← Quay lại trang sách

PHỤ LỤC F I-CÁC NGÔN NGỮ-VÀ TỘC DÂN KỶ ĐỆ TAM

Ngôn ngữ được thể hiện bằng tiếng Anh trong cuốn sử này là Tây ngữ tức “Ngôn Ngữ Chung” ở miền Tây Trung Địa vào Kỷ Đệ Tam. Cho tới cuối kỷ nguyên đó, đây đã trở thành tiếng mẹ đẻ của gần như mọi giống dân biết nói (trừ dân Tiên) sống trong phạm vi các vương quốc cổ Arnor và Gondor; nghĩa là suốt dọc bờ biển từ Umbar trở lên Bắc cho tới mãi Vịnh Forochel, và đổ vào đất liền đến tận Dãy Núi Mù Sương và dãy Ephel Dúath. Nó cũng lan rộng lên phía Bắc ngược dòng Anduin, phổ biến trong miền đất giữa Sông Cả và dãy núi cho đến tận Đồng Diên Vĩ.

Vào thời điểm xảy ra Nhẫn Chiến đánh dấu đoạn kết kỷ nguyên này, đấy vẫn là phạm vi vùng đất dùng Tây ngữ làm tiếng mẹ đẻ, dù giờ Eriador đã nhiều phần bị bỏ hoang và chỉ còn rất ít Người sống bên bờ Anduin giữa sông Diên Vĩ và thác Rauros.

Một số ít Người Hoang cổ đại vẫn còn ẩn núp trong Rừng Drúadan ở Anórien; và trên các đồi vùng Dunland còn sót lại tàn dư một dân tộc cổ, xưa từng sinh sống ở hầu khắp Gondor. Những giống người này bảo tồn ngôn ngữ gốc của mình; trong khi đồng cỏ Rohan nay trở thành quê nhà một tộc người miền Bắc, người Rohirrim, tới đây định cư vào khoảng năm trăm năm tmớc. Nhưng Tây ngữ vẫn được dùng làm ngôn ngữ thứ hai để giao lưu giữa những tộc người giữ tiếng gốc, kể cả người Tiên, không chỉ ở Arnor và Gondor mà qua khắp các thung lũng sông Anduin và trải về Đông tới bìa rừng Âm U. Ngay trong số Người Hoang và người Dunlending vốn lánh mặt các dân tộc khác cũng có nhiều người dùng được tiếng đó, dù chỉ lõm bõm.

Về người Tiên

Người Tiên từ sâu xa trong thời Cựu Niên đã phân làm hai nhánh chính: người Tiên Tây (tức Eldar) và Tiên Đông. Loại thứ hai chiếm đa số trong các đất nước Tiên ở rừng Âm U và Lórien; nhưng ngôn ngữ của họ không xuất hiện trong cuốn sử này, mà tất cả tên riêng và từ ngữ Tiên đều dùng dạng Eldarin[1].

Trong số các thứ tiếng Eldarin, cuốn sách này trình bày hai loại: tiếng Thượng Tiên, hay Quenya, và tiếng Tiên Xám, hay Sindarin. Tiếng Thượng Tiên là một ngôn ngữ cổ đại ở Eldamar bên kia Đại Dương, ngôn ngữ đầu tiên được ghi lại bằng chữ viết. Bây giờ nó không còn được tộc dân nào dùng làm ngôn ngữ tự nhiên nữa, mà thực tế đã trở thành một thứ “tiếng La tinh của Tiên”, vẫn dùng trong các dịp lễ trọng hoặc cho các nội dung cao quý trong tích truyện và thơ ca trong số người Thượng Tiên tha hương đã trở lại Trung Địa vào cuối Kỷ Đệ Nhất.

Tiếng Tiên Xám về gốc gác có họ với Quenya, vì đó là ngôn ngữ của nhóm Eldar khi tới bờ Trung Địa thì không vượt Đại Dương mà ở lại bên bờ biển trong vùng đất gọi là Beleriand. Thingol Áo Choàng Xám vương quốc Doriath lên cai trị họ, và trong bóng tà dài lâu, ngôn ngữ họ đã biến đổi cùng với miền đất phàm trần ưa đổi thay, trở nên vô cùng xa lạ với tiếng nói của nòi Eldar bên kia Đại Dương.

Lớp Tha Hương khi đến sống giữa các Tiên Xám đông đảo hơn đã học lấy tiếng Sindarin cho việc sinh hoạt hàng ngày; vì thế đấy là tiếng nói của mọi dân Tiên và chúa Tiên xuất hiện trong cuốn sử này. Vì tất cả họ đều thuộc tộc Eldar, kể cả dù chúng dân thần tử của họ là những nòi Tiên thấp kém hơn. Cao quý hơn tất thảy là Phu Nhân Galadriel thuộc hoàng gia, con gái Finarfin và em gái Finrod Felagund, Vua Nargothrond. Trong trái tim dân Tha Hương, nỗi khao khát Đại Dương vẫn hằng thôi thúc chẳng lúc nào lặng đi; trong trái tim Tiên Xám thì ngủ yên, nhưng một khi bị đánh thức rồi sẽ chẳng bao giờ nguôi dịu.

______________

[1] Dân Lórien thời điểm này nói tiếng Sindarin dù có pha “thổ âm”, vì phần lớn cư dân đều có gốc gác Lâm Tiên. Chính thổ âm này và bản thân kiến thức tiếng Sindarin hạn chế của ông đã khiến Frodo nhầm lẫn (như một nhà bình chú Gondor trong Cuốn Sách Thain đã nhận xét). Mọi từ ngữ Tiên trích trong Quyển Hai các chương 6, 7, 8 thực tế đều là tiếng Sindarin; phần lớn tên người và địa danh cũng vậy. Nhưng Lórien, Caras Galadhon, Amroth, Nimrodel nhiều khả năng là có gốc Lâm Tiên, đã được đồng hóa vào tiếng Sindarin.

Về Con Người

Tây ngữ là một thứ tiếng Người, dù đã được bổ sung phong phú và trở thành êm dịu hơn nhờ ảnh hưởng Tiên, về nguyên thủy đấy là thứ tiếng của những người mà dân Eldar gọi là Atani hay Edain, “Tổ Phụ Con Người”, đặc biệt là nòi giống thuộc Ba Gia Tộc các Bạn Tiên đã đi về miền Tây tới Beleriand vào Kỷ Đệ Nhất, rồi trợ giúp tộc Eldar trong cuộc Đại Ngọc Chiến chống lại Thế Lực Hắc Ám phương Bắc.

