← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III LẦU NGŨ-LONG

Bốn năm sau.

Đoan-Nam-Vương Trịnh-Khải làm chúa đã được bốn năm. Trong bốn năm ở ngôi cao, bao nhiêu việc thương-tâm bực lòng đã xẩy ra. Trước hết là cái loạn Kiêu-binh. Nguyên từ xưa Đoan-Nam-Vương cũng biết thừa rằng quân Tam-phủ — bọn quân mà nhà-nước cùng dân-gian đã gọi là Kiêu-binh — là con dao hai lưỡi. Dùng thì được việc, nhưng đến lúc trái thói muốn làm loạn thì cũng khó trị. Chẳng qua là lúc vô-kế khả-thi, phải dùng liều vậy. Chơi dao thì có ngày đứt tay, Khải đã ngập ngừng đôi ba phen. Sau cùng, bất-đắc-dĩ phải dùng vậy.

« Chơi dao thì đứt tay. Ta thử chơi dao không đứt tay một phen xem sao! Con ngựa hay phần nhiều là con ngựa có nết xấu, nhưng người kỵ-mã giỏi thì sợ gì nết xấu mà bỏ con tuấn-mã không dùng! Kiêu-binh là quân đã giúp nhà-nước dẹp bao nhiêu loạn, đã quen chiến-trận, nước nhà một mai cũng phải dùng đến. Ta làm chủ trăm họ thì có thể sao không có quân tinh-nhuệ được? Vả chăng, không dùng thì bỏ chúng vào đất nào? bỏ chúng đi đâu? Con ngựa bất-kham bỏ rong có lẽ nguy-hiểm còn hơn đem ra mà dùng. Tiên-vương dùng được thì sao ta lại không dùng được.»

Ông nghĩ thế, nhưng tình thế nó lại xoay ra khác. Điều nghĩ cuối cùng của ông:«Tiên-vương dùng được, sao ta lại không dùng được » hơi sai. Kiêu-binh xưa kia tuy kiêu-hãnh nhưng sự kiêu-hãnh ấy do chiến-công mà ra. Họ chỉ kiêu-hãnh với các quan văn mà họ cho là vô-ích cho nhà-nước, họ chỉ kiêu-hãnh với dân-gian mà họ cho là vì họ mới được yên ổn làm ăn. Nhưng đối với … chúa — nhất là đối với chúa — họ chưa từng dám nghĩ-ngợi gì tới, họ vẫn cho là một người thần-thánh, …. (Kiểm duyệt xóa)..., có mất quyền chăng nữa cũng chỉ do trời cất mệnh đi mà thôi. Đối với quan võ họ vẫn coi là người thầy họ. Từ khi họ nổi loạn lên, giết Hoàng Đình-Bảo là người họ đã từng trăm trận trông thấy phất cờ thét loa chỉ-huy trên mình voi, từ khi ấy, họ coi thường cả quan võ. Ông tướng coi vạn quân, ông tướng đánh dư trăm trận kia họ còn móc trên mình voi xuống mà giết được thì các quan võ khác, họ còn coi ra chi? Từ khi họ nổi loạn lên, từ khi họ cõng một người tù là Thế-tử Khải đặt lên ngôi báu một vị chúa, từ khi ấy họ coi thường nốt cả người mà xưa kia họ không dám nghĩ-nghị tới, người mà xưa kia họ vẫn coi là thần-thánh bất khả xâm phạm.

Thế là từ ngày ấy trong tâm-lý họ có một điều thay đổi lớn: họ coi thường cả chúa cùng các tướng. Sự coi thường ấy trước còn tiềm-ẩn, sau dần dần lộ ra,

Điều ấy, chúa Đoan-Nam-Vương không nghĩ trước tới. Không nghĩ tới điều ấy, ông chỉ nghĩ cách thu-phục họ thôi. Thu-phục làm sao? Muốn làm ông chúa-tể một nước, thì điều cần nhất là làm cho người ta kính-sợ, chứ đừng để cho người ta thương. Thương là trông xuống, kính-sợ là trông lên. Quân-sĩ thần dân đã trông xuống mà thương thì cũng khó lòng mà thu phục nổi người ta.

