← Quay lại trang sách

CHƯƠNG II LOẠN QUÂN TAM-PHỦ

Vương-tử Khải bị giam ở Tam-Nhàn-Đường, bên cạnh Trạch-Các đã hai đêm rồi, tin tức trong ngoài bị cắt đứt. Hôm đầu, ông bị bắt lúc gần chập tối, vào tới nơi giam thì trời tối hẳn. Là người khác thì đêm hôm ấy trằn-trọc không ngủ được, nhưng ông là người thông đạt phóng-khoáng lắm, bất-cứ việc to hay việc nhỏ, khi đã xẩy qua rồi là ông coi như không, không thèm để ý đến nữa. Từ ngày phải đuổi ra ở nhà Hân-Quận-Công, ông tự coi đời ông là đời bỏ đi. Bởi thế ông chỉ quên mình vào những trò chơi nhảm nhí: xem gà chọi, đi săn bắn.

– Phen này thì chết! Quân phụ bảo ta chết thì ta chết! Chết mà lại rảnh. Đất họ Trịnh nhà ta, theo phong-thủy [1] là thế đất: phi vương phi bá, quyền khuynh thiên-hạ, nhị bách dư-nỉên, tiêu-tường nãi-họa [2] — Kể từ Thái-Vương đến bây giờ đã được hơn hai trăm năm rồi. Cái vạ diệt vong chỉ đời sau là thấy. Được dựng làm chúa nữa thì bất-quá cũng là giơ mình ra chịu làm con hi-sinh mà thôi, quí báu gì. Âu là chết!

Rồi ông bật cười lên giường nằm, xuất khẩu ngâm câu thơ ông vừa buột miệng đọc:

Ngủ quách chuyện đời, thây kẻ thức.

Rồi mai tỉnh táo thử xem sao?

Thế là, trong trí ông thản-nhiên ngay với việc vừa qua, kéo một giấc dài đến sáng.

Sáng hôm sau, qua khe cửa sổ ông nhìn thấy từng nhà lầu Trạch-Các, chỗ ông phải được ở nếu vua-cha ông không có tính thiên mà ghét ông. Nhìn thấy Trạch-Các bất-giác ông cảm thấy cái sự nhạo-báng của số-phận: bị giam ở bên cạnh chỗ địa-vị chính thức của mình.

Cửa Tam-Nhàn-Đường mở, tiến vào hai người. Ông nhận ra hai ông tiến-sĩ Nguyễn-Quỳnh, Nguyễn-Đích. Vương-tử hỏi trước:

– Hai ông vào bắt tôi ra đình-cúc [3] chăng?

– Thưa không. Theo lệnh-chỉ, chúng tôi được cử làm Tả, Hữu Tư-Giảng của vương- tử.

Ông cười:

– Tôi còn học mới hành gì nữa.

– Chúng tôi chỉ đến yết-kiến vương-tử một lần này thôi. Vương-thượng tuy có lệnh-chỉ ấy, song chẳng qua là để che mắt người ngoài thôi. Chúng tôi xin mãi mới được vào đây yết-kiến. Song đã có lệnh ấy thì âu là tiện-thị chúng tôi cũng là gia-thần của vương-tử rồi, có nghĩa sống chết cùng nhau. Chúng tôi nói để vương-tử rõ. Ở đây toàn quân Trung-Duệ của Huy-quận coi, nhất-thiết ra vào đều cấm. Chúng tôi lấy làm nguy cho vương-tử lắm đó. Xin vương-tử…

Nói đến đấy hai người nghẹn-ngào. Bốn dòng nước mắt nối theo câu nói.

Ngoài đã có tiếng thét:

– Hai ông ra đi!

Hai người vội-vàng ra. Cửa đóng sập lại. Bất-giác ông cũng ứa hai hàng nước mắt.

Từ đó đến chiều tối, cửa vẫn đóng.

Cả ngày hôm ấy, ông chưa ăn uống gì.

– Họ định hãm mình chết đói đây!

Một lúc, trống thu-canh nổi. Hết hồi trống phiên canh thay. Phiên vừa mới thay xong, đã nghe tiếng thét:

– Ngồi im! Bây giờ thì anh là thằng tù, đừng có bắc bực!

Hết canh một, cửa mở thật mạnh, nối theo tiếng quát-tháo:

– Có đi ngủ không? Vui lắm đó mà ngâm-nga mãi! Làm cái gì thế nào?

Tiếp theo tiếng quát tháo, tên lính cầm tay thước vào. Ông nhìn nó thì, lạ thay! nét mặt mà ông đoán là nanh-ác đểu-giả, lại có vẻ hiền-từ khả-ái. Điệu-bộ nó lại tương-phản với giọng quát-tháo của nó nữa. Dưới ngọn đèn dầu lạc mờ, ông nhận thấy nó cúi rạp xuống chào ông và nói khẽ:

– Phải làm ra thế ở giữa chốn hùm beo.

Rồi nó đặt lên bàn một gói to và một cái hũ sành. Mở ra thì là gói xôi và hũ nước chè nóng.

