch khi đúng giữa từ), nó có tên mới là aha. áre ban đầu là áze, nhưng sau khi z hợp nhất với 21, ký hiệu này được dân Quenya chuyển sang dùng ghi âm ss rất thường gặp trong tiếng đó, nên đổi tên là esse. hwesta sindarinwa tức “âm hw trong tiếng Tiên xám”; có tên đó là vì tiếng Quenya đã dùng 12 ghi âm hw, mà lại không cần khu biệt giữa các ký hiệu chỉ chw và hw. Tên các chữ cái được biết đến và sử dụng nhiều nhất là 17 n, 33 hy, 25 r, 10 f: númen, hyarmen, rómen, formen = Tây, Nam, Đông, Bắc (ss. Sindarin dûn hay annûn, harad, rhûn hay amrûn, forod). Những chữ cái này vẫn thường dùng ký hiệu bốn hướng T, N, Đ, B, kể cả trong các ngôn ngữ dùng thuật ngữ khác. Ở miền Tây, các phương được kể theo thứ tự này, bắt đầu từ Tây khi quay mặt về Tây; hyarmen và formen nghĩa đen là phía tay trái và phía tay phải (trái với thứ tự trong rất nhiều ngôn ngữ Con Người).
(ii) Chữ CirthBộ Certhas Daeron ban đầu đặt ra chỉ nhằm biểu thị hệ thống âm vị tiếng Sindarin. Các chữ cirth cổ nhất là số 1, 2, 5, 6; 8, 9, 12; 18, 19, 22; 29, 31; 35, 36; 39, 42, 46, 50; và một chữ certh thay đổi giữa 13 và 15. Các giá trị gán cho chúng đều không theo quy tắc nào. Số 39, 42, 46, 50 là nguyên âm và ổn định trong suốt các thay đổi về sau. Số 13 và 15 được dùng ghi h hoặc s, tùy theo 35 được dùng ghi s hay h. Sự bất quyết trong ký hiệu chỉ s và h vẫn còn lại mãi trong các trật tự sau này. Trong các chữ có “thân” và “nhánh”, từ 1-31, thì nếu nhánh chỉ có một bên, đó thường là bên phải. Trường hợp đảo ngược cũng không thiếu, nhưng không biểu đạt ý nghĩa ngữ âm.
Những bổ sung và phát triển bộ certhas này ở dạng cũ được gọi là Angerthas Daeron, vì tương truyền Daeron là người đã đặt thêm các chữ cirth mới và sắp xếp lại toàn bảng chữ. Tuy thế những bổ sung chủ yếu, tức là hai chuỗi mới hoàn toàn 13-17 và 23-28, chắc hẳn là sáng tạo của dân Noldor ở Eregion thì đúng hơn, vì chúng dùng ký âm những âm không có trong tiếng Sindarin.
Trong thứ tự mới, bảng Angerthas tuân theo một số nguyên tắc (hẳn nhiên là học tập từ hệ thống Fëanor): (1) thêm một nét vào nhánh là chuyển sang “hữu thanh”; (2) lật ngược cả chữ certh là mở thành “âm xát”; (3) nhánh nằm cả hai bên thân là hữu thanh mũi hóa. Ba nguyên tắc này được theo tương đối nhất quán, trừ một điểm. Tiếng Sindarin (cổ) đòi hỏi có ký hiệu cho m xát (hoặc v mũi hóa), và vì thể hiện âm này lý tưởng nhất là lật ngược ký hiệu cho m, nên số 6 không đối xứng đã được dùng ghi m, còn 5 lại dùng ghi hw.
Số 36 theo lý thuyết có giá trị z, thì trong thực tế chính tả Sindarin hoặc Quenya ghi âm ss: so sánh 31 hệ Fëanor. Số 39 được dùng ghi i hoặc y (phụ âm); 34 và 35 đều dùng ghi s không phân biệt; 38 dùng ghi tổ hợp thường gặp nd, dù tự dạng không rõ liên hệ với các âm răng.