Cách đầu tiên mà chúa Đoan-Nam thi-thố để mua chuộc Kiêu-binh là cho tiền, cho phẩm tước. Làm như thế chỉ tăng thêm lòng kiêu-hãnh lên mà thôi. Ông quân-lại Nguyễn Bằng-Võ với ông Suy-Trung Dực-Vận Công-thần, Thị-nội-hầu Nguyễn Bằng-Võ thì cũng vẫn là một, vẫn là người đã « dựng ngôi chúa » lại thêm cái vẻ khỏng-khảnh quan-lớn nữa thôi.

Hơn nữa, chúa Đoan-Nam lại ban cho họ những “không đầu sắc” [1] để họ được tự do điền tên người họ thân yêu vào. Làm như thế tức là đem sẻ một phần quyền-bính chí-tôn của mình cho người khác.

…………………(Kiểm-duyệt xóa 13 dòng)…………………

Vì chúa Đoan-Nam vụng suy ở cho đó nên năm Quí-mão (Cảnh-Hưng 44 mấy tháng sau khi chúa Đoan-Nam được dựng) mới có việc quân Tam-phủ đòi dựng Hoàng-tôn Duy-Kỳ lên làm Hoàng-thái-Tôn. Thế là ngôi chúa ở tay họ ra, ngôi Thái-tôn — ngôi hoàng-đế trừ-bị — cũng ở tay họ ra.

Được đằng chân lân đằng đầu, Đoan-Nam-Vương bấy giờ mới rõ rằng không thể thu-phục được nữa mà phải trị, không thể nhu được nữa mà phải cương. Vì thế ngày rằm tháng hai năm giáp-thìn, Đoan-Nam-Vương theo cái thuyết « triết trợ » của Quốc-cữu Dương-Khuông chém 7 tên Kiêu-binh.

Dương-Khuông bầy kế rằng: «Một nắm đũa khó bẻ, xé lẻ ra từng cái thì dễ bẻ. Nay ta cứ bắt tội từng tốp năm ba đứa rồi dần-dần phải hết »

Thuyết « triết trợ » (bẻ đũa) của Dương-Khuông chậm quá mất rồi. Nhà chúa mới bẻ tạm có 7 cái đũa mà quân Tam-phủ kéo nhau ngay đến cửa Súy-phủ làm loạn, đòi giết Dương-Khuông và người giúp tán thành mưu ấy là Chiêm-Võ. Chúa Đoan-Nam phải nuốt nước mắt mà cho Chiêm-Võ ra khỏi cung để quân Tam-phủ băm chém.

Rồi, năm sau, Điền-nhạc-hầu Nguyễn Điều đem quân tứ-trấn về dẹp loạn Kiêu-binh. Lại một hồi tàn-sát. Kiêu-binh trừ hết.

Nhưng trừ vừa hết Kiêu-binh thì ngoài cõi lại có việc dụng-binh. Rồi kế-tiếp toàn những tin không hay cho nhà Trịnh. Từ đầu năm nay [2] mỗi khi phi-kỵ trong Nam ra là một lần chúa Đoan-Nam tiếp được một tin buồn.

Hai mươi bốn tháng tư: đồn Hải-Vân-quan vào tay quân Tây-Sơn, tướng giữ ải là Hoàng Nghĩa-Quyền chết trận.

Mồng một tháng sáu: thành Thuận-Hóa mất, thủ-tướng là Tạ Quận-công Phạm Ngô-Cầu hàng giặc; phó-tướng là Thể Quận-công Hoàng Đình-Thể cùng hai con và Kiêu Kim-hầu Võ Tá-Kiên chết trận.

Mười hai tháng sáu: Nghệ-An thất-thủ, trấn-thủ Bùi Thế-Đạt bỏ thành chạy.

Rằm tháng sáu: Thanh-Hóa thất-thủ, trấn-thủ Tạ Danh-Thùy chạy.

Hai mươi tháng sáu: Quân Tây-Sơn phạm trấn Sơn-Nam-Hạ.

Cho tới hôm nay, một mình ngồi trong phủ chờ tin đạo quân của Thái Đình-hầu Trịnh Tự-Quyền. Từ hôm nghe tin Nghệ-An thất-thủ, Trịnh-Vương đã phái Thái Đình-hầu thống 27 cơ quân đi cự-địch. Thế mà y chùng-chình mãi đến hôm hai mươi hai mới đi. Y đi được nửa ngày thì có phi-kỵ về báo rằng thành Sơn-Nam đã thất-thủ, trấn-thủ là Trương Trung-hầu Đỗ Thế-Dận cùng đốc-đồng Nguyễn Huy-Bình đã bỏ trốn, tướng tiên-phong là Liễn Trung-hầu Đinh Tích-Nhưỡng đem thủy-quân lùi về đóng ở cửa Luộc cũng bị vỡ.