Giam-cầm như thế mất hai năm, nghĩa là cho tới ngày Tĩnh-vương mất, ngôi chúa về Thế-tử Cán.

– Khải [4] nguyên năm xưa định hại Tiên-vương, ta tưởng những đứa đại-nghịch bất-đạo ấy chẳng nên để làm gì.

– Khải tuy có tội, nhưng Tiên-vương còn chẳng nỡ nữa là Lệnh-Bà. Không có kẻ bị phế thì sao có người lên được [5]. Nay Lệnh- Bà đã toại-nguyện, tiểu-thần tưởng nên mở lòng nhân mà tha chết cho y, để lại giọt máu của Tiên-vương. Lệnh-Bà giết y, tôi e rằng quân-sĩ và thần-dân không phục thì ngôi cao của Tân-vương cũng khó lòng vững. Đó là tiểu-thần nói thật tình.

– Y còn sống ngày nào thì chúng còn trông vào y mà làm loạn. Ta muốn tiệt mối loạn đi chứ chẳng phải tàn-nhẫn gì riêng với y.

– Nếu thế thì xin lệnh-bà cứ giam y lại thế là nhất cử lưỡng toàn.

Vì mấy lời can của Tạ Danh-Thùy ấy mà hôm sau vương-tử Khải tiếp được lệnh-chỉ mới. Khi tên Biện-lại đội Nội-Khuông vào Tam-Nhàn-Đường tuyên chỉ, bắt Khải quỳ nghe chỉ, Khải quỳ ngay xuống. Không phải là sau hai năm giam-cầm, ông đã non gan mà đổi thái-độ nhưng vì hai hôm trước Tạ Danh-Thùy đã báo tin ông hay và khuyên ông nên nhũn-nhặn và ẩn-nhẫn hết sức để lưu lại chút thân, hoặc-giả sau này có dịp nào chăng — Dịp ấy, có người đã nói rõ cùng ông: « Tân-vương ốm-yếu, khó lòng toàn».

Lệnh-chỉ rằng:

Đại-nguyên-súy, Tổng-quốc-chính, Điện-đô-vương lệnh rằng:

Vương-quý-tử Khải xét tội thật là đáng chết, nhưng nghĩ tình cốt-nhục ta không nỡ. Vậy đặc-ân cho được giam ở Tả-Xuyên-Dường, ba ngày phải đến Phủ-đường bồi-bái một lần.

Việc giám-chế giao cho bốn đội quân Nội-Khuông, Nội-Dực, Nội-Nhưng, Nội-Kiệu.

Kính vậy thay, lệnh-chỉ!

Cái đặc-ân ấy kể ra lại nguy cho Khải. Cứ ở Tam-Nhàn-Đường, tuy bị giam cũng chặt chẽ, nhưng những lối lén-lút để mang thức ăn-uống, đồ thay mặc đã sẵn sàng cả rồi. Chịu cái đặc-ân mới, nhất là khi cái đặc-ân ấy lại bọc trong sự giám-chế của bốn đội Nội thì tức là phải chịu một hình phạt mới mà sự nguy-hiểm chưa đo trước được.

Giam ở Tam-Nhàn-Đường trong hai năm, với thời-gian, sự khắc-nghiệt của lính canh đã bớt dần, nên còn chút thú-xướng. Nay có lệnh mới thì sự khắc-nghiệt lại càng tăng. Có lệnh mới như tiếng chuông đánh tỉnh thức những thói khắc-ngliiệt đã ngủ trong hai năm ròng.

Dương Thái-Phi ở ngoài lo lắm. Bà nói với chị là bà Tân [6] chúa Minh-Vương, mẹ đẻ ra Thụy-quận-công Trịnh-Lệ [7].

– Em lo cho Khải lắm. Canh giữ nghiêm-ngặt quá, cơm nước không đưa vào được. Ăn uống thất-thường lại buồn-bực quá đỗi. Em sợ rằng tính-mệnh cũng khó toàn. Chị quen thân với quận-chúa Huy [8] nhờ chị làm ơn xin hộ cho. Em chỉ mong được mẹ con chu-toàn để sớm tối trông thấy nhau.

Bà Dương Minh-tân [9] nhận lời vào nói với Huy-quận:

– Quan Trưởng-phủ có thù riêng gì với quí-tử mà nỡ hãm vào chỗ chết như thế? Em tôi có nó là con, quan-lớn định giết cả hai mẹ con ngưài ta hay sao? Đầy lắm thì vơi, thịnh quá thì suy. Quan-lớn bây giờ đắc-chí nhưng tôi thiết tưởng cũng không nên ăn ở cạn tầu ráo máng quá.

Huy-quận khóc mà rằng:

– Đình-Bảo thờ Tiên-vương được ngài ân-sủng nhiều quá, lại đã từng chịu lời ủy-thác lúc lâm-chung, bởi vậy nên phải hết sức giúp-giập tân-vương. Song quý-tử cũng là giọt máu của Tiên-vương, Đình-Bảo mà có nỡ lòng làm hại thì trời tru đất diệt.

– Đã thế thì xin quan-lớn khoan cho một chút trong việc giám-chế và xin cho người nhà được ra vào mang cơm nước áo sống.