Sau khi lật nhào Thế Lực Hắc Ám, với hậu quả là phần lớn Belenand bị vỡ nát hoặc chìm xuống biển, các Bạn Tiên được ban cho phần thưởng là cả họ, cũng như dân Eldar, có thể qua Đại Dương về phương Tây. Nhưng vì Vương Quốc Bất Tử là cấm địa đối với họ, họ được dành riêng một hòn đảo lớn, ở gần Tây nhất so với mọi cõi người phàm. Hòn đảo đó tên là Númenor (Tây Châu). Từ sau đó hầu hết các Bạn Tiên nhổ neo vượt biển tới sống ở Númenor, rồi trở thành hùng mạnh và vĩ đại, những nhà hàng hải tài ba làm chủ những đội thuyền lớn. Gương mặt đẹp đẽ, vóc người cao lớn, họ có tuổi thọ dài tới ba lần Con Người ở Trung Địa. Họ là người Númenor, Các Vua Con Người, còn dân Tiên gọi họ là Dúnedain.

Chỉ riêng Dúnedain trong số các tộc Người biết và sử dụng một thứ tiếng Tiên; vì tổ tiên của họ đã học tiếng Sindarin, rồi truyền lại cho con cháu như là một phần học vấn, không thay đổi mấy dù thời gian có trôi qua. Và những nhà thông thái trong số họ cũng học cả tiếng Thượng Tiên Quenya, sùng kính nó hơn mọi ngôn ngữ khác, dùng nó đặt tên cho rất nhiều danh lam hay thánh địa, nhiều nhân vật lừng lẫy hay cao sang[1].

Nhưng ngôn ngữ mẹ đẻ của người Númenor chủ yếu vẫn là tiếng Người của tổ tiên họ ngày xưa, tiếng Adûnaic, và trong thời kỳ tự tôn về sau các vua chúa đảo quốc đã trở lại dùng tiếng ấy mà từ bỏ tiếng Tiên, chỉ trừ số người ít ỏi còn kiên trì tình bạn xa xưa với dân Eldar. Vào thời kỳ quyền lực, người Númenor đã thiết lập rất nhiều đồn lũy và cảng bên bờ biển Tây Trung Địa để tiện cho tàu bè đi lại, một trong những nơi đó là Pelargir gần Cửa Sông Anduin. Ở đó người ta nói tiếng Adûnaic, và sau khi trộn thêm nhiều từ ngữ lấy từ tiếng các tộc người thấp kém hơn, nó đã trở thành Ngôn Ngữ Chung, rồi tỏa đi từ đó dọc bờ biển trong khắp những giống dân có qua lại giao thương với Tây Châu.

Sau khi Númenor sụp đổ, Elendil dẫn số Bạn Tiên còn sống sót quay lại vùng bờ biển Tây Bắc Trung Địa. Ở đó đã có nhiều người sinh sống, là dân Númenor thuần huyết hay một phần, nhưng trong số họ rất ít người còn nhớ tiếng Tiên. Như vậy ban đầu tổng số dân Dúnedain ít ỏi hơn nhiều dân số các tộc người thấp kém mà họ tới sống cùng và trở thành người cai trị, vì là những vị chúa có tuổi thọ dài lâu và uy quyền cùng trí thông thái hơn người. Vì thế họ dùng Ngôn Ngữ Chung cho nhu cầu giao tiếp với các giống dân khác và quản lý các vương quốc mênh mông trong tay, nhưng đã mở rộng thứ tiếng ấy cho phong phú bằng rất nhiều từ ngữ bắt nguồn từ tiếng tiên.

Vào thời các vua Númenor, thứ Tây ngữ được bồi bổ ấy đã lan xa rộng, kể cả trong số kẻ thù của họ; và bản thân người Dúnedain cũng ngày càng sử dụng nó nhiều hơn, đến nỗi tới thời cuộc Nhẫn Chiến, tiếng tiên chỉ còn được biết trong một bộ phận nhỏ dân cư Gondor, số người sử dụng thường ngày còn ít hơn nữa. Những người này chủ yếu sống ở Minas Tirith và các trang trại phụ cận, hoặc trong vùng đất chư hầu thuộc quyền các lãnh chúa Dol Amroth. Vậy nhưng phần lớn địa danh và tên người trong lãnh thổ Gondor lại có hình thức và ý nghĩa tiếng Tiên. Một số đã bị quên mất nguồn gốc, và hẳn có từ trước cả thời người Númenor đóng thuyền vượt Đại Dương; trong đó có Umbar, Arnach và Erech; và cả các tên núi Eilenach, Rimmon cùng vậy. Forlong cũng là một tên thuộc loại này.

Phần lớn Con Người các vùng Bắc miền Tây đều là hậu duệ của ba gia tộc Edain từ Kỷ Đệ Nhất, hoặc nếu không cũng là họ hàng gần. Vì thế ngôn ngữ họ dùng có họ với tiếng Adûnaic, và một vài thứ tiếng vẫn còn từa tựa Ngôn Ngữ Chung. Thuộc loại này có cư dân các thung lũng thượng nguồn Anduin: con cái Beorn, Người Rừng sống phía Tây rừng Âm U; về phía Bắc và Đông còn có Con Người ở Hồ Dài và thành bang Thung Lũng. Từ miền đất giữa sông Diên Vĩ và hòn Carrock sinh sôi tộc người ở Gondor gọi là Rohirrim, các Chúa Ngựa. Họ vẫn còn dùng ngôn ngữ tổ tiên, đặt tên bằng tiếng ấy cho gần như mọi nơi trên đất nước mới; và họ tự xưng là Eorling, hay là Con Người đất Riddermark. Nhưng các vị chúa của tộc dân này dùng Ngôn Ngữ Chung lưu loát, và nói bằng lối nói đường bệ học của các đồng minh Gondor; vì ở Gondor, nơi phát tích của nó, Tây ngữ vẫn còn khoác phong cách cổ giả và trang nhã.

Xa lạ hoàn toàn là tiếng nói của Người Hoang trong Rừng Drúadan. Cũng xa lạ hay chỉ liên quan rất ít là ngôn ngữ của dân Dunlending. Họ là tàn dư những bộ tộc từng sống trong các thung lũng vách Dãy Núi Trắng từ thời thượng cổ. Những Người Chết ở Dunharg thuộc về dòng giống họ thời xa xưa. Nhưng vào Những Năm Đen Tối, đã có nhiều người khác chuyển tới sống ở các thung Nam Dãy Núi Mù Sương; rồi từ đó một số lại đi tới các vùng đất không người đến tận vệt đồi Mộ Đá phía Bắc. Họ là cha ông Con Người ở Bree; nhưng từ lâu lắm người làng đó đã trở thành thần dân Vương Quốc Bắc Arnor và học dùng tiếng Tây ngữ. Chỉ riêng ở Dunland là giống người này còn bám lấy thứ tiếng và thói tục xưa: một giống dân kín đáo, chẳng thân mật với người Dúnedain và căm hận người Rohirrim.

