SAU ĐÓ
Chuyện đau đớn xẩy đến cho chúng tôi đúng vào lúc Nụ phải vào nhà thương. Tôi không phải biết nói cách nào để các người hiểu rõ vài trò quan trọng của Nụ trong cuộc tình này. Và tôi cũng sẽ không hay biết nếu Khanh không ghé qua nhà, vứt cho miếng giấy, báo “Chị Nụ đã vào nhà thương. Phòng hồi sinh. Chưa tìm ra bệnh”. Buổi trưa, sau khi cố nhét cho đầy bụng đĩa cơm ở tiệm ăn quen, lổn nhổn dăm cọng cải xanh dai ngoách, mấy miếng thịt bò tái thâm, tôi trở về, sửng sốt cầm miếng giấy lên đọc. Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi lúc đó là phải cho Nguyễn hay tin gấp. Tôi muốn đọc dò phản ứng của Nguyễn khi tiếp nhận tin chẳng lành này. Tôi muốn thấy ở nó, một ân hận, một cắn rứt nào đó, về việc làm của nó trong mấy ngày qua.
Tôi lên chiếc xe lam lúc nắng trưa đã đứng bóng và đang muốn ngả về chiều. Những đoạn đường dẫn đến ngôi quán chúng tôi thường ngồi như dài và khấp khếch hơn cùng với trạng thái tâm hồn tôi giao động. Tôi tưởng tượng tới một khung cảnh của gian phòng vuông vức. Những chiếc nệm trắng toát, những ống nylon dẫn máu hay nước biển, vè lạnh lùng và thản nhiên của mấy cô gái, dáng điệu thiểu não hồi hộp của thân nhân các người bệnh, thập thò ngoài hành lang. Tôi cố lục trí nhớ, xem rằng ngoài Nguyễn, còn những ai, là người mà tôi phải đem tin này đến cho họ. Nắng trưa hừng hực làm chảy não dần tâm trí tôi. Chiếc xe giựt từng hồi. Tôi nhắm mắt cùng cơn mệt mỏi đầm đầm tỏa khắp. Quán vắng hoe. Tôi chọn một chiếc ghế sát cửa để dễ bề quan sát.
Tôi không nhớ trong trường hợp nào Nguyễn đã yêu Nụ. Tôi cũng không thể xác định thời gian họ yêu nhau là bao nhiêu lâu. Chỉ biết liên hệ giữa tôi và Nguyễn thêm thắm thiết chặt chẽ vì Nụ là chị ruột của Khanh. Tôi đã có hàng buổi ngồi nghe Nguyễn nói về đôi mắt Nụ. Đôi mắt thật lạ. Đôi mắt như không phải chỉ để mở ra nhìn và khóc. Nó cũng không thuộc hẳn về một trong những loại mà người ta thường ca tụng, như mắt bồ câu, mắt long lanh, mắt có đuôi, mắt sâu và ướt, mắt to và buồn. Đôi mắt của Nụ, nếu có thể nói được, như một cửa ngõ, mở sâu vào một u uẩn hiển hiện, một u uẩn chập chờn không tên gọi, một vắng xa đứng cách khoảng giữa một mơ hồ lạnh nhạt và một gần gũi bâng quơ. Nó là một lời nói, muôn đời còn bỏ dở, nó là một lời than vĩnh viễn lẫn tan bên trong một reo vui thơ trẻ, một tinh nghịch, một thách đố, hay cũng là một lì lượm, có thể. Tôi tiếc, rất tiếc mình không phải là một nhà văn, một cây bút, có trí tưởng phong phú để diễn tả cho đúng tất cả những gì ẩn hiện lập lờ trong đôi mắt đặc biệt đó. Một lần bất chợt, bắt gặp Nụ đang rõi theo một giọt nước chảy thành vệt trên chiếc ly thủy tinh, trong một ngôi quán, giữa ánh nắng chiều xéo qua làn kính suốt, tôi đã phải thầm kêu, mắt Nụ đẹp quá. Nụ ngước lên gặp đúng lúc tôi đang nhìn chăm chú, nàng đưa tay vén mấy sợi tóc lòa xòa bên má, hỏi: Bạn muốn nói gì? Tôi lắc đầu, liếc nhìn Nguyễn bên cạnh Nụ, đang say sưa với cối thuốc vừa nhồi, mấy ngày rồi không gặp Khanh, tưởng hôm nay, hóa ra cũng không luôn. Nụ cười, thì Khanh đã nhờ Nụ nói không đến được rồi mà, ngày mai, ngày mai tha hồ. Nụ bỏ lửng câu nói của mình. Nguyễn vẫn cắn chặt tẩu, em nhớ bảo Khanh đúng giờ đó nghe, cô bé đó là chúa trễ hẹn. Tôi lắc đầu, không biết lúc gia đình hay chuyện của tụi này, rồi sẽ ra sao! Kệ, tới đó sẽ tính, lo chi sớm, vô ích. Nụ nói, những đường nét trên gương mặt xanh xao của nàng