← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV QUÁN LÀNG HẠ-LÔI

Trịnh-Vương phân-vân không biết nên tin hay nên ngờ. Thật là em Nguyễn Đường chăng mà bụng dạ cũng như Nguyễn Đường chăng? Hay là một đứa phản-thần nào biết rõ tung-tích gia-thế nhà Nguyễn Đường mạo nhận để lừa vua?

Sau cùng đành liều mà bảo Nguyễn Noãn gọi đò. Gọi mãi mới được một chiếc đò nhơ-nhỡ đủ hai người một ngựa xuống thuyền.

Ngồi mạn thuyền, Trịnh-vương băn-khoăn lo lắng. Muốn nhìn xem mặt tên Noãn có giống Nguyễn Đường không thì một ngọn đèn dầu nhỏ không đủ ánh sáng. Nếu thật là em Nguyễn Đường thì không ngại gì, vì nhà hắn là một vọng-tộc vùng Giang-Bắc, bẩy đời nay đã sản ra bao nhiêu trung-thần nghĩa-sĩ. Nhưng nếu không phải… Thôi nhưng lúc ấy cũng không phải lúc phân-vân được nữa; đành cũng đến đâu hay đó mà thôi. Ngửa mặt trông trời, trời sao nhấp-nhánh, Trịnh-Vương sực nhớ lại năm xưa Tả Tư-giảng Ngô Thì-Nhậm giảng ông nghe bộ sách «Quản Khuy», rồi Vương cố tìm xem các sao Đế-Tọa ở nơi nào. Gió nồm nam vẫn thổi mạnh, đưa những tiếng ồn-ào nơi Kinh-sư đến. Bây giờ, giặc Tây-Sơn đương làm cỏ thành Thăng-Long đây.

Mới cách đây vài giờ ta còn là một vị vương-gia hách-dịch mà nay một mình ngồi giữa dòng sông, tấm thân gửi thác trong tay một người lạ mặt chưa rõ ruột gan. Sóng động mạn thuyền, nước kêu bì-bạch như gợi tấm lòng buồn-bẵ chán chường.

Còn mẹ ta? vợ ta? con ta? Bây giờ ở đâu, còn hay mất? Mẹ ta bị Tiên-Vương ghét bỏ sinh được có mình ta. Trong hai mươi năm trời, xiết bao cực-nhục khổ-sở, mới được thư-thái trong dạ chừng vài bốn năm nay. Bây giờ mẹ một nơi, con một nơi, an nguy mất còn đôi nơi bóng chim tăm cá. Chỉ thương cho vợ ta, tưởng ….(Kiểm duyệt xoá)….. sướng nhất trần gian, có ngờ đâu có ngày nay? Con ta mới hơn tuổi tôi, nào đã tội-tình gì? Làm đứa nông-phu khi loạn-ly còn giữ được cha mẹ vợ con, làm thân người vương-giả khi đã lỡ bước thì không bằng một đứa nông-phu.

Chúa cúi đầu thở dài, rồi lại ngửng lên trông trời, bất giác buột miệng đọc ứng-khẩu thành hai câu thơ:

Ỷ chu ngưỡng diện quan kiền tượng

Ảm ảm hàn tinh sổ điểm cô.

(Dịch:

Tựa thuyền ngửa mặt trông trời rộng

Lạnh lẽo sao mờ ba bốn ngôi.)

Rồi sực nhớ đến bài thơ năm nọ:

– Ô hay! ta ngẫu-nhiên đọc thành hai câu thơ cùng vần với bài thơ năm nọ:

Dạ bán kinh hoàng đắc báo thư

Khai giam phách án nhất kinh hô

Chư quân đạo thử ngô hà vọng

Thiên đạo như tư, cổ sở vô.

………………………………..

Ỷ chu ngưỡng diện quan kiền tượng

Ảm ảm hàn tinh sổ điểm cô.

– Ồ hay! giá ta nghĩ được hai câu ngũ-lục nữa thì thành bài thơ. Thân-thế ta có lẽ cũng đầu Ngô mình Sở như bài thơ này.

Còn đương nghĩ vẩn-vơ thì thuyền tới bến. Nguyễn Noãn dắt ngựa lên trước và mời chúa lên bờ. Trịnh-vương bước chân ở thuyền lên bờ mà có cảm-giác như bước chân vào cõi đời khác.