– Vâng, có thể được. Nhưng người ra vào phải nhất-định, và phải hạn số! Đây, tôi đưa Lệnh-bà hai cái thẻ xuất lệ để cầm mà ra vào.

Hôm ấy là ngày mồng chín tháng chín. Bên cung vua, bên phủ chúa đều ăn tết trùng-cửu. Quân-lính vì thế được nghỉ ngơi thư-thả hơn mọi hôm. Lính bốn đội Nội hôm ấy tụ nhau cả ở trại dưới Phủ-đường. Một anh nói:

– Anh em thư-thả họp đông thế này, giá có chén rượu giải phiền thì thú quá.

– Hôm nay sao thằng cha Dự-Võ chưa đến. Mọi ngày, vào giờ này là nó mang cơm rượu vào cho Thế-tử.

– Hắn đến thì tốt lắm cũng được một vò, ai uống ai đừng. — Kìa! hắn kia kìa! nhưng sao lại vào chân tay không?

Rồi mọi người túm-tít hỏi:

– Thế nào? Sao hôm nay lại không mang cơm vào cho Thế-tử? Thế vò rượu hằng ngày của chúng tớ đâu?

Dự-Võ bảo mọi người yên lặng rồi nói:

– Hôm nay ngày Trùng-cửu. Thế-tử dặn tôi mang vào một con lợn và mười vò rượu để đãi các bác, nhưng đến cửa, lính canh không cho vào, tôi nói khó mãi cũng không được. Chúng nó còn chờ ngoài cổng kia cả. Các bác ra nói giúp.

Bọn lính ra nói với tên đội gác cổng:

– Hôm nay tết, thôi thì cho « xuất lệ » cả.

Thế là mười vò rượu Hoàng-mai, một con lợn luộc khiêng vào. Lũ lính bốn đội ngả ra chén, bàn tán ờn-ào, đả-động đến cả chuyện thời thế. Đợi cho họ uống say, Dự-Võ hỏi:

– Các bác bây giờ thờ ai?

Chúng khẩu đồng-từ:

– Thờ Chúa-thượng, Điện-Đô-Vương!

– Các bác lầm to! Các bác thờ ông quận Huy cùng bà Tuyên-Phi chứ! Thiên-hạ họ đồn rằng: «Trăm quan có mắt như mờ, để cho Huy-quận vào sờ chính-cung». Trăm quan ăn bổng lộc nhiều thì lấp mắt không biết chứ các bác được cái chi mà cũng mờ thế? Tôi hỏi các bác: Vương quý-tử có tội gì không?

Chúng ồn-ồn chữa lại:

– Vương Thế-tử!

Dự-Võ biết thừa rằng lòng quân-sĩ đã ngả về chủ mình nhưng còn cố gợi cho cái lòng ấy phát-hiện hẳn lên. Bởi thế y cố dùng chữ « Vương quý-tử » để chọc tức quân-lính. Quân lính thấy dùng chữ ấy, hốt nhiên, tự-nhiên phản-động lại mà hét:

– Vương Thế-tử!

Được thể, Dự-Võ nói tiếp, giọng mạnh dạn hơn:

– Vương Thế-tử có tội-tình gì? Con mụ họ Đặng là đứa nghiệt-phụ làm mê hoặc bụng Tiên-vương đoạt vị của Thế-tử. Thằng Quận Huy vốn có chí làm phản từ ngày ở Nghệ-an. Thế rồi nó thông nhau với con mụ Huệ. Nay Tân-vương còn nhỏ dại mà lại ốm yếu. Quận Huy ngày đêm tính chuyện thoán đoạt. Các bác đều là dân Thang-mộc-ấp [10], nên nghĩ đến hai trăm năm cơ-đồ của nhà Trịnh chẳng hơn là phụ theo lũ loạn-thần nghiệt-phụ để tiếng xấu về sau ư?

– Phải đó! Bác Thiện-phu nói phải đó.

Dự-Võ nói tiếp:

– Hôm nay tiết Trùng-cửu, người ta ăn uống linh-đình, cửa nhà vui vẻ, Thế-tử tội gì mà mẹ con xa cách một mình thui-thủi thân tù! Ngày mai các bác đến đền Khán-sơn, chúng tôi sẽ có một điều gan ruột thưa chuyện các bác hay.

Hôm sau, từ đầu giờ mão đền Khán-sơn đã chật những quân lính Tam-phủ, tiếng mô tê răng rứa đã ồn-ào vang động cả đền. Đến cuối giờ mão, người đến họp càng đông thêm. Suốt sườn núi Khán, chỗ nào cũng túm năm tụm ba. Từ tam-quan đến đền chính ở giữa, đâu đâu cũng chật những người. Họ đến đấy, ai cũng chung một bụng nghĩ: bỏ Trịnh-Cán dựng Trịnh-Khải. Nhưng bụng nghĩ ấy chỉ tản ra một cách vô-ích vào những câu bàn-tán ồn-ào hỗn-loạn. Họ đến đấy, ai cũng có một ý-định: trừ đảng loạn-thần để tôn-phù họ Trịnh. Nhưng ý-định ấy rời rạc vào những câu chửi bới bâng-quơ, những câu gắt-gỏng hão-huyền. Trên đầu họ, hãy còn treo một nỗi sợ: sợ quyền thế của chính-phủ. Trong bụng họ vẫn ẩn một nỗi sờn lòng: uy-quyền của Huy Quận-công.