Trong Bảng Giá Trị, đứng đầu các cặp nối bằng dấu — là giá trị trong bảng Angerthas cũ. Đứng sau là giá trị trong bảng Angerthas Moria của Người Lùn[7]. Như có thể nhận thấy, Người Lùn ở Moria đã có vài thay đổi bất quy tắc về giá trị và đưa thêm cả ký tự mới: 37, 40, 41, 53, 55, 56. Sự phá vỡ hệ thống về giá trị này chủ yếu là do hai nguyên nhân: (1) giá trị của 34, 35, 54 thay đổi thành h, ʔ (âm đầu zero, tức âm tắc thanh hầu trong các từ bắt đầu bằng nguyên âm có trong tiếng Khuzdul) và s; (2) Người Lùn bỏ không dùng 14, 16 mà thay bằng 29, 30. Nhìn bảng có thể lưu ý thêm việc chuyển sang sử dụng 12 ghi r, tạo mới 53 ghi n (rồi dùng lẫn với 22), dùng 17 ghi z tương ứng với 54 ghi s, kéo theo dùng 36 ghi ŋ và chữ mới 37 ghi ng. Các chữ mới 55, 56 nguyên thủy là 46 cắt đôi, dùng cho hai nguyên âm như trong butter /ˈbʌ.tə/ tiếng Anh, rất thường gặp trong tiếng Người Lùn và Tây ngữ. Khi đọc yếu hoặc lướt, hai chữ này thường chỉ viết gọn thành nét nhánh không có thân. Ví dụ cho hệ Angerthas Moria là phiến đá mộ Balin.
Người Lùn núi Erebor còn thay đổi hệ thống này xa hơn nữa gọi là phương pháp Erebor, ví dụ trong cuốn Sách Mazarbul. Các đặc điểm chính là: 43 ghi âm z; 17 ghi ks (x); hai chữ cirth mới 57, 58 ghi ps và ts. Họ cũng dùng lại 14,16 ghi j, zh, nhưng 29, 30 dùng ghi g, gh hay chỉ làm cách viết khác của 19, 21. Những đặc thù này không được chú thích trong bảng, ngoại trừ hai chữ cirth riêng của Erebor 57, 58.
______________
[1] Mối liên hệ duy nhất dân Eldar có thể nhận ra trong bảng chữ cái của chúng ta là P và B, và vị trí cách xa của hai chữ này, cũng như xa với F, M, V, chắc sẽ khiến họ thấy rất quái lạ.
[2] Có rất nhiều dấu xuất hiện trong ví dụ trên trang bìa lót [nguyên bản tiếng Anh - BT], hay trong dòng khắc chép ở trang I 64, phiên âm ở trang I 327. Chủ yếu chúng dùng diễn tả các nguyên âm, mà tiếng Quenya chỉ coi là cách biến đổi các phụ âm đi kèm; hoặc dùng viết tắt một vài tổ hợp phụ âm thường gặp.
[3] Ký âm ở đây cũng giống như cách phiên âm đã miêu tả bên trên, ngoại trừ ch được dùng viết âm ch trong church /t͡ʃɜː t͡ʃ/, j viết âm j /dʒ/ và âm zh trong azure, occasion /ˈæʒʊə; əˈkeɪʒən/ tiếng Anh.
[4] Dòng chữ trên Cổng Tây Moria là ví dụ về phương pháp viết cho chính tả Sindarin, trong đó Bậc 6 để ghi âm mũi đơn giản, nhưng Bậc 5 ghi âm mũi dài hay kép rất thường gặp trong tiếng Sindarin: 17 = nn, nhưng 21 = n.
[5] Trong tiếng Quenya có a xuất hiện tần số dày đặc, người ta thường bỏ cả kí hiệu này. Vì thế calma “đèn” có thể chỉ cần viết là clm. Chữ này hiển nhiên đọc là calma, vì tổ hợp cl không bao giờ phân bố ở vị trí đầu, và m cũng không đứng cuối. Còn có một phương án đọc khác là calama, nhưng chữ này không tồn tại.
[6] Âm h vô thanh nguyên thuỷ được ghi trong tiếng Quenya bằng một thân chữ nhô lên không mang cung, gọi là halla “cao”. Ký tự này có thể đi trước phụ âm để biểu thị đó là âm vô thanh; các âm r và l vô thanh vẫn thường được gọi, và phiên âm là hr, hl. Sau này 33 được dùng ghi h độc lập, còn giá trị lúc trước là hy thì thể hiện bằng cách thêm dấu tehta chỉ y theo sau.
[7] Trong ngoặc đơn là giá trị chỉ dùng trong tiếng Tiên; * là chữ cirth chỉ dùng trong tiếng Người Lùn.
CHỮ TENGWAR BẢNG ANGERTHAS Giá trị