– Nhà ngươi nói có quân để bên sông. Bây giờ đưa ta đến chỗ quân đóng.

– Tâu Chúa-thượng, tiểu-dân nói thế cho Chúa-thượng quyết tâm sang sông đó thôi. Dũng-sĩ hiện ở làng tiểu-dân, cách đây không xa mấy.

Trịnh-vương im lặng biết rằng mình bị lừa. Từ đấy đến làng Nguyễn Noãn đường xá không rõ ra sao mà thủ-túc không một ai theo cả. Ngài bảo Nguyễn Noãn:

– Ngươi có quen ai ở làng đây hãy đưa ta vào nghỉ tạm rồi mai sớm hãy đi.

– Từ đây về làng tiểu-dân độ đến trống ba thì tới, xin Chúa-thượng cố đi. Không nên nghỉ đỗ lại đâu sợ lộ tung-tích.

– Ta đêm qua không ngủ. Ngày hôm nay lại cầm quân từ sáng đến chiều. Bây giờ nhọc lắm. Nếu trời còn để ta sống thì không sợ gì chuyện vào ngủ một nhà lạ. Bằng số-mệnh ta đã hết thì đi đâu tránh cũng không khỏi.

– Vâng, thế để xin đi qua một cánh đồng rồi thì tìm cái quán nào đó mà ngủ có lẽ tiện hơn. Chúa-thưọng dằn lòng vậy.

Chẳng dằn lòng, cũng chẳng được, chúa đành lên ngựa đi. Noãn đi trước dắt ngựa. Qua cánh đồng làng Xuân-Canh, Noãn đưa chúa vào một cái quán ngói trống không giữa đồng. Cái quán ấy dân làng làm ra để nông-gia nghỉ chân mùa gặt. Mệt quá, chúa nằm ngủ thiếp đi. Chừng đầu giờ dần chúa tỉnh ngủ dậy, nhìn lên trời thấy có trăng.

– Hôm nay 26. Trăng lên thì gần sáng.

Chúa đánh thức Noãn dậy rồi hai người lại cùng đi. Trời tảng sáng, chúa nhìn kỹ mặt tên Noãn thấy giống Nguyễn Đường nhưng thần-thái thì khác. Cùng một khuôn mặt ấy, sao ở Nguyễn Đường thì khí-sắc sáng sủa mà ở Nguyễn Noãn thì khí sắc thấy tối-tăm hung ác. Chúa nghĩ bụng: anh em chưa chắc bụng dạ đã như nhau. Mà nếu anh em đã trái tính nhau thì trái hẳn như trắng với đen. Bụng hơi chờn-chợn, chúa hỏi Nguyễn Noãn:

– Đây là đâu?

– Tâu làng trước mặt đây là làng Hạ-Lôi, dẫy tre xanh xanh đằng kia là làng tiểu-dân.

– Đây là vùng văn học. Vậy gần đây có ông tiến-sĩ nào không?

– Vùng này, trừ làng tiểu-dân ra thì cũng ít có bực đại-khoa. Tiểu-dân chỉ nghe nói rằng quan Thiêm-Sai Lại-phiên Lý Trần-Quán trước cũng vâng-mệnh đi chiêu-binh. Lý-Trần-công trước kia dạy học ở Hạ-Lôi, không biết nay có đấy không.

– Ngươi đi tìm hộ ta xem. Nếu Quán ở đấy, ngươi bảo ông ta ra đây giúp ta.

Noãn xin vâng, dẫn chúa Trịnh vào trong một cái quán nhỏ gần đấy, sai nhà hàng phục dịch đoạn ra đi.

Một lát sau, Lý Trần-Quán, Nguyễn Noãn cùng hai đứa nữa đều đến chỗ chúa nghỉ chân.

Quán mới trông thấy chúa, vái thật dài rồi đứng nép một bên chỉ một người trong hai người lạ mặt:

– Đây là đứa học-trò của tôi tên là Nguyễn Trang, hiện làm Tuần-huyện.

Ông lại nói to cho nhà hàng cùng những người đứng gần đấy nghe rõ:

– Đây là quan Hành Tham-tụng Bùi Huy-Bích đi lánh nạn.