Họ như một đống tiền rời chưa có giây xâu lại. Trông thì nhiều nhưng hỗn-dộn không thành-hình gì cả. Họ như một nắm cát khô, bốc lên thì bụi mắt người ta nhưng một cơn gió thì tan đi cả.

Lúc bấy giờ giá thử Huy Quận-công — hoặc kém hơn, một viên tỳ-tướng nào dưới quyền Huy Quận-công— cưỡi voi đến đó bắc loa lên mà thét, thì có lẽ lũ-lũ đến bỏ nơi tụ hội mà kéo ra về, hoặc tệ hơn, có khi đến chạy tán-loạn, chen dẫm lên nhau mà chết.

Trời tháng chín, gió thu đã bắt đầu thổi.

Trời tháng chín, tiết đã qua ngày thu- phân [11], đêm đã hơi dài hơn ngày. Một khắc đồng hồ nữa thì trời sáng rõ.

Những việc âm-mưu hay ưa đêm tối. Lát nữa trời sáng thì thể nào cũng tan.

Tan vì đêm làm loãng mãi nhiệt-huyết vào những câu chuyện vụn-vặt nhảm-nhí. Tan, vì tìm mãi chưa thấy một ý-nghĩa cho cuộc hội- họp. Tan vì đã chán-nản những câu nguyền-rủa vô tích sự. Tan vì đợi mãi chưa thấy một sức nào mạnh thu họp lại. Tan vì trời sáng thấy rõ những cái xuẩn-động vô-ý-thức của mình. Lác-đác đã vài ngưòi lẻn ra sau núi.

Khán ngồi thừ mặt ra không biết nói gì, làm gì; đã vài bọn rủ nhau vào các làng Ngọc-Hà, Hữu-Tiệp,… ve gái.

Giữa lúc ấy, một hồi trống đánh thật to.

Chúng lắng tai nghe. Dứt hồi trống, một tiếng loa thét:

– Anh em đứng cả trước cửa đền, trước cửa Tam-Ouan. Tôi có câu chuyện thưa cùng anh em.

Chúng túm lại đứng trước Tam-Quan.

Trên chòi cửa Tam-Quan bấy giờ có một người đứng thò ra ngoài giơ tay vẫy.

Chúng ồn-ào:

– Bác đội Tiệp-Bảo Nguyễn Bằng-Võ!

Từ trên Tam-quan, Bằng-Võ nói:

– Anh em đến đây ai nấy đều một lòng tôn-phù Vương-gia?

Chúng nghìn miệng một lời: Phải!

– Thế thì định đi thôi chứ. Ngày mai, khi tan triều đánh ba hồi trống, mối hồi chín tiếng làm hiệu, ba quân kéo vào giết chúng nó đi rồi tôn Thế-tử lên, phỏng có khó gì?

Chúng đồng-thanh:

– Ồng đội nói phải đó.

– Thế thì anh em theo tôi mà thề. Ai ăn ở hai lòng trời tru đất diệt.

Chúng thề xong, Bằng-Võ lại nói:

– Bây giờ thì anh em về. Các bác đội ở lại ta cùng bàn việc.

Một người nói to:

– Chúng ta hãy cử ông đội Tiệp-Bảo làm minh-chủ rồi hãy về.

Chúng giơ tay lên đồng-thanh nói:

– Thiên-tuế! Thiên thiên tuế!

Một giờ sau mọi người tan. Còn ở lại có mười người: Tiệp-Bảo đội quân-lại Nguyễn Bằng-Võ cùng chín người biện-lại chín đội quân: Nội-Khuông, Nội-Kiệu, Nội-Nhưng, Nội-Dực, Nhưng-Nhất, Nhưng-Nhị, Thị-Trung, Thị-Nội, Trấn-Nhất. Sau khi uống máu ăn thề, họ bàn với nhau:

– Có nên định ngày không?

– Không nên. Nhất định ngày nhỡ lộ ra họ biết họ phòng bị. Lúc nào ta cũng sẵn-sàng cả, cứ nghe tiếng trống là khởi-sự.

Mọi người thỏa-thuận như thế.

Ở phố cửa Nam, phường Gia-Ngư, vào khoảng góc đường Gambetta (Hàng cỏ) và đường đi xuống Ô-Đông-Lầm, khu đất trường Mỹ-thuật, khách-sạn nhà Gare, hội-sở hội Tam-Điểm bây giờ, về lúc chuyện này xẩy ra, là biệt-thự Viêm Quận-công Nguyễn Trọng-Viêm. Viêm-quận là em ruột bà chính-phi chúa Tĩnh-Vương. Chính-phi không có con giai nên coi Thế-tử Khải như con đẻ vậy. Vì vậy nên những người về đảng Thế-tử hay lui tới nhà Viêm-quận. Theo lễ-tục thì Khải và Cán đều là cháu gọi Viêm-quận bằng cậu cả, nên trong nước gọi ông là Quốc-cữu. Quốc-cữu có người con là Thiều-Lĩnh-Bá Nguyễn Trọng-Thiều. Quốc-cữu lại nuôi trong nhà một người danh-sĩ Nghệ-An tên là Bùi Bật-Trực để làm bạn đọc [12] với Nguyễn Trọng-Thiều.