Về ngôn ngữ của họ cuốn sách này không ghi lại gì cả, ngoại trừ cái tên Forgoil đặt cho người Rohirrim (được cho biết nghĩa là Tóc Rơm). Dunland và Dunlending là tên người Rohirrim đặt cho họ, vì họ da ngăm và tóc đen; nghĩa là không có liên hệ gì giữa chữ dunn trong các tên đó và từ Dûn, “phương Tây” trong tiếng Tiên.

______________

[1] Chẳng hạn các tên sau là tiếng Quenya: Númenor (dạng đủ là Númenóre). Elendil, Isildur, Anárion, tất cả các tên hoàng tộc ở Gondor, Gồm cả Elessar “Ngọc Tiên”. Phần lớn các tên nam hoặc nữ người Dúnedain khác như Aragorn, Denethor, Gilraen đều là dạng Sindarin, chủ yếu dựa theo tên Tiên hoặc Người còn chép lại trong thơ ca và truyện sử Kỷ Đệ Nhất (như Beren, Húrin). Vài tên khác thì trộn lẫn hai thể, như Boromir.

Về Hobbit

Dân Hobbit ở Quận và ở Bree tại thời điểm này dùng thuần Ngôn Ngữ Chung, có lẽ đã được cả nghìn năm. Họ nói theo cách riêng của mình, tự nhiên và khá tùy tiện; dù những người có học trong số họ vẫn dùng thuần thục cách nói lễ độ khi hoàn cảnh yêu cầu.

Không thấy có ghi chép ở đâu về một thứ ngôn ngữ riêng của dân Hobbit cả. Có vẻ từ thời thượng cổ họ đã dùng các ngôn ngữ Con Người nơi họ sống gần, hoặc sống chung. Vì thế họ nhanh chóng học lấy Ngôn Ngữ Chung sau khi đổ vào Eriador, và tới thời điểm định cư ở Bree đã bắt đầu quên thứ tiếng dùng trước đó. Đấy hiển nhiên là một thứ tiếng Người ở thượng lưu sông Anduin, gần gũi với tiếng người Rohirrim, dù dân Đại Cồ miền Nam dường như đã học cả ngôn ngữ có họ với Dunland trước khi ngược về Bắc đến Quận[1].

Những đặc điểm đó tới thời Frodo vẫn còn để lại chút ít vết tích trong các từ ngữ và tên riêng địa phương, nhiều từ rất sát với các ví dụ bắt gặp ở thành bang Thung Lũng hoặc Rohan. Đáng chú ý nhất là tên các ngày, tháng và mùa; còn có vài từ khác thuộc loại đó (như mathom và smial) vẫn được sử dụng rộng rãi, và còn nhiều nữa được lưu giữ trong các địa danh ở Bree và ở Quận. Tên riêng của dân Hobbit cũng lạ lùng, nhiều tên truyền lại từ thời thái cổ.

Hobbit là chữ thường dùng của dân Quận gọi tất cả người giống mình. Con Người thì gọi họ là người Tí Hon, còn Tiên gọi là Periannath. Nguồn gốc chữ hobbit không còn nhớ được. Tuy nhiên có khả năng ban đầu đấy là tên đặt cho chi Chân Tơ, theo cách gọi của Đại Cồ và Bì Bợt, và là biến dạng của một từ còn được giữ tương đối nguyên vẹn ở Rohan: holbytla “dân xây hốc”.

______________

[1] Dân Đại Cồ ở Mũi Đất, mà sau này trở về Vùng Đất Hoang, đã học xong Ngôn Ngữ Chung; nhưng Déagol và Sméagol lại là tên bằng tiếng Người ở vùng đất gần sông Diên Vĩ.

Về các tộc dân khác

Ent. Giống dân lâu đời nhất sống qua Kỷ Đệ Tam là người Onodrim hay Enyd. Ent là tên họ trong ngôn ngữ Rohan. Họ đã được dân Eldar biết đến từ thời xa xưa lắm, và quả thật người Ent tự cho mình mang nợ dân Eldar không chỉ ngôn ngữ của mình, mà cả niềm ham muốn được nói. Thứ ngôn ngữ họ nghĩ ra hoàn toàn không giống bất kỳ đâu: vừa chậm rãi, vừa âm vang, vừa tích hợp, vừa trùng lặp, hết sức dài dòng; cấu tạo từ cả ức triệu các âm sắc nguyên âm và dị biệt vi tế trong ngữ điệu và tính chất, đến nỗi ngay những bậc thầy tích truyện nòi Eldar cũng chưa từng liều thử dùng chữ viết ghi lại. Họ chỉ dùng ngôn ngữ đó nói chuyện với người mình; nhưng họ cũng chẳng cần giữ bí mật, vì chẳng ai khác học nổi thứ tiếng ấy.

Tuy nhiên bản thân người Ent rất thông thạo ngôn ngữ, học cũng nhanh và chẳng bao giờ quên điều gì. Nhưng họ ưa dùng các thứ tiếng Eldar, và thích hơn cả là tiếng Thượng Tiên thời cổ. Những từ ngữ và tên riêng kỳ lạ mà người Hobbit chép lại từ lời nói của Cây Râu và các Ent khác, vì thế, là tiếng Tiên, hoặc là những đoạn ngôn từ Tiên xâu chuỗi lại theo kiểu Ent[1]. Một vài từ là tiếng Quenya: như Taurelilómëa-tumbalemorna Tumbaletaurëa Lómëanor, tạm giải nghĩa là “Rừngnhiềubóng-sâulũngđen Sâulũngrừng Uámđất”, có thể hiểu ý Cây Râu đại khái là: “có một bóng tối đen nằm trong những lũng sâu trong rừng”. Một số thì là tiếng Sindarin: như Fangorn “râu-(của)-cây”, hoặc Fimbrethil “mảnh mai-cây sồi”.

Orc và Ngôn Ngữ Đen. Orc là cái tên các giống dân khác đặt cho giống dân xấu xa này, dạng dùng trong tiếng Rohan. Dạng tiếng Sindarin là orch. Hiển nhiên chữ uruk trong Ngôn Ngữ Đen cũng có liên quan, dù chữ này chỉ dùng gọi loài Orc chiến binh lớn xuất quân khỏi Mordor và Isengard vào thời điểm này. Các loại thấp kém hơn thì gọi là snaga “nô lệ”, đặc biệt từ miệng bọn Uruk-hai.