Tuy rằng dấu-diếm nhưng cử-chỉ ngôn-ngữ vẫn lộ. Một cái ông cung kính khúm núm quá, người tinh ý đoán cũng ra. Một ông Hàn-lâm Học-sĩ, Thiêm-Sai Lại-phiên đối với một ông Hành Tham-tụng, chi mà khúm-núm quá thế? Cái khúm-núm ấy lại dễ lộ nữa là ông Lý Trần-Quán vẫn có tiếng là người khẳng-khái, không thèm quy-lụy một ai. Chúa thấy ông cung-kính một cách lộ quá, cũng phải làm ra bộ khúm-núm lễ-nhượng cho đỡ lộ. Sau cùng chúa gọi riêng ông ra bảo thầm:

– Khanh lộ liễu quá. Cái lễ vua tôi phải bỏ đi trong những lúc này.

Quán nghe đoạn gật đầu trỏ tên Trang:

– Tên này là học-trò thân-tín của tôi, quan-lớn cứ tùy-tiện mà khu-xử.

Ông lại bảo tên Trang:

– Tuần Trang, anh đưa quan-lớn qua địa đầu rồi ta đến sau.

Trang vâng lời, lấy dăm chục tên dân-binh đưa chúa đi. Y đưa chúa đến một cái quán hoang giữa đồng rồi hỏi rằng:

– Ông là Đoan-Nam-Vương, phải không? Ông nên nói thật đi, không có thì biến to bây giờ, khi đó đừng trách.

Chúa nói:

– Anh đừng làm thế. Ta là Hành Tham-Tụng Bùi Huy-Bích.

– Thôi đi! ông đừng lừa dối tôi nữa! Lúc nãy ông cùng Lý Trần-Quán vua tôi khóc-lóc gì với nhau? Ông năm nay mới ngoài hai mươi tuổi thôi, làm chi mà đã đỗ được tiến-sĩ, làm quan đến Hành Tham-tụng. Ông đẻ ra biết chữ à? Năm lên năm đỗ tiến-sĩ à? Sao làm tới Hành Tham-tụng mà còn trẻ măng thế kia? Thôi! từ cổ đến giờ, đế vương phế hưng cũng là chuyện thường. Thôi, ông đi đâu bây giờ. Về quách nhà tôi cho xong.

Nói đoạn y khoanh tay nhìn Trịnh-vương mà cười một cách ngạo-mạn.

Trịnh-vương biết rằng không thể sao giấu được nữa liền nói:

– Vương-giả số-mệnh ở trời. Chính ta là Đại Nguyên-súy Đoan-Nam-Vương! Túng xử ta có chết ở tay người trong nước, cũng là mệnh trời định vậy. Chúng bay muốn làm gì thì làm!

Trang lại cười, cái cười của thằng kẻ cướp chẹt được chủ nhà, cái cười của đứa tiểu-nhân được lúc đè đầu người quân-tử, cái cười của đứa đầy tớ hại được chủ nhà, cái cười nó làm đau ruột Trịnh-vương hơn là mũi dao đâm cổ.

– Thế thì được. Xin rước chúa thượng về trụ tất ở nhà hạ-thần.

Y nói câu ấy lại bắt giọng phường tuồng nghe nó đểu giả chó má vô cùng. Có điều lạ: ở trên sân khấu rạp tuồng thì câu nói giọng tuồng là câu tử-tế, mà câu nói giọng thường là giọng đểu-giả. Ở ngoài thì trái lại.

(Kiểm duyệt 11 dòng)

Đem nhân luân ra làm trò rồi, y bắt ép chúa về nhà y ở làng Hạ-Lôi.

Chúa Trịnh từ đó, im lặng không nói năng gì nữa. Về tới nhà y đem giam chúa vào trong buồng. Khi hắn ép vào, chúa nói:

– Một mình ta ở trong tay chúng bay, ta còn chạy đi đâu được nữa. Ta cho bay bán ta cho giặc mà lấy ấn phong-hầu. Nhưng bay phải để ta ngồi sập giữa nhà, đường-hoàng tử tế. Bay không coi ta là vua bay nữa thì ta cũng còn là món hàng quí của bay.

Trang nói, vẫn giọng tuồng:

– Dạ, dạ, dám bẩm Vương-thượng, thần phụng mạng, phụng mạng.