Một hôm, ở dưới nhà học trong phủ-đệ Viêm-quận, ông đồ Bùi Bật-Trực tiếp một người khách. Hai người giở nắm cỏ thi ra bói. Nhặt thẻ, tính thẻ một lúc, người khách nói:

– Được quẻ Phong, hào cửu-tứ. Hào-từ rằng: Phong kỷ bộ, nhật trung kiến đẩu, Ngộ kỳ di chủ. Cát. Nhật là tượng chủ, đây chỉ Cán ; đẩu là tượng bề tôi, đây chỉ Khải. Nhật trung kiến đẩu: trong mặt trời thấy sao đẩu, thế là đẩu thắng nhật, bề tôi thắng chủ. Khải tất xong việc… Nhưng chưa rõ di là chỉ cái gì, chỉ ai.

– Hay là chỉ Đình-Bảo?

– Không chắc.

– Thế bác thử bói quẻ nữa cho Đình-Bảo xem ra sao.

Nhặt thẻ, tính thẻ một lúc, người khách lại nói:

– Được quẻ Cấn, hào Sơ-lục. Hào-từ rằng: Hệ vu câm nê; trình cát. Hữu du vãng kiến; hung. Doanh thỉ phu, trích độc. Thỉ là lợn, trích độc là đi không tiến lên được. Đình-Bảo tuổi hợi, mình lợn: Đình-Bảo tất chết.

– Các ông bói việc gì thế? Sao các ông dấu tôi? Các ông cho tôi là đảng với Đình-Bảo hay sao? Tôi nghe hết cả rồi.

Bùi Bật-Trực vội giới-thiệu ông khách:

– Đây là ông cống Bùi Dương-Lịch, anh họ tôi. Không phải là dấu công-tử nhưng việc chưa biết ra thế nào nên không dám nói, sợ Quốc-cữu ngăn-trở.

Rồi Bật-Trực đem hết việc hội ở Khán-Sơn ra nói cho Nguyễn Trọng-Thiều nghe. Trọng-Thiều nói:

– Tam-quân như thế, thật lòng trung-dũng đáng khen. Thầy tôi mà không theo, tôi có cách tự khắc phải theo.

Tối hôm ấy, ở nhà Quốc-cữu, có cuộc hội-họp bốn người: Quốc-cữu, Nguyễn Trọng-Thiều, Bùi Dương-Lịch và Bùi Bật-Trực.

Quốc-cữu— Tôi vẫn biết là việc nghĩa-cử hay, nhưng ném con chuột còn e vở cái lọ cổ quí. Thế-tử hiện nay bị giam trong phủ, nếu ba-quân làm loạn, họ giết mất Thế-tử thì hối không kịp.

Bùi Dương-Lịch — Tôi tưởng hắn không dám giết Thế-tử.

Bùi Bật-Trực — Nhưng dù sao thì tam-quân họ đã quyết lắm rồi. Dòng nước trên ghềnh chẩy xuống, ngăn sao cho được.

Nguyễn Trọng-Thiều — Đó thầy coi! Chúng nộ nan phạm [13]. Phạm chúng nộ có khi nguy đến tính-mệnh.

Câu chuyện bàn nửa ngày trời dài lắm, nhưng bốn câu trên là tóm-tắt cả lại. Khi Bùi Bật-Trực và Bùi Dương-Lịch ra khỏi, Quốc-cữu bảo Trọng-Thiều bằng một giọng gay-gắt.

– Lũ võ-phu vô-mưu chỉ làm hỏng việc, ta cấm không cho mày dự vào.

Trọng-Thiều cúi đầu không nói gì. Ngay lúc ấy chàng bỏ nhà ra đi mãi đến tối mới về. Đêm hôm ấy, vào khoảng đầu canh hai, có tiếng đập cổng dữ dội. Lính mở cổng ra, thấy tràn vào một toán độ ba chục quân Tam-Phủ. Kéo vào trước thềm, quân gọi rầm-rĩ:

– Xin Quốc-cữu ra quân-sĩ thưa chuyện.

Trọng-Viêm sai mở của và ra đứng ở trên thềm tiếp. Một người trong bọn nói:

– Ba quân đã quyết, xin Quốc-cữu nghĩ đến cơ-nghiệp Tiên-Vương mà nâng đỡ cho.

Trọng-Viêm trù-trừ chưa kịp đáp thì trong bọn có đứa nói to lên bằng một giọng hung-tợn:

– Muốn theo gương bọn Nguyễn Quốc-Trinh, Phạm Công-Trứ, Nguyễn Quí-Cảnh thì cũng dễ! [14]

Trọng-Viêm nghe câu ấy sắc mặt biến hẳn. Ông vội-vàng sai người nhà mở cửa:

– Thế hãy mời anh em vào nhà trong bàn định.