Bọn Orc được sinh ra lần đầu dưới tay Thế Lực Hắc Ám phương Bắc vào thời Cựu Niên. Nghe nói chúng không có ngôn ngữ riêng, chỉ nhặt nhạnh những gì có thể từ ngôn ngữ khác rồi bóp méo tùy sở thích; chúng chỉ đặt ra những đặc ngữ tàn bạo, chẳng đủ phục vụ nhu cầu của chính chúng, trừ nhu cầu chửi bới và lăng mạ. Loài sinh vật ấy, với bản chất hiểm độc và căm ghét chính giống loài mình, nhanh chóng rơi vào chia rẽ: có bao nhiêu nhóm hay cụm dân cư giữa chúng thì có bấy nhiêu thứ phương ngữ cục cằn, khiến tiếng Orc chẳng mấy có ích khi cần liên lạc giữa các bộ tộc Orc.

Vậy là đến Kỷ Đệ Tam, các loài Orc khác nhau nói chuyện với nhau bằng Tây ngữ; và quả thật trong số các bộ lạc xưa hơn, nay vẫn còn lưu lại trên miền Bắc và Dãy Núi Mù Sương, rất nhiều giống từ lâu đã dùng Tây ngữ làm tiếng mẹ đẻ, dù nhờ vào cách nói năng của chúng nghe vẫn thô bỉ chẳng thua tiếng Orc. Trong đặc ngữ ấy có tark “người Gondor”, biến dạng từ tarkil, một từ Quenya dùng trong Tây ngữ chỉ người thuộc dòng dõi Númenor.

Nghe nói Ngôn Ngữ Đen do Sauron đặt ra vào Những Năm Đen Tối, hòng đề ra một thứ tiếng chung cho tất cả đám bề tôi, nhưng mục đích này không thành. Tuy thế chính từ Ngôn Ngữ Đen đã rút ra nhiều từ vay mượn phổ biến rộng trong các Orc Kỷ Đệ Tam, ví như ghâsh “lửa”, nhưng sau khi Sauron bị lật đổ lần thứ nhất, thứ tiếng này ở dạng tối cổ đã bị quên hết, trừ đám Nazgûl là nhớ. Khi Sauron trỗi dậy trở lại, lần nữa nó lại trở thành ngôn ngữ chính thức ở Barad-dûr và trong số đám đầu lĩnh Mordor. Dòng khắc trên Nhẫn Chúa chính là bằng Ngôn Ngữ Đen tối cổ; câu chửi rủa của tên Orc Mordor còn dùng ở dạng đê hạ hơn nữa trong số lính tòa Tháp Tối do Grishnákh chỉ huy. Sharkû trong thứ tiếng đó có nghĩa là ông già.

Quỷ khổng lồ. Chữ quỷ khổng lồ dùng để dịch chữ Sindarin Torog. Nguyên thủy từ trong thời bóng tà thuở Cựu Niên, đấy là những sinh vật xuẩn ngốc đần độn, hiểu biết ngôn ngữ không hơn gì thú vật. Nhưng Sauron đã dùng đến chúng, dạy cho chúng chừng ít ỏi nào chúng học được, và tiêm thêm cho chúng trí khôn nhờ thói quay quắt. Vì thế lũ quỷ khổng lồ học nói theo khả năng của chúng từ lũ Orc, và ở miền Tây lũ Quỷ đá nói thứ Ngôn Ngữ Chung đã bị méo mó nhiều.

Nhưng tới cuối Kỷ Đệ Tam xuất hiện một giống quỷ chưa từng thấy ở mạn Nam rừng Âm U và trên các dãy núi bao Mordor. Olog-hai là tên chúng bằng Ngôn Ngữ Đen. Việc chúng là do Sauron sinh ra thì không còn phải bàn cãi, nhưng từ thứ nguyên liệu nào không ai biết. Nhiều người cho rằng chúng vốn chẳng phải Quỷ khổng lồ mà là Orc ngoại cỡ: nhưng bọn Olog-hai cả về hình thù cơ thể lẫn trí óc đều khác hẳn ngay đến cả loài Orc to nhất, hơn chúng gấp nhiều lần cả về kích cỡ và sức mạnh. Chúng là quỷ khổng lồ, nhưng lại chứa đầy ý chí tàn ác của tên chủ nhân; một giống dân hung hãn, khỏe như voi, nhanh nhẹn, dữ tợn và xảo quyệt, nhưng còn rắn hơn đá. Khác hẳn giống quỷ cổ thời Bóng Tà chúng chịu được Mặt Trời, chừng nào còn được ý chí Sauron điều khiển. Chúng nói ít, và dùng thứ tiếng duy nhất là Ngôn Ngữ Đen của Barad-dûr.

Người Lùn. Người Lùn là một giống dân chẳng giống ai. Về nguồn gốc lạ lùng của họ, về lý do vì sao họ vừa giống lại vừa khác cả Tiên lẫn Con Người, trong Huyền sử Silmaril có kể; nhưng câu chuyện đó những nòi Tiên thấp kém hơn ở Trung Địa không biết tới, còn Con Người sau này thì nhớ lẫn lộn với ký ức về các chủng tộc khác.

Họ là một giống người phần đông cương cường nhưng cục mịch, kín đáo, cần cù, có trí nhớ dai về mỗi hành động sai quấy (hay ích lợi), yêu chuộng đá cứng và ngọc quý, yêu những vật thành hình trong tay thợ khéo hơn là những vật sống tự nhiên nhi nhiên. Nhưng bản chất họ không phải ác, và rất ít người tự nguyện phục vụ Kẻ Thù, trái với các câu chuyện của Con Người ám chỉ nọ kia. Vì Con Người thời xưa thèm khát tiền tài cũng như sản phẩm tạo tác của họ, và cả hai bên đã từng thù hằn rất lâu.

Nhưng tới Kỷ Đệ Tam, tình bạn khăng khít vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi giữa hai nòi giống; hơn nữa thói quen của Người Lùn, trong khi lưu lạc và lao động cùng giao thương khắp các miền đất như họ vẫn sống từ sau khi dinh thự tổ tông bị hủy diệt, là học dùng ngôn ngữ của Con Người nơi họ sống. Nhưng khi bí mật (và bí mật này, trái với Tiên, họ không sẵn lòng tiết lộ, kể cả với bạn bè), họ dùng thứ ngôn ngữ riêng rất kỳ lạ: hầu như không biến đổi qua các năm, vì đã trở thành ngôn ngữ học vấn chứ không phải là lời nói tự nhiên; được họ chăm chút canh phòng như một báu vật từ quá khứ. Rất ít người tộc khác từng học được. Trong cuốn sử này, thứ tiếng ấy chỉ xuất hiện trong những tên địa danh Gimli nói lộ cho các bạn đồng hành; và trong lời hô xung trận của ông trong cuộc vây Lũy Tù Và. Ít nhất câu đó thì không bí mật, và đã nghe vang lên trên rất nhiều chiến trường từ khi thế giới còn non trẻ. Baruk Khazâd! Khazâd ai-mênu! “(Hỡi) Rìu của Người Lùn! Người Lùn đang ập đến ngươi!”