Ngoài cổng nhà tên Trang có tiếng ồn-ồn, một đứa người nhà vào nói với tên Trang:

– Có quan Học-sĩ Lý Trần-Quán đòi vào.

Trang nói:

– Ông ta vào can-thiệp đây. Mở cửa cho lão ấy vào.

Lý Trần-Quán vào đến trước thềm, sụp xuống đất lạy, khóc mà nói:

– Làm lầm-lỡ Vương-thượng đến đường này thật là tội của thần.

Chúa đứng đỡ Lý Trần-Quán dậy:

– Người ta, ai có bụng dạ người ấy, khanh có dự gì đến việc này!

Trần-Quán khóc lạy tên Trang:

– Vương-thượng là chủ chung của cả nước, mà tôi thì là thầy học anh. Quân, sư là nghĩa lớn, anh nỡ lòng nào thế?

Trang nói:

– Nếu quan-lớn nói trước rằng là Vương-thượng thì bố tôi cũng không dám chứa. Vì quan-lớn nói dối tôi nên trót gặp chúa mất rồi. Tôi bây giờ như người chứa đồ quốc-cấm, thế tất phải khai báo trình. Nếu cứ để chúa ở nhà tôi, một mai quan Tây-Sơn biết hỏi đến thì khi đó quan-lớn có thể đến đó giải oan gỡ tội cho tôi không? Thôi thôi, tôi cũng cam bất trung bất nghĩa. Sợ thầy chưa bằng sợ giặc; yêu vua chưa bằng yêu thân. Thôi, thôi, quan- lớn đừng làm lầm lỡ tôi nữa!

Nói đoạn, y quát người nhà lôi chúa đi. Lý Trần-Quán lăn xả vào bị chúng gạt ra. Ông phục xuống đất khóc gào:

– Trời đất ơi! thằng Lý Trần-Quán nó giết vua nó đấy! Trời biết chăng trời?

Chúa quay lại nói:

– Lòng trung-thành của khanh, cô đã lượng biết cho rồi. Khanh đừng tự oán mình nữa!

Chúa chạy ra nắm tay ông:

– Thôi, cô đến cơ sự dường này chẳng qua là mệnh giời bắt thế. Cô còn may mà ở giữa lúc bị nạn, giữa khi lọt tay hùm beo, còn được trông thấy một người trung-thần.

Lý Trần-Quán lúc bấy giờ mới trông thấy tên Noãn, liền bảo:

– Anh là con nhà danh-gia vọng-tộc thi-thư lễ nhạc mà cũng theo bọn càn này à? Tội anh to bằng mấy tội tên Trang.

– Quan-lớn lầm to! tôi đi với Vương-thượng từ Thăng-long sang đây có làm sao đâu? Quan-lớn đưa chúa vào tay giặc đó chứ!

Quán nghe câu ấy phái uất người lên, nức-nở khóc gào:

– Vâng, tôi giết vua, rồi tôi khắc biết trị tội tôi.

Quay lại tên Trang:

– Hay là anh hãy lưu tạm Vương-thượng ở đây vài ngày nữa…

– Để làm gì? —Trang gắt — để làm gì? Để ông hô-hào bọn nghĩa-sĩ nhà ông đến cứu chúa, phải không? Để quan Tây-Sơn họ biết, họ lột da tôi ra, phải không?

Thế rồi, Trang bắt chúa giải đi ngay.

Đến một cái quán hàng nước, chúa đòi nghỉ uống nước. Trang để cho được tự-do. Chúa liếc nhìn thấy nhà hàng có con dao để trên chõng, vội vơ lấy, thẳng tay đâm vào bụng một nhát. Toan đâm nhát nữa thì Trang đến cướp lấy dao rồi cho vực chúa lên võng. Đi đường Trịnh vương lấy ngón tay chọc vào chỗ vết dao, thò tay móc ruột. Trang thấy lục-đục trong võng và vết máu chảy xuống đường, mở mành võng ra nhìn rồi quát thủ-hạ:

– Chúng bay trói tay ông ấy lại! Ta phải đem nộp sống quan Tây-Sơn. Đừng để ông ấy tự-tử.

Từ đó Trịnh-vương mệt quá, nằm lả đi. Một lúc Trịnh-vuơng thấy trong lòng rạo-rực, vừa nóng vừa khát.

– Chúng mày cho ta ít nước lã nguội.