Bọn quân Tam-Phủ vào ngồi chật cả chiếc nhà cầu.

Trọng-Viêm nói bằng một giọng run-rẩy sợ sệt:

– Nghĩa-khí của anh em thật đáng kính-trọng vô cùng. Song muốn ném con chuột còn e vỡ cái lọ quí. Phỏng khiến anh em khởi-sự mà Thế-tử còn bị giam trong phủ, nếu bọn kia nó tính Thế-tử trước đi thi sao? Cứ ý riêng lão-phu thì hãy khoan…

Chúng ồn-ào:

– Khoan đến bao giờ? Khoan đến lúc thằng Huy-quận cướp ngôi, đến lúc con mụ Huệ lấy Huy-quận chăng?

– Lão-phu tính như thế này: Lão-Phu có người cháu hiện làm Thiêm-Sai ở Binh-Phiên. Y lại kiêm việc Tư-Thiên-Giám Lệnh-Sử, ra vào cung-cấm và Súy-Phủ dễ. Để lão-phu bảo y vào Phủ, khải cùng Thánh-mẫu để Thánh-mẫu tài-định.

– Việc nước đâu đến đàn-bà!

– Không…. Là thế này: Để lão-phu bảo Thiêm-Sai Binh-Phiên là Nguyễn-Kiêm vào khải với Thánh-mẫu rằng ba-quân đã quyết, Thánh-mẫu lấy họa phúc bảo Huy-quận nó phải tôn Thế-tử lên thay cho Tân-Vương.

– Khi nào Huy-quận nó nghe.

– Anh em cứ làm như thật, lấy uy mà hiếp nó thì nó phải nghe. Nó cũng phải soi cái gương Nguyễn Quốc-Trinh chứ!

– Thế ngộ nó không nghe.

– Thì cứ việc làm. Nhưng lão-phu tưởng như nó phải nghe.

– Chúng tôi chiều ý Quốc-cữu mà đợi vậy, nhưng Quốc-cữu đừng lừa dối chúng tôi. Thôi chúng tôi xin kiếu.

Nói đoạn chúng lại ầm-ầm kéo ra.

Thật ra cái kế của Quốc-cữu chỉ là cái kế hoãn-binh cho xong chuyện. Ông chẳng vì họ mưu mô chi cả.

Ba hôm sau, quân lính lại sấn đến nhà Nguyễn-Kiêm, ép y phải thực-hành lời hứa của Quốc-cữu. Nguyễn-Kiêm bất-đắc-dĩ phải vào cung nói với Trịnh Thái-Phi.

– Nếu Thánh-mẫu không can-thiệp, tiểu-thần e nguy-hiểm cho nhà Quốc-cữu.

Thái-Phi sợ họa đến em trai mình, bèn bảo Nguyễn-Kiêm đến hỏi ý-kiến Quốc-sư Nguyễn-Hoãn. Nguyễn-Hoãn bàn rằng:

– Ông về khải cùng Thánh-mẫu rằng hiện bây giờ chỉ còn có một cách để cứu-vãn lại tình-thế mà thôi. Một đường Thánh-mẫu lấy chỉ bảo Huy-quận lẽ họa-phúc để y nhượng- bộ quân-sĩ một chút. Một đường Quốc-cữu bảo quân-sĩ hãy chờ mấy ngày.

– Nhượng-bộ thế nào? Bỏ Tân-Vương đi, dựng Thế-tử lên thay à?

– Được như thế thì càng hay, bằng không thì ta làm như thế này…

Nguyễn-Hoãn nghĩ một lúc lâu rồi nói tiếp:

– … Ta làm như thế này: ta bắt chước như kiểu cũ, như kiểu Nghị-Tổ [15] nhiếp-chính hồi Dụ-Tổ [16]. Rồi tôi thảo sẵn hai tờ ý-chỉ.

– Quốc-Sư thảo ngay đi để tôi đưa cho quân-sĩ xem cho chúng yên bụng đã.

Nguyễn Hoãn lấy giấy bút thảo ngay hai tờ ý-chỉ rằng:

« Thánh-Tổ Thịnh-Vượng Ý-Hòa Thái-Phi ý chỉ:

Nước có Trưởng-Quân là phúc cho xã-tắc. Nay ta xét: Tân-vương tuổi còn thơ-ấu lại bệnh-tật luôn luôn ; Vương Trưởng-tử Khải tuổi đã hai mươi, xứng kế tự liệt-tiên-vương. Vậy dựng Vương Trưởng-tử lên thay tiên-vương, phế Tân-vương xuống là Cung-Đức-Công cho yên lòng thần dân và yên xã-tắc.

Kính vậy thay ý-chỉ».