Nửa ngày sau, tức là sáng hai mươi ba lại có phi-kỵ báo về: Thái Đình-hầu đóng thủy-quân ở khúc sông Câm-Động thấy quân Liễn Trung-hầu thua ở cửa Luộc, quân tự tan rồi.

Đó là tình thế ở ngoài cõi.

Còn tình thế ở trong. Dân chúng, kẻ giầu chôn của rồi bồng bế nhau đi tránh loạn ; kẻ nghèo không có của chôn, nhưng cũng lũ năm lũ bẩy kéo nhau đi. Khi ấy kinh-thành mới phơi hết những cái bần-thỉu cả tinh-thần lẫn vật-chất. Cái giọng sụt-sùi oán-vọng của bọn nhà giầu đến khi vận hết cửa tan, đi cặp đôi với mớ khố rách áo ôm của nhà nghèo ngoài các cửa ô. Những bọn người háo-sự, những bọn du-côn thì kéo nhau ra đường dò-la tin-tức và chờ xem một cảnh tượng mới-mẻ lạ-lùng.

Đoan-Nam-Vương đứng ngồi không yên, nóng lòng sốt ruột. Giặc gần đến kinh-thành rồi, mà các quan chưa một ai vào nhập-thị. Cho hỏi thì lác-đác trốn đi gần hết.

Chiều tối hôm hai mươi bốn mới thấy bọn Phạm Quí-Thích, Lý Trần-Quán, Phạm Đức-Ninh, Phạm Trọng-Huyên, Trần Công-Sán vào. Đoan-Nam-Vương hỏi:

– Thế giặc ra sao?

Trần Công-Sán nói:

– Thế giặc như chẻ tre, nội nhật ngày kia là cùng thì chúng phạm tới kinh-thành.

– Ý ta định bỏ kinh-thành chạy lên Sơn-Tây rồi lấy quân của Thạc Quận-công Hoàng Phùng-Cơ về đánh giặc, tiên-sinh [3] nghĩ sao?

Trần Công-Sán nói:

– Nhân-tâm không trông cậy được nữa. Chúa-thượng ra khỏi thành thì là ông chúa chạy loạn, thần chắc không một ai theo đâu. Kinh-sư là gốc nước, Chúa-thượng phải ở lại giữ-gìn. Bỏ đi tức là bỏ gốc nước, bỏ gốc nước thì nhân-tâm đã tán-loạn càng thêm tán-loạn. Chúa-thượng chỉ nên rước thái-phi, nguyên-phi, nguyên-tử cùng tam cung cùng lục viện ra ngoài thành. Chúa-thượng cùng lũ chúng tôi ở lại giữ thành. Thành còn là nhờ uy-linh Tiên-Vương mà, thành mất thì vua tôi cùng chết theo xã-tắc!

Trịnh-Vương cúi đầu ngẫm nghĩ…

Phạm Quí-Thích nói:

– Nay Chúa-thượng truyền cho các quan hai trấn Kinh-Bắc và Sơn-Tây hiệu-triệu dũng-sĩ trước để phòng sự bất-trắc.

– Ta đã cho triệu Sơn-Tây Trấn-thủ về kinh đánh giặc, giữ Kinh-sư, nhưng chưa thấy tin-tức gì. Bây giờ thì sao cho kịp nữa.

Trần Công-Sán nói:

– Hoàng tướng-quân thế nào cũng mang quân về. Nhưng vẫn phải hiệu triệu sẵn dũng-sĩ hai trấn Tây, Bắc để phòng khi Kinh-sư thất-thủ.

Chúa Trịnh gật và hỏi những ai đem truyền-từ đi đâu. Lý Trần-Quán xin đi hạt Từ-Liêm, Phạm Đức-Ninh hạt Gia-Lâm, Chu Hi-Thích hạt Đông-Ngàn. Trần Công-Sán, Phạm Quí-Thích, Nguyễn Đường xin ở lại cùng xã-tắc tồn-vong. Phạm Quí-Thích thảo xong truyền-từ, xin lấy phong-từ [4] đóng dưới. Truyền-từ thảo xong, người nào việc người ấy. Trong phủ chỉ còn Trần Công-Sán, Phạm Quí-Thích và Nguyễn Đường.