dịu lại, xếp xuống. Chắc Nụ nhớ đến hoàn cảnh tuyệt vọng của cuộc tình nàng với Nguyễn. Bệnh thần kinh của Nguyễn chưa tới ngày tái phát, nhưng Nụ và nhất là Nguyễn, biết rõ hơn ai hết một ngày kia, nó sẽ lại bùng lên, nó sẽ vỡ ra, lại trở về với Nguyễn, như một bất lực bi đát không cách nào chữa trị. Nói cho ngay thì Nguyễn không có một chút trách nhiệm nào về căn bệnh ngặt nghèo của mình, nếu không muốn nói, Nguyễn có quyền oán trách bố mẹ, oán trách những người đã di hại cho Nguyễn cái mệnh số khổn ấy. Theo như lời tâm sự của Nguyễn thì giòng họ Nguyễn chỉ mắc bệnh này mới hai đời gần đây mà thôi. Ba Nguyễn là kết quả của cuộc tình ngang trái giữa ông và bà nội của Nguyễn. Bà nội Nguyễn, xưa là một thiếu nữ nổi tiếng về nhan sắc và đức hạnh một thời ở Hà Đông. Là người con gái duy nhất của một gia đình thế giá, lại có nhan sắc và đức hạnh như vậy, tất nhiên bà nội Nguyễn, trong tuổi thanh xuân, đã không thiếu gì tin đi mối lại. Trong số bao nhiêu kẻ yêu thầm nhớ trộm bà, có rất nhiều người có thừa dư điều kiện chiếm được trái tim người thanh sắc, nhưng trớ trêu thay, bà lại chọn yêu một anh học trò, trọ học ở ngôi nhà cùng phố. Cuộc tình thầm lén này, đã đến tai gia đình và những người có trách nhiệm trong dòng họ Nguyễn đã cương quyết đứng lên phản đối. Hội đồng gia tộc được triệu tập tức thời và đi đến quyết định đồng ý gả bà nội Nguyễn cho một ông quan Huyện còn trẻ mới được bổ nhiệm về hạt nhà. Đứng trước sự phũ phàng chua xót, hai kẻ yêu nhau đã cùng chọn giải pháp liều lĩnh là đặt mọi người trước việc đã rồi. Nhưng trái với dự tính của bà, hội đồng gia tộc họp một lần nữa, không những không chịu chấp nhận sự việc đã rồi trên mà còn cương quyết dùng quyền thế bóp chết cuộc tình mà họ cho là bất xứng. Hậu quả của quyết định này là ông nội Nguyễn bị chính quyền bỏ tù với hoạt động chính trị. Quá uất ức trước thành kiến và sự dã man, phi nhân của gia tộc mình, bà nội Nguyễn, một đêm lén bỏ nhà ra đi. Không ai biết rõ bà cụ đi đâu. Chỉ biết hơn một năm sau, dân cư ngụ quanh khu chợ Hôm của thành phố Hà nội ghi nhận thêm sự có mặt của thiếu phụ rất trẻ, đẹp mặt dù nhan sắc đã tiều tụy, với một đứa con trai mới sinh được ba tháng, cùng cơn điên nổi lên vào mỗi buổi chiều sẩm tối. Cũng khoảng thời gian này, chính quyền tỉnh Hà Đông, làm báo cáo về trung ương rằng ông nội Nguyễn đã vượt ngục đồng thời họ phỏng đoán đã vào khu theo phò cuộc dấy binh do Tôn Thất Thuyết chủ xướng Ba Nguyễn lớn lên trước khi lập gia đình có đi khám bệnh cẩn thận, bác sĩ xác nhận thần kinh rất tốt, không có dấu hiệu nào, chứng tỏ có sự di truyền. Nhưng lúc Nguyễn được sinh ra, bệnh thần kinh mới bắt đầu thấy ló hiện. Những ngày thơ ấu, Nguyễn đã trải qua không biết bao nhiêu cơn nguy hiểm của bệnh thần kinh. Nguyễn bị động kinh, cho đến năm lên mười mới thuyên giảm và trong khoảng mười năm gần đây, nhờ khoa học tiến bộ, Nguyễn được gia đình cho chạy điện nhiều lần, bệnh cũ coi như tạm dứt. Tuy nhiên, bác sĩ không bảo đảm bệnh sẽ không có ngày tái phát. Vì biết rõ hoàn cảnh của mình, nên cho đến ngày yêu Nụ, hầu như Nguyễn chưa hề có lấy một cuộc tình nào làm vốn liếng đời mình. Thanh niên ở cái tuổi hai mươi bẩy, hai mươi tám, mà không có một tình yêu nào thì quả là một thiệt thòi lớn, một đau đớn, một bi đát không cách nào bù lấp. Không gì thảm thiết hơn cho một thanh niên, khi họ chỉ biết đàn bà, là đàn bà, qua những