Nhưng còn tên của Gimli, cũng như mọi đồng bào ông, thì đều có gốc miền Bắc (tiếng Người). Họ còn có tên bí mật, tên “nội danh”, tên thật mà Người Lùn không bao giờ tiết lộ cho bất kỳ ai giống dân khác. Cả trên mộ họ cũng không khắc tên này.

______________

[1] Trừ những thán từ ngắn có vẻ là do người Hobbit tìm cách ghi lại tiếng lẩm bẩm hay hô gọi của người Ent; a-lalla-lalla-rumba-kamanda-lindor-burúme cũng không phải tiếng Tiên, và là ví dụ duy nhất (chắc hẳn vô cùng thiếu chính xác) cố gắng thể hiện một cụm tiếng Ent thực sự.

II VỀ VẤN ĐỀ DỊCH THUẬT

Khi trình bày nội dung cuốn Sách Đỏ thành một bộ sử cho người thời nay đọc, toàn bộ bối cảnh ngôn ngữ đã được cố gắng chuyển dịch sang tương quan với thời đại ta. Chỉ các thứ tiếng không liên quan tới Ngôn Ngữ Chung là để lại trong các dạng nguyên thủy, nhưng chủ yếu cũng chỉ xuất hiện trong tên người và địa danh.

Ngôn Ngữ Chung, vì là ngôn ngữ của dân Hobbit và được dùng trong bản kể của họ, đương nhiên được chuyển thành tiếng Anh hiện đại. Trong quá trình ấy, những dị biệt giữa các tiểu loại vốn khá rõ nét trong cách dùng Tây ngữ đã bị nhạt bớt. Văn bản đã cố gắng phản ánh sự khác biệt bằng cách dùng nhiều phong cách nói khác nhau trong tiếng Anh; nhưng khác biệt giữa phát âm và đặc ngữ dùng ở Quận so với thứ Tây ngữ nói ra từ miệng dân Tiên hay giới quý tộc Gondor còn lớn hơn rất nhiều cuốn này cho thấy. Thực tế là dân Hobbit chủ yếu dùng một thứ thổ ngữ quê mùa, còn ở Gondor và Rohan dùng ngôn ngữ cổ kính hơn, quy phạm và ngắn gọn hơn rất nhiều.

Có một điểm dị biệt cần ghi chú riêng ở đây, vì dù rất quan trọng nhưng lại không có cách nào thể hiện trên văn bản. Tây ngữ có một đặc trưng là, các đại từ ngôi thứ hai (và đôi khi cả ngôi thứ ba) có sự khu biệt giữa thể “thân mật” và thể “kính ngữ”, không liên quan đến số. Tuy thế ở Quận, các dạng kính ngữ từ lâu không còn sử dụng trong lời ăn tiếng nói thường ngày. Các đại từ ở thể này chỉ còn lại với những người làng, đặc biệt ở Tổng Tây, dùng làm từ trìu mến. Đấy là một trong những điểm người Gondor thường nêu ra khi bình phẩm về lối nói lạ lùng của Hobbit: chẳng hạn như Peregrin Took trong vài ngày mới đến Minas Tirith dùng đại từ thân mật gọi tất cả mọi người thuộc mọi cấp bậc, kể cả chính Chúa Denethor. Vị Quốc Quản già có lẽ thấy buồn cười, nhưng các người hầu hẳn đã rất kinh ngạc. Hiển nhiên chính việc dùng cách gọi thân mật quá thoải mái đã góp phần củng cố tin đồn rằng Peregrin là một người quyền cao chức trọng ở quê hương[1].

Có thể nhận thấy rằng một vài Hobbit như Frodo, hoặc một số nhân vật khác như Gandalf và Aragorn, không phải lúc nào cũng giữ nguyên phong cách nói. Điều này là có chủ ý. Những người có học và năng khiếu trong số Hobbit có biết chút ít “ngôn ngữ sách vở” như ở Quận gọi; họ để ý rất nhanh và bắt chước lối nói của những người mình gặp. Ngoài ra điều tự nhiên với những người hay xê dịch là chuyển sang nói chuyện ít nhiều giống như đối phương đang tiếp xúc, đặc biệt với những ai lúc nào cũng khổ sở che giấu xuất thân và dự định của mình như Aragorn. Nhưng thời đó tất cả mọi kẻ thù của Kẻ Thù đều tôn kính những di sản cổ xưa, về ngôn ngữ hay cả những điều khác, và tán thưởng chúng tùy theo trình độ. Dân Eldar xảo diệu ngôn từ hơn hết thảy, nắm vững rất nhiều phong cách, dù họ nói năng tự nhiên nhất bằng thứ Tây ngữ gần với ngôn ngữ gốc của mình, còn cổ điển hơn cả cách nói ở Gondor. Người Lùn cũng là một giống dân giỏi ăn nói, dễ hòa đồng cùng đối tượng chuyện trò, dù giọng họ nghe có phần thô gắt và nhiều âm hầu. Nhưng còn bọn Orc và Quỷ khổng lồ thì nói năng bừa bãi, chẳng hề yêu mến cả chữ nghĩa cũng như sự vật; phát ngôn của chúng thực tế còn đồi bại và bẩn thỉu hơn cả tôi thể hiện ở đây nữa. Tôi không cho là sẽ có nhiều người mong được biết diễn đạt chính xác hơn là như thế nào, dù các ví dụ mẫu cũng không thiếu, vẫn có thể nghe cách ăn nói không khác mấy ở cửa miệng những kẻ có tâm hồn Orc: nhạt nhẽo, trùng lặp, chứa đầy hận thù khinh bỉ, cách xa cái thiện quá lâu đến chẳng còn giữ được cả khí lực trong lời lẽ, trừ trong tai những kẻ chỉ coi tục tằn mới là mạnh mẽ.

Cách thức dịch này là chuyện tất yếu và bất khả kháng trong mọi văn bản nói về thời quá khứ. Người dịch ít khi đi xa hơn nữa. Nhưng tôi đã làm nhiều hơn thế. Tôi đã dịch cả những tên bằng Tây ngữ theo nghĩa của từ. Ở đầu trong cuốn sách này xuất hiện tên hoặc tước hiệu bằng tiếng Anh, ở đó cần hiểu là các tên bằng Ngôn Ngữ Chung đã thịnh hành vào thời ấy, song song với hoặc thay thế cho các tên bằng ngôn ngữ khác (thường là tiếng Tiên).

Các tên bằng Tây ngữ nói chung đều là cách dịch từ các tên xưa hơn: như Thung Đáy Khe, Nguồn Xám, Mạch Bạc, Cát Dài, Kẻ Thù, Tháp Tối. Một số tên có thay đổi về nghĩa: như Đỉnh Định Mệnh thay cho Orodruin “ngọn núi bốc cháy”, hay rừng Âm U thay Taur e-Ndaedelos “rừng nỗi sợ kinh hoàng”. Một số khác lại do tên Tiên biến dạng thành: như Lune và Bia Rum Đun xuất phát từ Lhûn và Baranduin.