Đêm ấy mấy vua tôi cùng ngồi ở Tiểu-Bồng-điếm nghe dò tin tức.

Nửa đêm có tiếng đập cổng mạnh. Ai cũng tưởng là phi-ky về báo tin nguy-cấp gì. Lính nói to:

– Có Sơn-Tây Trấn-thủ Thạc Quận-công Hoàng Phùng-Cơ cùng 8 vị công-tử xin vào hầu.

Chúa Trịnh mừng rỡ, lập-tức cho vời Hoàng Phùng-Cơ vào. Phùng-Cơ sụp xuống toan lạy thì Trịnh-Vương đỡ dậy hỏi:

– Quốc-thế nguy-vong, công có kế gì giúp ta.

Phùng-Cơ đáp:

– Thần chịu ơn sâu của nhà-nước, nghĩa-vụ làm võ-tướng là phải đánh giặc. Thần xin đem quân bản-bộ cùng 8 con thần cùng ra chống giặc. Nhược đánh được, đó là nhờ uy-linh Chúa-thượng ; bằng thế cùng lực tận, cha con thần xin chết theo xã-tắc để yết Tiên-Vương dưới Cửu-Toàn.

Trịnh-Vương cầm tay Phùng-Cơ, rưng rưng nước mắt:

– Vạn nhất làm sao thì ta cũng chết theo xã-tắc. Bây giờ thế đã gấp, khanh nghĩ nên bố thế trận ra làm sao?

– Hiện nay tình thế đã gấp. Đinh Tích-Nhưỡng thua ở cửa Luộc, Trịnh Tự-Quyền quân vỡ ở Câm-Động. Thủy-quân của giặc chỉ còn cách Kinh-sư hai trăm dậm. Đường thủy trở nên xung-yếu. Thần xin Chúa-thượng sai Ngô Cảnh-Hoàn đem thủy-quân đóng ở bến Thúy-ái làm tiền-quân án-ngữ đường tiến của giặc. Thần xin đem quân bản-bộ họp với tàn-quân của Đinh Tích-Nhưỡng và Trịnh Tự-Quyền đóng khắp từ bến Thúy-ái đến Tây-long-chử. Còn ở Kinh-sư thì Chúa-thượng khiến Bùi Huy-Bích làm Thị-sư. Chúa-thượng thân ngự ra lầu Ngũ-Long đốc-chiến. Hiện quân năm doanh còn đủ để bầy thành thế-trận. Tả-quân đóng ở Tây-long-chử, làm hậu thuẫn cho hạ thần ; hữu-quân đóng ở Tây-hổ-chử, phòng lúc tiền-quân đổ thì tiếp-ứng ; tiền-quân đóng từ cửa Đại-Hưng đến cửa ô Trường-Bắn, là quân thụ địch đầu tiên ; trung-quân đóng ở trước Ngũ-Long lâu, hộ-vệ cho thánh-giá. Vạn nhất có sao nữa thì ta cũng còn giữ vững được kinh-thành, chờ quân cứu-viện các nơi đến.

Trịnh-Vương gật đầu khen phải và cởi thanh-kiếm «Phượng-Huy» đeo bên mình trao cho Hoàng Phùng-Cơ. Lại sai quan giữ kho lấy ra năm vạn lạng bạc để khao quân-sĩ.

Hoàng Phùng-Cơ lĩnh kiếm, đoạn lạy tạ chúa Trịnh xin lui ra để còn sắp-đặt quân-ngũ.

Trịnh-Vương đưa quận Thạc ra tận thềm, cầm tay ân-cần dặn:

– Quốc-gia tồn vong ư thử nhất cử, công kỳ miễn chi [5].

Khi xưa câu nói nào trịnh-trọng kính-cẩn thường dùng toàn bằng chữ Hán. Chữ nho, thường chỉ dùng nói với văn-thần, nay Trịnh-chúa đem nói với võ-thần là có ý coi Hoàng Phùng-Cơ trọng hơn người khác. Phùng-Cơ nghe mười hai chữ nho ấy, cảm-động đến khóc:

– Thần làm sao mà báo được ơn tri ngộ này.

Vua tôi cùng khóc chia tay.

Trịnh-Vương nhìn theo hồi lâu mới trở vào, hơi được yên dạ. Khi vào, cúi xuống ngẫm-nghĩ một lúc rồi hỏi tên tiểu-hoàng-môn [6].