người đàn bà cho thuê. Nguyễn đã đinh ninh sẽ kéo dài cho đến chót cuộc, là một kẻ không tình yêu. Nguyễn cũng định đến một tuổi nào đó, Nguyễn sẽ chọn một người thiếu phụ có những kém may mắn, tương đương với cái kém may mắn của mình, để gá nghĩa, để nương nhờ nhau lúc tuổi đã gần đất xa trời. Nói như thế không có nghĩa là Nguyễn đã không có được những người con gái yêu mình. Trái lại, nhưng Nguyễn bảo, sao Nguyễn hoàn toàn lạnh lùng, hoàn toàn dửng dưng trước những bày tỏ chân thành của họ. Tâm hồn Nguyễn không một mảy may rung động. Đầu óc Nguyễn khô rang, trí tưởng Nguyễn tê liệt. Có người nghĩ lầm cho rằng: Nguyễn tự kiêu kén chọn vô lối, hoặc tệ hơn, ngu xuẩn, ngốc nghếch. Nguyễn chỉ lặng lẽ ngậm tăm, cười buồn với chính mình. Vì chỉ thâm tâm Nguyễn mới hiểu được rằng tại sao Nguyễn lại chọn thái độ đó. Nhưng khi Nguyễn gặp Nụ thì tất cả, bỗng nhiên ngược đảo. Nguyễn đã không cầm đậu lòng mình, Nguyễn đã bắt đầu thấy rõ, tâm hồn mình mở ra những cảnh trời rất lạ. Những cánh cửa bí mật ẩn sâu, trong một góc nào đó tối tăm của đời sống, của thần trí Nguyễn bỗng lớn cao, bồng bềnh, dạt trôi, những nôn nả, náo nức không tên, những thắm thiết dị kỳ, những nhớ nhung lạ mặt, những xốn xang, những bâng khuâng mà đã non nửa đời người, Nguyễn chưa từng nếm trải. Nguyễn đã yêu. Nguyễn đã có với Nụ cái mà một nhà văn mệnh danh là tình đầu đời. Phải đợi đến năm gần 30 tuổi, mới có được cái gọi là tình đầu đời, kể cũng thảm. Quả thảm thật, nhưng thảm thế còn hơn không.
Tôi cũng không biết tại đôi mắt Nụ, tại nụ cười của Nụ, tại cái khuôn dáng bé bé, xinh xinh của Nụ, hay nhờ nơi một phép mầu nhiệm nào đó, đã chắp cho Nguyễn đôi cánh lớn tuyệt vời ấy, đã mở ra cho Nguyễn thấy đâu là hạnh phúc của đời sống.
Cái may mắn của Nguyễn, không chỉ ở chỗ Nguyễn yêu mà quan trọng hơn, ở chỗ Nguyễn đã được Nụ yêu lại. Tình yêu mà Nụ dành riêng cho Nguyễn, cũng là một thứ tình đầu đời con gái. Nụ yêu Nguyễn say đắm, Nụ yêu Nguyễn nồng nàn, Nụ yêu Nguyễn đến độ lúc nào nàng cũng có thể sẵn sàng đứng lên trên tất cả. Trong tình yêu của Nụ có cái liều lĩnh của một khát khao sống thực. Trong tình yêu của Nụ, có cái chín vững, tự tin của một hãnh diện không lay chuyển. Và trong tình yêu của Nụ, cũng có cả cái ghen tuông điên cuồng của nữ tính. Thú thật, nhiều lúc tôi đã phải ghen với tình yêu, với hạnh phúc mà Nguyễn được hưởng.
Chính một trong những nguyên nhân sâu xa của sự kiện Nụ phải vào nằm nhà thương cũng chỉ vì cái bản chất phụ nữ vừa nói. Có gì đâu. Chả là nghề nghiệp đẩy Nguyễn tới chỗ quen biết với một vài người con gái khác. Nguyễn coi những người này như bạn khác. Và một đôi lần Nguyễn đã gặp Nụ cùng với một trong những người con gái quen biết kia. Vô tình. Nguyễn để chuyện này xẩy ra nhiều lần, và một phần cũng bởi nơi Nụ. Nụ gan lì, nhất định không tỏ thái độ bất mãn của mình cho Nguyễn biết. Thêm vào đấy, chuyện tôi và Khanh, vì không làm theo lời khuyên dặn trước của Nụ, khiến chuyện hai đứa bị vỡ lở. Phản ứng đầu tiên của gia đình Nụ là cấm ngăn tuyệt đối mọi sự liên lạc giữa tôi và Khanh. Vẫn chưa hết, Nguyễn còn gây nên một vụ gì đó, làm tự ái của Nụ bị tổn thương, vốn trong người yếu sẵn, trước những biến chuyển vượt ngoài khả năng kham cáng. Nụ đã ngã bệnh bất thần khi cơn uất dấy lên sau một trận rầy la, cãi vã kịch liệt với Khanh. Tất nhiên gia đình Nụ, cũng như bác sĩ không thể tìm ra căn bệnh.