« Thánh-Tổ Thịnh-vương Ý-Hòa Thái-Phi ý-chỉ:

Ta xét rằng: tân-quân hiện còn ấu-trùng, việc nước chưa đủ chủ-trương. Vương-quí-tử Khải xét là người quả-đoán minh-mẫn; xưa kia Dụ-Tổ Thuận-Vương ốm-yếu, Nghị-Tổ An-Vương là em quyền quốc-chính thay anh. Vậy theo gương cũ liệt-tiên-vương, cất Khải lên làm Tiết-Chế Thủy-Lục chư quân để coi việc nước đợi đến lúc Tân-Vương đủ tuổi coi việc nước.

Kỉnh vậy thay, ý chỉ!»

Nhà văn — nhất là những nhà văn cổ, còn chịu ảnh-hưởng Hán-tự nhiều, —mỗi khi nói đến thành-phố Hà-nội là dùng đến mấy chữ Nùng-Nhị, Nùng-Khán, tức là dùng danh-sơn danh-thủy mà chỉ đất. Vì thế Nùng-Sơn và Khán-Sơn mới nổi tiếng. Thật ra, Nùng-sơn và Khán-sơn không đáng gọi là sơn là núi chi cả, trừ ra khi nào theo sự hiểu riêng của các nhà địa-lý mà đống đất cao không đầy nửa bước chân cũng gọi là sơn (cao nhất thốn giả vi san: cao một tấc cũng là núi). Bà con Hà-Thành ai còn lạ gì cái mô đất cao chưa đầy hai từng nhà tây cao, rộng độ bằng mẫu đất, nằm gọn thon-lỏn đằng sau cái chuồng dài nuôi chim khỉ rắn rết trong trại Bách-Thảo nữa. Đó Khán-Sơn đó. Còn Nùng-Sơn? Hiện bây giờ mất rồi, nhưng hai mươi năm trước đây — vào khoảng năm 1918, 1919 gì đó — hãy còn. Ngày ấy nó chỉ còn là cái mô đất rộng chừng hai gian nhà, cao chừng vài ba thước tây, ở bên cạnh con đường République (trước cửa học-hiệu Albert Sarraut, thẳng cửa phủ Toàn-Quyền ra). Chắc trước kia nó cũng cao rộng như Khán-Sơn. Sau vì cần việc lấp những vũng để làm đường, người Pháp mới gọt dần nó đi. Đến khi trường Albert Sarraut khởi công thì « núi Nùng » quí báu của nhà văn mới bị bạt hẳn cho khỏi bẩn mắt.

Núi Nùng, núi Khán, xét đến nguồn gốc chẳng qua cũng là hai ụ đất đắp lên khi nhà Lý đóng đô ở thành Thăng-Long. Nhà bác-học Trung-Quốc đời nhà Tống là Mã-đoan-Lâm (Ma Touan-Lin) có để lại cho ta một đoạn văn ký-sự về thành Thăng-Long có đoạn rằng: “Cung điện dinh-thự ở trong một cái thành chu-vi chừng ba nghìn bộ. Trong thành, đắp lên nhiều mô đất để sửa lại phong-thủy hình-thế..».

Những mô đất ở giữa khu Trường Đấu Mã và vườn Bách-Thảo chắc cũng là những mô đất ấy.

Núi Nùng, núi Khán, xem vậy là núi nhân-tạo, nên cũng theo cái tính xềnh-xoàng tèn-tẹt của dân ta mà bé nhỏ. Thật ra, hai «quả núi» ấy giá gọi là đồi cũng là quá lạm rồi…

Đồi Khán-Sơn lại có cuộc hội-họp thứ hai của quân Tam-Phủ.

Quá tiết thu-phân hơn mười ngày rồi, ngày đã hơi ngắn rồi. Thế mà từ giờ dần, lác-đác đã có người đến. Đến đầu mão người đã bắt đầu đông, số nhiều là quân Tam-Phủ. Ngoài giả một số đông người háo-sự cũng đến họp mặt cho vui. Lần này quân-sĩ đã có định-kiến rồi nên họ không ồn-ào như lần trước nữa.

Trông những nét mặt đăm-đăm không rằng không nói, biết là nỗi căm-tức của họ lên đến cực-điểm mà lòng họ đã quyết lắm rồi. Có anh, sốt ruột hơn, hỏi anh em:

– Thế nào? Bao giờ?

Thì người bị hỏi dường như lấy làm khó chịu, xua tay một cái rồi gắt:

– Lát nữa, hỏi mãi!

Một đám đông người yên lặng thật đáng sợ hơn một đám đông người ồn-ào. Họ yên lặng nghĩa là họ dồn hết nhiệt-thành, nghị-lực, dũng-cảm vào trong. Họ ồn-ào là họ chưa đủ nhiệt-thành nghị-lực dũng-cảm để ngăn-ngừa những cái cử-chỉ hỗn-độn vô-nghĩa, những câu cãi vã vô-ích. Nước thác nghe thì nhức tai, trông thì hoa mắt nhưng nhiều khi có nguy-hiểm bằng đám nước phẳng lặng đâu? Sâu ngập tầm đó, nhưng nếu ai tưởng làn nước ruộng thấp gang tay mà bước xuống, thì chết không kịp ngáp. Nông choèn-choèn một gang nước đó, nhưng bờ cao, thành đứng, mặt trong, mượn bóng trời mây cây cối, có kẻ cho là vực thẳm chưa dễ đã dám bước chân xuống.