– Xem đồng-hồ xem đến canh mấy rồi?

Tiểu-hoàng-môn vào xem rồi ra:

– Trình: giọt rồng tắc không chẩy dễ chừng đến hai ba khắc rồi. Cái dạ-thiên-hồ đã gần đầy, phỏng chừng cũng đến quá canh ba, sang canh tư rồi.

Trịnh-Vương quay lại bảo Nguyễn Đường:

– Khanh người vùng Kinh-Bắc giáp Sơn-Tây, lại làm quan ở Sơn-Tây hẳn biết rõ nhân-dân cùng địa-thế hai vùng ấy?

– Thần biết rõ lắm. Vương-thượng hỏi làm gì?

– Ta hỏi phòng khi Kinh-sư thất-thủ thì ta cùng khanh đi lên vùng ấy. Khanh đưa lối cho ta. Lúc nước loạn, nhân-tâm bất-trắc lắm. Đi vào chỗ lạ, ta e có cái vạ như Lý Tự-Thành chết trong tay mấy đứa nông-phu.

– Thần xin hết-sức. Vạn nhất kinh-thành thất-thủ, thần xin lúc nào cũng không rời xa Chúa-thượng nửa bước. Nhà thần từ đời đức Thánh-Tổ [7] bẩy đời khanh-tướng, chịu ơn của nhà-nước đã nhiều, nhẽ nào lại khống hết dạ trung-trinh.

– Cha khanh vì ta mà bị biếm-truất. [8]. Tiếc rằng khi ta thừa-thống, cha ngươi lại mất rồi, không thì thế nào ta cũng cất lên chính- phủ đại-thần. Cha ngươi khi xưa ở ngoài biên-trấn Tiên-Vương đã khen là mưu sự chi mẫn, lự sự chi chu, chân thị lão thành trì-trọng [9]. Vì thế mới được cất lên Đài-quan. Sau chỉ vì khuyên Tiên-Vương dựng ta làm Thế-tử mà bị truất-biếm ra ngoài biên-giới.

– Thần cũng có nghe nói như thế.

– Khi ta nhập-phủ thừa-thống, ta có giở những tập phiến-tấu mấy năm xưa ra. Suốt mấy trăm tập Khải, duy có cha ngươi có bản Khải nói vì ta. Lúc đó, cử triều như câm điếc cả. Ta tiếc cha ngươi lắm. Giá còn đến bây giờ.

Vua tôi nói chuyện xong thì trời gần sáng. Ngoài thềm, hai con voi «Quận Đông» « Quận Tê» đã phủ-phục sẵn. Thị-sư Bùi Huy-Bích vào tâu:

– Xin vương-thượng lên voi ra Ngũ-long lâu. Thần đã dàn xong trận.

Trịnh-Vương lên con «Quận Đông». Bùi Huy-Bích cùng Nguyễn Đường lên con «Quận Tề»

Trên mình voi, Trịnh chúa nói:

– Phạm Quí-Thích cùng Trần Công-Sán về Nghị-sự Đường thu lấy ấn-tín lục phiên rồi rước Thánh-Mẫu cùng nguyên-phi ra ngoài thành.

Lầu Ngũ-Long hôm nay bầy ra một cảnh-tượng khác ngày thường.

Trên lầu, ngoài lan-can, hai bên bầy hai khẩu súng thần-công bằng đồng, hai khẩu súng người Hòa-Lan đúc hộ ở lò Phố-Hiến từ ngày chúa Tây-Vương. Quanh hai khẩu súng, lính áo nẹp ngõ ngòn cầm mã-tấu sáng quắc, đội quân Nội-Kiệu. Ở giữa, dưới bóng chiếc tàn vàng, Chúa Đoan-Nam-Vương, mình mặc áo bào vàng chẽn tay, ngoài thắt giây lưng đỏ, đầu đội mũ đâu-mâu. Trước mặt Trịnh-Vương, kê một cái trống-quân thật to. Xưa kia trên lầu ấy người ta chỉ quen xem các quan đứng cùng chúa Trịnh mỗi khi có khoa thi đình, truyền-lô [10] gọi các ông Tiến-sĩ mới vào điện Quang-Minh lĩnh mũ áo cân đai. Bây giờ, chỗ xưa kia dùng để phô cảnh-tượng thái-bình thịnh-trị, đem dùng làm hổ-trướng cho vị Đại-Nguyên-súy Trịnh-Vương chỉ huy sĩ-tốt.