Ba ngày sau khi Nụ đã vào nhà thương, chúng tôi mới tìm ra phòng Nụ.
Chiều chiều, Nguyễn rủ tôi vào thăm. Chúng tôi kéo nhau ra ngồi trên tấm băng đá trong khu vườn với những hàng găng thấp đươc cắt xén, và dưới những thân me già cỗi. Lá me vàng rụng xuống, lát mỏng con đường nhựa như những hạt cốm non cuối mỗi mùa thu Hà Nội.
Tôi ngồi đó, ngó vào lòng con lộ, ngoài hàng rào sắt, với những chiếc xe thưa thớt, lặng lẽ qua, nghĩ đến Khanh và những khó khăn sắp tới. Tôi chắc Nụ cũng hiểu tôi đến đó, trên tấm băng ghế đá đó trong khu vườn trơ trọi chỉ có những thân me cao và hạt lá cốm lả tả, là để chờ nghe tin tức Khanh, là để hy vọng một cách hão huyền Khanh tình cờ sẽ ghé. Và thảm thiết cho tôi, thỉnh thoảng xén bớt phút giây hạnh phúc của Nguyễn bên Nụ, nói với Nụ đôi ba câu có tính cách tâm sự về chuyện tình của hai đứa. Như mới chiều hôm qua, tôi được gặp Khanh, đi cùng ông cụ lại thăm Nụ. Chúng tôi không nói được một lời riêng nào với nhau. Chúng tôi cũng không thể lén cầm tay nhau lấy một giây. Chúng tôi chỉ có thể nhìn nhau bằng những cái nhìn của con mắt muốn khóc. Chúng tôi chỉ có thể cho nhau một nụ cười gượng, cái nụ cười của đôi môi hắt héo. Đã bao ngày, tôi sống như trong những giấc mơ thảng thốt nhất đời mình. Tôi bảo Nụ vậy. Nụ ái ngại quay sang phía tôi. Chẳng biết Nụ muốn nói gì, nhưng rõ ràng là đôi mắt Nụ đang nhìn tôi, cái nhìn vỗ về, cái nhìn an ủi, cái nhìn làm tôi phải cúi xuống, cúi xuống, ngó những sợi gân trên tay mình, cúi xuống, ngó những ngón tay vô tri, mỗi ngày mỗi khô khẳng, mỗi rạc dài, muốn bật ứa nước mắt. Tình yêu là bài học hay nhất dạy cho ta biết thế nào là nhẫn nhục, Nguyễn nói.
Buổi tối, chúng tôi trở lại. Cũng tấm băng ghế đá đó. Cũng những hàng cây đó, cũng những hạt lá cốm đó, cũng con đường lộ, bên ngoài hàng rào sắt, ánh điện vàng, và những ngôi nhà nín thinh, sâu trong những khoảng vườn, xòe lớn, những tàn cây dừa dại. Không có Khanh. Không có sự sống của đời tôi. Không có nụ cười trên đôi môi hắt héo. Không có cái nhìn của con mắt muốn khóc, chỉ có bóng đêm. Bóng đêm đầy hành lang bệnh viện. Bóng đêm đầy quanh ghế ngồi. Bóng đêm tràn mối oán hờn trong tôi và những lời mai mỉa cay nghiệt của một người thân trong gia đình Nụ. Bóng đêm trên đường bay của nỗi nhớ về những lần tay ôm, về những lần môi hôn, về những lần xiết ghì nghẹt thở. Tưởng không phút buông ra. Bóng đêm và con dao nhỏ trong túi quần tôi. Bóng đêm và mưu toan tìm về một cái chết, cùng lúc, cho cả hai đứa.
Ngoài hàng rào sắt, chiếc xe bán bánh mì lóc cóc ngang qua. Ngọn đèn khí đá lập lòe trong lòng kính. Gã đạp xe đang nghêu ngao ca một khúc cải lương. Chốc chốc, hắn ngửa mặt lên vòm cây xanh, cười ha hả. Thằng bé ngồi sau, trên vè sắt chắn bùn, hai tay nắm chặt yên, đầu nghoẹo về một bên, như đã ngủ từ lâu.
1668
DU TỬ LÊ
HẾT