Thao tác này có lẽ cần được bào chữa đôi chút. Tôi có cảm giác rằng để lại tất cả mọi tên như nguyên văn sẽ làm lu mờ một trong những đặc trưng cốt yếu thời kỳ đó, theo cách tri nhận của dân Hobbit (là điểm nhìn tôi cố gắng bảo lưu nhất ở đây): sự đối lập giữa một ngôn ngữ phổ thông, mà họ thấy bình thường và thân quen y như tiếng Anh với chúng ta, và chứng tích còn sống từ những thứ tiếng cổ xưa đáng tôn kính hơn nhiều. Nếu chỉ đơn giản làm việc phiên âm tất cả các tên, thì người đọc hiện đại sẽ thấy cả hai xa lạ ngang nhau: ví dụ nếu tên Tiên Imladris và cách dịch sang Tây ngữ Karningul đều để nguyên trong văn bản. Nhưng gọi Thung Đáy Khe là Imladris thì cũng như ngày nay gọi Winchester là Camelot, ngoại trừ vị trí là chính xác, hơn nữa ở Thung Đáy Khe vẫn còn cư ngụ một vị chúa danh tiếng, lâu đời vượt xa vua Arthur - giả sử ngài vẫn còn trị vì tại Winchester ngày nay.

Tên của Quận (Sûza) và mọi địa danh Hobhit khác vì thế đã được Anh hóa. Hầu hết các trường hợp không khó lắm, vì những tên ấy cũng thường cấu tạo từ những yếu tố như trong các địa danh thuộc loại đơn giản trong tiếng Anh; hoặc là những từ còn thông dụng như hill [đồi] hay field [đồng], có thể giản lược đôi chút như ton so với town [thị trấn]. Nhưng vài yếu tố, như đã lưu ý, lại xuất phát từ những từ Hobbit đã lâu không sử dụng; chúng được thể hiện bằng các yếu tố tương tự trong tiếng Anh, như wich hay bottle “nơi ở”, hay michel “lớn”.

Riêng về tên người, tên Hobbit ở Quận và Bree thời kỳ ấy có nhiều đặc thù riêng biệt, đáng chú ý nhất là thói quen hình thành cách đó vài thế kỷ, dùng lại tên trong phạm vi gia đình. Phần lớn các họ này đều có ý nghĩa hiển nhiên (trong ngôn ngữ thông dụng, vì xuất phát từ các biệt danh có tính đùa giỡn, hoặc địa danh, hoặc tên cỏ cây - đặc biệt ở Bree). Dịch những tên đó không có gì khó, nhưng vẫn còn lại một vài tên đã mất nghĩa, tôi đã bằng lòng chỉ Anh hóa về chính tả: như Took thay cho Tûk, hoặc Boffin thay cho Bophîn.

Với các tên riêng Hobbit, chừng nào có thể, tôi cũng làm theo cách ấy. Các con gái thường được người Hobbit đặt tên hoa hoặc đá quý. Các con trai thường đặt tên hoàn toàn không có nghĩa trong ngôn ngữ thường ngày; cả một số tên nữ cũng tương tự. Thuộc loại này có Bilbo, Bungo, Polo, Lotho, Tanta, Nina, vân vân. Đương nhiên sẽ có nhiều tên tình cờ giống các tên chúng ta đang dùng, hoặc biết tới, ngày nay: Otho, Odo, Drogo, Dora, Cora là một số ví dụ. Những tên này tôi giữ nguyên, dù thường Anh hóa bằng cách đổi nguyên âm cuối, vì trong tên Hobbit các từ có đuôi a là giống đực, còn o và e là giống cái.

Trong một số dòng họ lâu đời, đặc biệt thuộc chi Bì Bợt như nhà Took hay nhà Bolger, lại tồn tại tập quán đặt tên gọi rất kêu. Vì có vẻ phần lớn những tên đó lấy từ các truyền thuyết xa xưa, của cả Người lẫn Hobbit, và nhiều tên dù đã thành vô nghĩa với người Hobbit lại rất sát với các tên Con Người ở Đồng Bằng Anduin, Thung Lũng hay đất Mark, nên tôi đã đổi chúng thành các tên cổ, chủ yếu có nguồn gốc Frank hay Goth, mà nay ta vẫn dùng hay vẫn gặp trong sách sử. Như vậy ít nhất tôi vẫn giữ được sự đối lập thường rất hài hước giữa tên gọi và tên họ, mà chính người Hobbit cũng ý thức rõ. Các tên có gốc thần thoại ít khi đươc dùng, vì đóng vai trò tương tự tiếng Hy-La trong văn hóa Quận chỉ có các thứ tiếng Tiên, mà các tiếng đó người Hobbit hiếm khi dùng đặt tên. Ở thời điểm nào cũng chỉ có một số rất ít dân Quận biết “ngôn ngữ các vua”, như họ gọi.

Tên dân Trấn Hươu khác hẳn các dân Quận còn lại. Cư dân ở Chằm Lớn cùng nhánh bên kia dòng Bia Rum Đun ở rất nhiều điểm có sự dị thường, như trong sách đã kể. Hiển nhiên chính ngôn ngữ trước kia sử dụng trong chi Đại Cồ miền Nam đã để lại cho họ phần lớn trong số những tên kỳ cục đó. Những tên này tôi thường để nguyên không đổi, vì nếu bây giờ nghe chướng thì ngay từ hồi đó nghe đã rất trái tai. Cac tên đó có phong cách mà với chúng ta có lẽ phảng phất mùi “Celt”.

Vì sự bảo tồn các yếu tố ngôn ngữ xưa trong cách nói của chi Đại Cồ và con người Bree hao hao giống sự bảo tồn các yếu tố Celt ở Anh, nên đôi chỗ tôi đã bắt chước chất Celt khi dịch. Vì thế Bree, Combe (Coomb [Lòng Chảo]), Archet và Chetwood [rừng Chet] đều mô phỏng các dấu vết trong hệ danh pháp Anh, chọn theo nghĩa từ: bree “đồi”, chet “rừng”. Nhưng chỉ một tên người là đổi theo cách đó. Tên Meriadoc được chọn với lý do tên rút gọn của nhân vật này - Kali - trong Tây ngữ có nghĩa là “hớn hở, vui vẻ”, dù thực tế đấy là cách gọi tắt cái tên Trấn Hươu nay đã mất nghĩa, Kalimac.