Trước lầu, trên một bãi cỏ rộng, quân đóng thành hàng sát đến Thủy-quân-hồ. Chỗ các ông nghè mới nghe truyền-lô, bây giờ là chỗ cắm ngọn cờ đỏ to bằng sáu bẩy chiếc chiếu, trên thêu mấy chữ Bùi Thị-sư . Lá cờ mở ra cuộn vào, phấp-phới trước gió, khi mở ra người nào để ý còn nhận thấy nét sổ chữ SƯ mới thêu được một nửa, thành ra chữ SƯ trông thấp-thấp bèn-bẹt. Một đêm hôm qua, vừa sắp đặt quân, vừa thêu cờ, mà chỉ thiếu có nửa nét chữ SƯ tưởng cũng là mau mắn chu-đáo và mẫn-tiệp lắm rồi. Có người chỉ ngọn cờ, cười mà bảo nhau:

– Quan Hành Bùi [11] coi một đạo quân què chân. [12].

Dưới chân lầu, về phía trong thành, mấy con voi đứng vẫy đuôi đập chân hình như chúng được thấy cảnh-tượng chiến trận thì nhớ lại những công việc xưa kia, sốt ruột muốn xông vào trận-địa.

Dưới thành, phía ngoài, quan Thị-sư Bùi Huy-Bích cưỡi con ngựa trắng chạy đi chạy lại hàng quân.

Trời tháng sáu, gió nồm thổi mạnh.

Trời tháng sáu, ánh nắng hè như nung-đúc. Một lúc, mây kéo kín cả một vùng trời. Thành Thăng-Long như bị một cái bát lớn úp lên trên, hãm sức nóng lại, oi-ả bức-sốt lạ-lùng. Gió nổi càng to, cuốn lên trời từng đám mây bụi cát. Ngọn cờ bị gió thổi mạnh như muốn nhổ cả cột mà bay.

Một lát, trời đổ một trận mưa như dội cóng nước xuống. Quân lính ướt hết, nhưng vẫn giữ bền chỗ, vì trên lầu Ngũ-Long, chúa Đoan-Nam-Vương vẫn một tay vuốt mặt, một tay cầm dùi trống đánh liên-thanh ; dưới bãi cỏ, quan Thị-sư Bùi Huy-Bích vẫn ra roi cho ngựa chạy lên chạy xuống, sang tả, sang hữu.

Mưa ngớt dần, rồi tạnh hẳn. Trời lại quang quẻ như trước. Ánh nắng xiên-khoai chiếu ngang hàng quân cờ đào nón đỏ, như tô thêm vẻ hùng-tráng uy-nghi.

Gió vẫn thổi mạnh.

Một lát áo quần cờ quạt lại khô, lại phấp phới lập-lòe trước ngọn gió nam, dưới bóng nắng về chiều.

Gió vẫn thổi mạnh.

Bây giờ mỗi ngọn gió lại thoảng đưa lại tiếng người hò-hét. Chắc là quân Hoàng Phùng-Cơ đang cùng giặc giao chiến.

Tiếng đưa lại nghe kỹ, trong lại có tiếng kêu khóc: chắc là chiến-sĩ bỏ mình trọng-thương trong trận kêu gào.

Tiếng nghe mỗi phút một to thêm. Chắc là trận đánh gần lắm rồi. Trên lầu, Đoan-Nam-Vương vẫn vững tay cầm trống. Dưới lầu,xì-xào tiếng kháo trong quân:

– Tiếng gần lắm, dễ thường đánh nhau ở Tây-long-chử rồi.

Từ đằng xa một con ngựa phi hết nước chạy lại. Ngựa dừng ở trước lầu Ngũ-Long. Mọi người nghe ngóng. Người cưỡi ngựa xuống ngựa, tiếng nói còn hổn-hển.

– Trình Chúa-thượng. Giặc đã phá tan quân Ngô Cảnh-Hoàn ở bến Thúy-Ái. Ngô Cảnh-Hoàn đã gieo mình xuống sông tuẫn-quốc..

Đoan-Nam-Vương dừng tay trống bảo lính bắc loa truyền quân:

– Giặc đã phá quân ta ở Thúy-Ái. Vương-thượng truyền ba-quân tề-chỉnh đề đánh giặc.

Răm-rắp quân lính cầm súng, gươm, mã-tấu lên tay.