Đầu giờ thìn một tiếng loa thét từ đỉnh dồi Khán-Sơn vang động ra:

– Xin anh em đứng tụ cả dưới sườn núi, chân núi!

Mọi ngưòi túm quanh nghe. Trên đồi lại có tiếng loa:

– Huy-quận nhất-dịnh không chịu nhượng bộ. Y nhất định cứ thói nào tật ấy. Vậy anh em nghĩ sao?

Ầm-ầm như sấm vang, tiếng quanh đồi thét lên:

– Giết chết thằng quận Huy! Đem con đĩ Phù-Đổng cho voi dầy!

Tiếng loa trên đồi:

– Vậy anh em nhớ kỹ. Ba hồi trống, mỗi hồi chín tiếng!

– Bao giờ? bao giờ!

– Ngày mai, khi tan phiên chầu sớm. Bây giờ, ai nấy đi về.

Mọi người kéo ra về.

Thế-tử Khải đương nằm trong ngục đọc thơ. Ông ngâm lại câu thơ năm trước ông làm một đêm trong ngục khi tiếp được một phong thư bí-mật quăng qua cửa sổ, báo tin những người chết, bị xử tử năm ấy.

Dạ bán kinh hoàng đắc báo thư

Khai giam phách án, nhất kinh hô

Chư quân đáo thử ngô hà vọng?

Thiên đạo như tư, cổ sở vô.

Bài thơ ấy, xin chép nguyên-văn ra đây và tạm dịch ra quốc-âm:

Khuya khoắt nghe tin đã sởn lòng.

Mở thư đập án xiết kinh hoàng!

Các ông đến thế, mong gì nữa!

Thiên đạo ngày nay có nữa không?

Đêm hôm ấy, bóc phong thư xem xong Thế-tử buột miệng đọc thành bốn câu thơ ấy, rồi cũng không bụng dạ nào mà nối thêm nữa. Hôm nay rỗi, nghĩ lại, Thế-tử muốn nối thêm bốn câu cho nó thành bài thơ mà nghĩ mãi chưa ra câu nào hay cả. Bốn câu thơ ấy năm xưa buột miệng đọc ra một hơi, nay đối-tượng hoàn-cảnh và tâm-trạng không giống xưa nữa nên không sao nối cho thơ nhất khí được. Rồi Thế-tử nghĩ vẩn-vơ một mình:

– Hay là số-phận mình cũng như bài thơ kia, có trước không sau, có đầu không đuôi!

Còn đương vơ-vẩn nghĩ thì đùng-đùng đã thấy tiếng người rầm-rập từ xa chạy đến.

– Cái gì thế này? họ đã khởi sự rồi chăng?

Quân lính sập đến phá cửa:

– Bẩm ba-quân đã giết chết Hoàng Đình-Bảo, xin rước Thế-tử ra Phủ-Đường.

Thế-tử chưa kịp đáp thì bọn lính đã cõng Thế-tử lên vai chạy ra cổng Tả-xuyên-đường.

Chú thích:

[1] Thuật để mả, đặt hướng nhà. Thường gọi lầm là địa-lý.

[2] Không là vua, không là bá mà quyền nghiêng thiên-hạ. Hơn hai trăm năm rồi thì vạ xảy ra ngay bên cạnh nách.

[3] Đem ra tra tấn ở giữa triều-đình

[4] Khi đó vương-tử Tông đã bị truất xuống làm quí-từ và đổi tên là Khải.

[5]Tạ Danh-Thùy dùng chữ Tả-chuyện: « Vô hữu phế già, quân hà dĩ hưng? » Chữ sách vẫn có ảnh-hưởng to làm cho lời nói có uy-thanh hơn.

[6] Thứ-tự vợ chúa trong cung: chính-phi hoặc nguyên-phi, tân, tiệp-dư, tu-dung.

[7] Trịnh-Lệ là con Trịnh-Doanh, em Trịnh Sâm, chú Trịnh-Khải.

[8] Con gái Trịnh-Doanh, vợ Hoàng Đình-Bảo.

[9] Bà Tân chúa Minh-Vương, họ Dương.

[10] Tỉnh quê vua, quê chúa gọi là Thang-mộc-ấp. Lính Tam-phủ phần nhiều người Thanh-hóa.

[11] Equinoxe d’automne: Hôm ngày đêm đều nhau.

[12] Bạn cùng đọc sách.

[13] Lòng giận của chúng nhân không thể xúc-phạm được.

[14] Năm 1674 lính Tam-Phủ giết Tham-Tụng Nguyễn Quốc-Trinh, và phá nhà Phạm Công-Trứ; năm 1741 họ lại phá nhà và chực giết Tham-Tụng Nguyễn Quí-Cảnh. Lính Tam-Phủ nói câu ấy để dọa Nguyễn Trọng-Viêm.

[15] Trịnh Doanh

[16] Trịnh Giang, anh ruột Doanh.