Trong quá trình chuyển dịch, tôi không dùng tên có gốc Hebrew hay tương tự. Trong các tên Hobbit không có yếu tố nào tương ứng với yếu tố này trong tên gọi của chúng ta. Các tên ngắn như Sam, Tom, Tim, Mat thường gặp vì là cách gọi tắt của các tên Hobbit thực sự, như Tomba, Tolma, Matta, vân vân. Nhưng Sam và người cha là Ham có tên thật là Ban và Ran. Đấy là cách gọi tắt từ Banazîr và Ranugad, vốn là biệt danh có nghĩa “khù khờ, chất phác” và “ru rú xó nhà”; nhưng các từ đó không còn lưu lại trong cách nói thông dụng, chỉ còn giữ làm tên truyền thống trong một số gia đình. Vì thế tôi đã tìm cách bảo lưu đặc điểm ấy bằng cách dùng Samwise và Hamfast, là cách viết hiện đại hóa chữ tiếng Anh cổ samwís và hámfæst có nghĩa rất sát.

Đã đi xa đến thế trong quá trình hiện đại hóa và quen thuộc hóa ngôn ngữ và tên gọi Hobbit, tôi còn đẩy xa hơn nữa. Các ngôn ngữ Con Người có họ với Tây ngữ, như giờ tôi cảm thấy, cần chuyển sang các dạng có họ với tiếng Anh. Vì thế tôi đã cho ngôn ngữ Rohan dạng tựa như tiếng Anh cổ, vì nó vừa có liên hệ (xa xôi) với Ngôn Ngữ Chung, lại vừa (rất gần) với thứ tiếng trước kia của dân Hobbit miền Bắc, mà lại cổ hơn Tây ngữ. Trong cuốn Sách Đỏ đã vài lần ghi nhận rằng khi nghe dân Rohan trò chuyện, người Hobbit nhận ra nhiều từ và cảm thấy tiếng ấy rất gần gũi với tiếng mình, vì thế sẽ khá ngớ ngẩn nếu những từ ngữ và tên gọi riêng của Rohan lại xuất hiện trong dạng xa lạ.

Có vài trường hợp tôi đã hiện đại hóa dạng thức và chính tả của các địa danh Rohan: như trong Dunharrow [Dunharg] hay Snowbourn [Snawburna], nhưng cũng không nhất quán, vì tôi dựa theo người Hobbit. Họ cũng biến đổi theo cách đó những tên nào họ nhận ra các yếu tố cấu thành, hoặc nghe từa tựa như tên địa danh ở Quận; nhưng rất nhiều tên khác họ để lại, như tôi đã làm, ví dụ như Edoras “sân triều”. Cũng vì lý do ấy một số tên người cũng được hiện đại hóa, như Shadowfax [Bờm Bóng/ Scadufax] và Wormtongue [Lưỡi Giun][2].

Đồng hóa theo cách này cũng là phương án thuận tiện khi cần thể hiện những từ ngữ địa phương đặc thù Hobbit có gốc miền Bắc. Chúng đã được cho các dạng biến đổi khả thể từ những chữ tiếng Anh nay đã mất, nếu còn lại được đến nay. Vì thế mathom có dụng ý gợi lại từ Anh cổ máthm, mô phỏng quan hệ thực tế giữa từ kast Hobbil và kastu Rohan. Tương tự, smial (hay smile) “hang hốc” là dạng phái sinh khả thể của smygel, rất phù hợp phản ánh quan hệ giữa H. trân với R. trahan. Sméagol và Déagol cũng tạo theo cách đó làm từ tương đương với các tên Trahald “đào hang, luồn lách vào” và Nahald “bí mật” trong ngôn ngữ miền Bắc.

Tiếng dùng ở thành bang Thung Lũng, còn xa về Bắc hơn nữa, trong sách này chỉ gặp trong tên các Người Lùn quê ở đó, nói tiếng Người vùng đó và dùng đặt “ngoại danh” cho mình. Có thể nhận xét thêm là trong cuốn này, cũng như trong Anh chàng Hobbit, sử dụng dạng dwarves cho Người Lùn, dù trong từ điển vẫn ghi dạng số nhiều của dwarf phái là dwarfs. Chính xác ra phải là dwarrows (hay dwerrows), nếu cả số ít và số nhiều đều chu du theo chiều dài năm tháng, như cặp đôi man và men [người], hay goose và geese [ngỗng]. Nhưng ngày nay chúng ta không còn nói về người lùn thường xuyên như nói về người hay ngỗng, và ký ức Con Người không còn tươi mới tới mức bỏ công ghi nhớ dạng số nhiều đặc biệt cho một chủng tộc nay đã bị đẩy vào lĩnh vực truyện thần tiên, nơi ít nhất còn giữ được cái bóng của sự thật, hoặc cuối cùng vào những truyện nhảm nhí nơi các “chú lùn” bị lấy làm đối tượng cợt nhả. Nhưng vào Kỷ Đệ Tam, cá tính và oai phong trước kia vẫn còn hiển hiện phần nào nơi họ, dù đã có phần mờ bớt; họ là hậu duệ dân Naugrim thời Cựu Niên, trong tim còn cháy ngọn lửa thượng cổ của đức Aulë Thợ Rèn, và than hồng còn ngún khói từ mối hiềm kỵ dài lâu với dân Tiên; trong bàn tay còn sống động nghề xây đá chẳng ai từng đọ nổi.

Chính vì cớ đó tôi đã mạnh dạn dùng dạng dwarves, mong tách họ phần nào khỏi những câu chuyện ngớ ngẩn vào thời muộn màng này. Nếu để dwarrows còn tốt hơn, nhưng dạng đó chỉ dùng trong tên Dwarrowdelf [Mỏ Quặng Lùn], dịch tên của Moria trong Ngôn Ngữ Chung: Phurunargian. Vì từ đó có nghĩa là “nơi đào mỏ của Người Lùn”, và mặt chữ đã đủ là dạng cổ. Nhưng Moria thì là tên tiếng Tiên, cái tên đặt không có tình yêu; vì dân Eldar, dù khi hoàn cảnh bắt buộc trong những cuộc chiến cam go với Thế Lực Hắc Ám và bè lũ vẫn xây dựng nhiều pháo đài dưới đất, lại không tự nguyện sống ở những nơi như thế. Họ dành tình yêu cho mặt đất xanh và ánh sáng trời; và Moria trong tiếng của họ nghĩa là Vực Đen. Nhưng chính Người Lùn, và ít nhất có cái tên này không bao giờ bí mật, lại gọi nó là Khazad-dûm, Đại Sảnh của dân Khazâd; vì đấy là cái tên họ tự gọi giống nòi mình, gọi từ khi Aulë ban tên ấy khi nhào nặn nên họ trong những đáy sâu thời gian.