Đồm-độp lại một phi-kỵ thứ hai đến báo tin:

– Thạc-quận cùng giặc đánh nhau ở Vạn-Xuân-hồ. Quân ta đổ, sáu công-tử Thạc-quận tử-trận. Giặc đã phạm đến cửa ô Trường-Bắn. Tiền-quân đương giao-chiến. Thế nguy.

Đoan-Nam-Vương dừng tay trống. Loa lại cất lên:

– Giặc đã phạm đến địa-phận Kinh-sư. Vương-thượng truyền ba-quân cùng hết sức rồi tuẫn-quốc cùng Vương-thượng.

Quân lính hăng-hái reo lên:

– Vương-gia thiên-tuế!

Gió nam vẫn thổi mạnh. Theo ngọn gió, tiếng kêu càng to càng gần. Trời đã xế bóng, mặt trời đã khuất sau đám mây trên đỉnh núi phía tây.

Tiếng kêu càng to càng gấp. Trước còn chưa rõ lắm, sau nghe rõ cả tiếng người chạy.

Trên lầu Ngũ-Long, chúa Trịnh vẫn cầm dùi đánh trống thúc quân. Nguyễn Đường nói:

– Tình-thế nguy-ngập quá. Xin Vương-thượng bỏ lầu lên voi ra trận. Thần xin liều chết báo ơn Vương-thượng.

Đoan-Nam-Vương xuống lầu lên voi. Giặc đã đánh đến trung-quân. Quân Trịnh trước còn hăng-hái, sau thấy thế không sao địch nổi cắm đầu chạy, giẫm lên nhau mà chết.

Trên mình voi, Đoan-Nam-Vương vẫn cố cầm quân. Đội quân Nội-Kiệu hăng-hái lăn xả vào quân địch mà chém giết.

– Xin Chúa-thượng thay quần áo xuống voi, có cố nữa cũng vô-ích.

Sẵn quần áo trên bành voi, Đoan-Nam-Vương thay quần áo rồi bảo tượng nô đánh voi chạy ra phía hồ Minh-Đường.

Tới hồ Minh-Đường, Trịnh-Vương bỏ voi lên ngựa cùng vài chục tàn quân và Nguyễn- Đường chạy lên phía cửa ô An-Hoa. Con voi « Quận-Đông» chạy theo. Trịnh-Vương dừng ngựa quay lại. «Quận-Đông » quì xuống chực để Trịnh-Vương lên. Trịnh-Vương nói:

– Thôi «Quận-Đông»! Ngươi ở lại, theo ta làm gì?

Khi con voi thấy chủ nó quất ngựa đi, nó lại đứng dạy chạy theo. Trịnh-Vương quay ngựa lại thì nó lại quỳ xuống. Cảm-động, Trịnh-Vương nói:

– Thôi «Quận-Đông» ta biết lòng trung-dũng của ngươi rồi. Ngươi ở lại để ta chạy. Ta cũng chưa biết sống chết thế nào đây! Thôi, ngươi ở lại, may ra ngày kia vua tôi lại gặp nhau.

Lần này, nó không chạy theo nữa, nhưng cứ quỳ mãi cho tới khi không thấy hút người đâu. Đằng xa quái cổ nhìn lại, Trịnh-Vương phải sa hàng lệ.

Đến cửa ô An-Hoa, trời vừa sẩm tối.

Khỏi cửa ô An-Hoa, con đường đi vào giữa một bên bãi cát sông Nhị-Hà, một bên những lạch ao cạnh hồ Tây. Đến địa-hạt làng Quảng-Bố, lắng tai nghe thấy có tiếng xì-xào.

Rồi trong đám xì-xào, có tiếng quát:

– Những thằng nào kia? đi đâu?

Nguyễn Đường lên tiếng:

– Quan-quân đi có việc cần.

Đám người xì-xào bỗng ùa lên, đứa đốt đuốc đứa cầm gậy:

……………..(Kiểm duyệt xoá)……………..….. Anh em, đánh chết… đánh chết không còn một đứa nào.

Trịnh-Vương quất ngựa chạy.

Quan quân đi theo, người bị dân đánh chết, người chạy được. Thế là, còn một người bầy tôi tay chân và vài chục quân hộ vệ cuối cùng, Trịnh-Vương cũng mất nốt.