Trang lấy nước rồi một tay đỡ chúa ngồi dậy, một tay cầm bát nước để chúa uống.

Chúa uống luôn hai bát liền rồi lại đòi uống nữa. Uống xong bát thứ ba, chúa từ-từ nhắm mắt rồi nằm vật xuống.

Lúc ấy vào khoảng giờ ngọ ngày hai-mươi-bẩy tháng sáu, năm Bính-ngọ, niên-hiệu Cảnh-Hưng thứ 47, lịch tây vào năm 1786. Năm ấy Đoan-Nam-Vương hai-mươi-bốn tuổi.

Trang dìu thi-thể Trịnh-vương về Thăng-Long. Long-Nhương Tướng-quân nhà Tây-Sơn là Nguyễn-Huệ vỗ vào thi-thể Trịnh- vương:

– Đáng tiếc! Người đẹp trai như thế này! Thật đáng tiếc. Nếu sớm biết hàng ta thì cũng được giàu sang! Sao mà thân làm tội đời như thế này!

Đoạn cho khâm-liệm đúng lễ đối với một bực vương-giả, sai lấy cỗ xe Tiểu-long Bình-đính đưa đến an-táng ở trại Phương-Liệt, gần mộ Cung-quốc-công Trịnh-Cán. Lại phong cho Tuần Trang làm Tráng-nghĩa-hầu hẹn sẽ cho quyền lĩnh chức Sơn-tây Trấn-thủ.

Làng Hạ-Lôi có một nhà giầu họ Trần, tính khí hào-phóng không thích danh lợi. Ông đi thi hai khoa không đỗ, ông bỏ ngay nghề thi-cử về nhà làm ruộng đọc sách. Ông rất ưa những ông quan cao-khiết thanh-liêm và những học-trò nghèo. Ông nuôi ông Lý Trần-Quán ở nhà ông từ ngày hàn-vi chưa đỗ. Cả tòa nhà bẩy gian, ông để riêng cho Lý Trần-Quán dạy học. Sau Lý Trần-Quán đỗ tiến-sĩ, làm quan, nhưng vì mến chủ cũ ông vẫn coi đó là nhà.

Sau việc tên Trang bắt chúa Trịnh, về nhà, Lý Trần-Quán thuật cho Trần chủ-nhân nghe đầu-đuôi câu chuyện rồi nói rằng:

– Làm bầy tôi mà làm lầm-lỡ vua, tội ấy đáng chết. Tôị không chết, không sao bộc-bạch được tâm-địa này cùng trời dất. Ồng sắm hộ tôi một cái áo quan, mười súc vải trắng để tôi tự-xử lấy tội của tôi.

– Quan-lớn tự trách khí nghiệt quá. Đó là tên Trang bạn nghịch, có dự gì đến quan-lớn. Chúa-thượng cũng biết cho rồi, dân gian vùng này ai cũng biết quan-lớn là người trung-nghĩa rồi, việc gì phải khổ-tiết như thế?

Ông buồn rầu đáp:

– Tôi nhất-định chết, ông can cũng không được. Ông không giúp tôi, tôi cũng có cách. Nếu ông yêu-quí tôi thì nên nghe tôi.

Trần chủ-nhân biết là có can nữa cũng không được, bèn chiều lòng mua cho đủ thứ.

Lý Trần-Quán sai đào ở vườn sau nhà một cái huyệt, đặt áo quan vào đó. Đoạn, đội mũ mặc áo tiến-sĩ, quay mặt về hướng nam lạy tám lạy:

– Tôi bất trung bất nghĩa là Lý Trần-Quán xin theo Vương-thượng.

Lạy xong, ông cởi mũ áo, chít khăn trắng, mặc áo trắng, xuống huyệt nằm trong áo quan rồi bảo Trần chủ-nhân:

– Ông đậy nắp ván thiên cho tôi.

Chủ-nhân đậy áo quan. Đậy vừa xong, tiếng trong áo quan lại nói ra:

– Còn thiếu một lời, xin nói nốt.

Nắp quan lại mở ra:

Tam-niên chi hiếu dĩ hoàn,

Thập phần chi trung vị tận

(Dịch:

Ba năm đạo hiếu đà đầy đủ,

Một nghĩa vua tôi chửa hết nào. )

Ông nhớ lấy câu ấy. Câu ấy bây giờ tôi làm để tự khóc tôi. Sau này ông bảo con tôi dán lên nhà thờ thờ tôi. Đa-tạ chủ-nhân. Tôi cùng chủ-nhân từ nay vĩnh-biệt.