Elves [Tiên] đã được dùng để dịch cả chữ Quendi “loài biết nói”, cái tên Thượng Tiên chỉ chung chủng tộc họ, lẫn Eldar, tên chỉ Tam Tộc đã lên đường tìm Vương Quốc Bất Tử và đến nơi khi Thời Gian bắt đầu (trừ tộc Sindar). Chữ cổ này thực tế là chữ duy nhất dùng được, và xưa kia từng rất thích hợp để chỉ những gì ký ức Con Người còn lưu giữ về họ, hoặc trí tưởng tượng Con Người còn thêu dệt không sai khác hoàn toàn. Nhưng chữ này đã trở nên hạ tiện, và đối với nhiều người ngày nay chỉ còn gợi nhắc đến những sinh linh tưởng tượng, xinh xẻo hoặc ngớ ngẩn, nhưng đều khác với dân Quendi thuở xưa như bướm khác chim ưng thoăn thoắt - dù chẳng phải dân Quendi có bao giờ mọc cánh trên người, cái đó với họ cũng trái tự nhiên chẳng khác nào với Con Người. Họ là một chủng tộc cao quý và tuyệt đẹp, là lứa Con Đầu của thế giới; và trong số họ dân Eldar có địa vị như những vì vua chúa, mà nay không còn: Dân Tộc của Hành Trình Vĩ Đại, Dân Tộc của Muôn Sao. Họ đều cao, da trắng và mắt xám, dù những búp tóc đều màu thẫm, chỉ trừ trong gia tộc tóc vàng của Finarfin[3]; giọng họ du dương hơn bất kỳ giọng người trần nào bây giờ còn nghe thấy. Họ đều quả cảm, nhưng lịch sử của những ai trở về Trung Địa tha hương lại chứa đầy sầu khổ; và dù trong thuở xa vời đã có dạo song hành cùng số phận các Tổ Phụ, nhưng số phận họ vẫn không chung với Con Người. Thời đại thống trị của họ đã trôi qua lâu lắm rồi, và giờ đây họ sống bên ngoài những vòng biên thế giới, không bao giờ trở lại.

Lưu ý thêm về ba tên: Hobbit, Gamgee và Brandywine.

Hobbit là một từ đặt mới. Trong Tây ngữ, từ được sử dụng trong dịp hiếm hoi nào nhắc tới giống dân này là banakil “người tí hon”. Nhưng tới thời ấy dân ở Quận và Bree dùng kuduk, một từ không thấy ở bất kỳ đâu khác. Tuy nhiên Meriadoc đã có chép lại rằng Vua Rohan dùng chữ kûd-dûkan “dân ở hốc”. Vì dân Hobbit xưa kia dùng thứ tiếng rất gần gũi với người Rohirrim, như đã nói, nên rất có khả năng kuduk đã là dạng tỉnh lược của kûd-dûkan. Chữ này tôi đã dịch là holbytla, theo những lý do nêu trên; và hobbit là dạng tỉnh lược khả thể của holbytla, nếu chữ này từng tồn tại trong ngôn ngữ Anh cổ.

Gamgee. Theo truyện kể gia đình có viết trong cuốn Sách Đỏ, thì họ Galbasi, dạng lược là Galpsi, vốn xuất phát từ làng Galabas, vẫn được cho là phái sinh từ galab- “game” [thú săn] và một yếu tố cổ là bas-, gần tương đương với wick, wich trong tiếng Anh. Gamwich (phát âm như Gammidge) như vậy có vẻ là phương án chuyển đổi khá xác đáng. Tuy thế, cách giản lược Gammidgy thành Gamgee để phản ánh Calpsi không hề có ý ám chỉ quan hệ của Samwise với gia đình Cotton [Xóm Lá], dù cách nói đùa kiểu ấy cũng khá hợp với người Hobbit, giả thử ngôn ngữ của họ tạo điều kiện.

Cotton thực tế là thay thế Hlothran, tên làng khá phổ biến ở Quận, phái sinh từ hloth “chốn ở hoặc hốc có hai buồng” và ran(u) nghĩa là một nhóm các hốc như vậy trên sườn đồi. Dùng làm họ, chữ này có thể là kết quả biến đổi từ hlothram(a) “người sống ở hloth”. Hlothram, tôi đã để là Cotman [Nhà Lá], là tên của ông nội Lão nông Xóm Lá.

Brandywine. Tên Hobbit đặt cho con sông này là biến âm của chữ Tiên Baranduin (trọng âm ở and), phái sinh từ baran “nâu vàng” và duin “sông (lớn)”. Brandywine [Bia Rum Đun] có vẻ là kết quả biến âm tự nhiên từ Baranduin trong thời hiện đại. Trong thực tế, cái tên cũ của Hobbit đặt cho là Branda-nîn “sông biên giới”, vì thế dịch Marchbourn [Dòng Biên] thì hợp hơn, nhưng do một câu đùa đã thành quen, cũng lại chỉ màu nước sông, tói thời này con sông thường gọi là Bralda-hîm “bia váng dầu”.

Tuy nhiên cần lưu ý thêm là khi nhà Lão Hươu (Zaragamba) đổi tên thành Hươu Bia Rum (Brandagamba), yếu tố đứng trước có nghĩa là “đất biên giới”, và dịch Marchbuck [Hươu Biên] sẽ sát hơn. Chỉ có Hobbit nào bạo gan lắm mới dám gọi ông chủ Trấn Hươu là Braldagamba mà để ông nghe thấy.

______________

[1] Ở một đôi chỗ có cố gắng ám chỉ tới khu biệt này bằng cách sử dụng thou tuy không nhất quán. Đại từ này đến nay được coi là cổ và bất thường, nên chủ yếu đánh dấu cách dùng ngôn ngữ trang trọng; nhưng đôi lúc dùng thou, thee thay cho you, khi không còn cách nào khác, lại nhằm biểu thị sự thay đổi đáng chú ý từ thể kính ngữ, hay thể lịch sự giữa đàn ông và phụ nữ, sang thể thân mật. [Trong bản dịch tiếng Việt có thay đổi đại từ tương ứng tùy theo quan hệ giữa các nhân vật - BT.]

[2] Đây chỉ là một quyết định thuần ngôn ngữ, không hề có ý so sánh người Rohirrim với người Anh cổ về các mặt khác, văn hóa hay nghệ thuật, vũ khí hay tập tục chiến trận, chỉ trừ những điểm thông thường do hoàn cảnh chung: một dân tộc giản dị, ban sơ hơn sống gần gũi với một nền văn hóa phát triển rực rỡ, đáng trọng hơn, trên lãnh thổ xưa kia nằm trong địa phậo nền văn hóa đó.

[3] [Những miêu tả về khuôn mặt và màu tóc này thực tế chỉ đúng với tộc Noldor: xem The Book of Lost Tales, Part One.]