Trên đường Quảng-Bố đi Nhật-Chiêu, Đoan-Nam-Vương một mình một ngựa lủi-thủi trên con đường lạ, chưa biết có yên lành qua đêm nay không! Tới đây, Trịnh-Vương mới thấu hết cái di-họa của lũ quân Tam-Phủ cùng lũ ô-quan tham-lại. Chúng kết-oán với dân đến nỗi rằng bị dân coi như cừu-thù. Đằng xa le-lói có bóng lửa. Trịnh-Vương ngửa mặt lên trời:

– Trời ơi! Kia lại là một làng xóm. Không biết dân-gian nó có để ta yên không?

Người khác, lúc khác đi đường đêm, thấy có đèn lửa thì mừng; Trịnh-Vương, lúc này, đi đường đêm, thấy có đèn lửa thì sợ. Nhưng thôi, cũng liều nhắm mắt mà thả cương cho ngựa đi từ từ. Vội-vàng, lúc phải chết cũng vẫn chết. Bất-giác buột mồm, Trịnh-Vương lại đọc lại câu thơ năm nọ: Thiên đạo như tư, cổ sở vô.

(Kiểm duyệt xóa 4 giòng)

Những lúc này, mong làm thằng thất-phu không được!

Bóng lửa tiến đến gần. Dưới ánh sáng mập mờ khi tắt khi cháy, Trịnh-Vương nhận thấy một ngưòi cầm đuốc. Trịnh-Vương dừng ngựa lại xem người kia đến làm trò gì. Khi tới gần, người kia tay nắm cương ngựa, tay soi đuốc lên tận mặt nhìn đi nhìn lại thật kỹ, rồi hỏi:

– Trưởng-giả phải chăng là… Vương-thượng.

– Vương tướng gì! tôi là anh lái buôn lánh nạn đây thôi.

Bỗng người kia phục xuống đất:

– Anh thần đâu? quân-sĩ đâu mà để Vương-thượng một mình một ngựa thế này?

– Người là ai mà ăn nói như điên rồ thế? Tránh ra cho tôi chạy kẻo quân Tây-Sơn sắp đến sau kia.

– Tâu Vương-thượng: tiểu-dân là Nguyễn Noãn con tiến-sĩ Nguyễn Thưởng ở Vân-Điềm, em ruột Sơn-Tây sứ Hữu Tham-nghị Nguyễn Đường. Anh tiểu-dân mấy hôm trước đây ở Sơn- Tây được lệnh của Vương-thượng triệu về triều. Trước khi về triều có dặn tiểu-dân phải mộ tráng-sĩ phòng khi trong nước có biến. Hiện tiểu-dân đã mộ được hơn ngàn dũng-sĩ để ở bên kia sông. Cúi xin Vương-thượng kíp sang đò.

Nghe thấy nói là con Nguyễn Thưởng là em Nguyễn Đường, Trịnh-Vương vững dạ, không dấu-diếm gì nữa.

– Ta cùng anh ngươi với mấy chục quân từ cửa An-Hoa chạy. Đến làng sau kia bị dân làng ra hành-hung thành ra vua tôi tán loạn, ta một mình một ngựa đi liều đến đây. Đây là đâu?

– Trình: đây là địa-phận làng Nhật-Chiêu. Sang qua sông thì là làng Lực-Canh. Xin Vương-thượng kíp sang sông, về làng tiểu-dân rồi sẽ liệu việc sau.

Chú thích:

[1] Sắc viết để trống tên để người được hưởng tha hồ muốn điền tên ai thì điền.

[2] Năm Bính-ngọ, niên hiệu Cảnh-Hưng thứ 47, lịch tây 1786

[3] Chúa Trịnh đối với những vị lão-thần nhiều khi gọi là tiên-sinh (đối với quan văn) hoặc công (đối với quan võ)

[4] Ấn riêng của Chúa Trịnh, việc quan-trọng lắm mới dùng đến.

[5] Nước nhà còn mất ở một trận này, ông gắng sức nhé!

[6] Hoạn-quan hầu gần nhà chúa.

[7] Tức Trịnh-Tùng.

[8] Tức là Tiến-sĩ Nguyễn Thưởng, người làng Vân-Điềm, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh-Bắc.

[9] Mưu việc lanh-lẹn, lo việc chu-đáo, thật là khí-tượng một vị lão thành.

[10] Xướng tên các ông tiến-sĩ.

(11) Bùi Huy-Bích làm Hành Tham-tụng

(12) Thị là coi, Sư là quân.