Trần chủ-nhân cùng năm sáu người học-trò phục xuống đất vừa khóc vừa lạy. Đoạn quan đậy nắp, đất phủ lên trên.

Hôm ấy là ngày 29 tháng sáu, hai ngày sau ngày chúa Đoan-Nam-Vương tự-sát.

Ở làng Cô-Linh, Phạm Quý-Thích nghe tiếp hai tin liền, có câu thơ rằng:

Đỗng khốc thiên nan vấn,

Thê-lương sự dĩ phi,

Sinh tàm Lý-Học-sĩ

Nhất tử độc như qui.

(Dịch:

Gào khóc trời khôn hỏi,

Buồn thảm có còn chi?

Sống thẹn cùng Học-sĩ

Một chết chỉ như về)

Mấy năm sau, dưới một mái nhà tranh ở thôn Nội, làng Du-Lâm, phủ Từ-Sơn, trấn Kinh-Bắc, một vị quan cũ nhà Lê đương nằm trên giường bệnh, gần đến lúc tắt nghỉ. Quanh giường ông nằm, có người chủ-nhân đón ông dạy học và hai người con nhỏ của ông. Chủ-nhân biết ông gần nguy, hỏi rằng:

– Quan-lớn bệnh nặng, các công-tử còn nhỏ cả. Vậy quan-lớn có dặn bảo gì không?

Ông thở dài:

– Đáng lý thì ông cũng phải sắm cho tôi một cỗ áo quan từ năm xưa kia rồi. Đáng lý thì tôi cũng phải chết như quan Thiêm-Sai Lý Trần-Quán rồi. Tôi lại đáng chết hơn. Tôi làm quan ở Sơn-Tây mà người hạt-hạ tôi bắt chúa. Tôi đưa đường chúa đi, mà tôi dánh lạc chúa vào tay em ruột tôi. Từ ngày ấy tôi không mặt mũi nào trông thấy người đời nữa, không mặt mũi nào trông thấy họ hàng làng nước nữa. Tôi sở-dĩ chịu « sinh tàm Lý Học-sĩ » là vì tôi chưa có con. Cụ thượng đẻ ra tôi chỉ còn tôi và thằng ba Noãn. Em Hai tôi mất từ sớm rồi. Thằng ba Noãn thì không trông mong gì. Bởi vậy tôi chịu đủ đường khổ nhục sống đến ngày nay. Sau đây con tôi lớn thì ông dặn chúng nó đừng thi-cử gì nữa. Nhà tôi bảy đời chịu ơn vua lộc chúa, con cháu đừng vác mặt đi thờ họ khác.

Năm tháng sau khi chúa Đoan-Nam-vương tuẫn quốc, sau khi Lý Trần-Quán tử-tiết.

Tuần Trang đi đến đâu cũng không ai dung. Cái chết của Đoan-Nam-Vương và Lý Trần- Quán đuổi đi đến bước cùng.

Y cùng Nguyễn Noãn và hơn chục thủ-hạ chạy trốn. Đến làng Đông-Ngạc, huyện Từ-Liêm gặp Trướng-trung-hầu Đỗ Thế-Dận. Trướng-trung-hầu từ khi thất-thủ Sơn-nam xong về nhà. Được lệnh mộ quân lên cứu Kinh-sư. Sau quân cứu-viện chưa kịp đến kinh thì kinh-thành thất-thủ, Trịnh-vương bị hại. Ông nằm ở quê. Hôm ấy ngẫu-nhiên ông bắt gặp Tuần Trang ở quán nước đầu làng. Ông liền sai tuần làng cùng người nhà đánh bắt. Ông đem Tuần Trang, Ba Noãn đến mộ Đoan-Nam-Vương chém đầu tế chúa. Ông lăn-lộn gào khóc. Thiên-hạ ai cũng lấy việc ông làm khoái trí.

Hôm ấy là ngày 30 tháng chạp năm Bính-Ngọ, niên-hiệu Chiêu-Thống năm thứ nhất (1786)

Viết ở Vinh, Avril-Mai 1938